37 PHẨM TRỢ ĐẠO
Một Toát Yếu Về Những Yếu Tố Cần
Thiết Cho Sự Giác Ngộ
Ngài Hoà
Thượng LEDI SAYADAW
Phạm Kim Khánh dịch
Lời nói
đầu của vị chủ biên "The Wheel Publication --
Kandy"
Với quyển sách nầy chúng tôi xin giới
thiệu đến quư đọc giả một bài
viết của vị học giả nổi tiếng
người Miến Điện, cố Đại Đức Ledi
Sayadaw, mà "Tiểu Sử" đă được
"Phác Họa" trong một tác phẩm của Ngài, (theo
loại "The Wheel", số 31/32) tựa đề
"A Manual of Insight" (Vipassanà D́panà).
Chúng tôi tin rằng đây là một trong những
tác phẩm về Giáo Pháp (Dhamma) hữu ích nhất mà
chúng tôi được hân hạnh ấn hành trong loại
"The Wheel". Chẳng những sách nầy cung ứng
một di sản tài liệu Giáo Huấn phong phú trên nhiều
phương diện mà c̣n là một khích động
mạnh mẽ thúc giục ta nhiệt thành tận lực
hướng về Mục Tiêu. V́ lẽ ấy chúng tôi
muốn giới thiệu và ước mong quư vị
đọc giả nên cặn kẻ suy tư và thận
trọng nghiền ngẩm.
Bản nầy đă được ấn hành
trong tạp chí "The Light of the Dhamma" (Rangoon), tiếc
thay nhà xuất bản nầy đă ngưng hoạt
động. Nơi đây chúng tôi xin tri ân quư vị trong
"The Union of Burma Buddha Sàsana Council, Rangoon" đă cho phép
chúng tôi phát hành trở lại.
Nhằm giúp đọc dễ dàng, trong bản
nầy nhiều danh từ Pàli được dùng trong
bản chánh đă được bổ túc hoặc thay
thế bằng Anh ngữ tương đương.
Chương cuối cùng được thâu ngắn
gọn. Ngoài ra có rất ít sửa đổi.
Trong bản chánh, danh từ bodhipakkhiya-dhamma
được chuyển sang Anh ngữ là "Factors Leading
To Enlightenment" (Những Yếu Tố Dẫn Đến
Sự Giác Ngộ). Tuy nhiên câu nầy giống nhiều câu thường
được dùng khi đề cập đến chữ
bojjhanga, "Factors of Enlightenment" (Những Yếu Tố
Của Sự Giác Ngộ) (Xem chương VII ). Do đó tựa
sách của bản dịch nguyên thủy được
đổi là "The Requisites of Enlightenment" (Những
Yếu Tố Cần Thiết Cho Sự Giác Ngộ). ư nghĩa
đôi chút khác biệt nầy được chọn
nhằm chỉ rằng sách không đề cập
đến những yếu tố toàn hảo của sự
Giác Ngộ (bodhi) mà là cố gắng hướng
đến gần mục tiêu, bằng cách gia công chuyên
cần thực hành nhóm bảy phẩm hạnh gọp chung
là 37 bodhipakkhiya-dhamma.
Nyanaponika Mahathera
Chủ Biên, "The Wheel"
Kandy, Ceylon
31 tháng Ba, 1971
-ooOoo-
Phần Nhập Đề
Thể theo lời yêu cầu của Pyinmana Myo-ok
Maung Po Mya và Trader Maung Hla, trong tháng Nayon, 1266 Kỷ Nguyên
Miến Điện (tháng 6, 1904 D.L.), Sư sẽ tŕnh bày
ngắn gọn ư nghĩa và mục đích của ba
mươi bảy Bodhipakkhiya-dhamma, Yếu Tố
Thiết Yếu Của Sự Giác Ngộ (thường
được gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo, hay 37
Bồ Đề Phần).
Bốn Hạng
Người Có Khả Năng Thành Tựu Con Đường
Trong bộ Puggala-Pannatti, Nhân Thi Thuyết
(sách phân hạng những cá tính, 160, của Tạng
Luận, Abhidhamma Pitaka) và trong Anguttara Nikàya,
Tăng Nhứt A Hàm (Những Con Số Bốn, số 133)
có lời dạy rằng trong số những chúng sanh
được gặp "Giáo Huấn của Đức
Phật" (Buddha Sàsana), có thể phân làm bốn
hạng.
1.
Ugghàtitannu,
2. Vipancitannu,
3. Neyya, và
4. Padaparama.
Trong bốn hạng chúng sanh
nầy Uggahàtitannu là hạng "hiểu
được tức khắc", người đă
gặp một vị Phật [1] và có đủ khả
năng thành tựu Đạo và Quả sau khi chỉ nghe Ngài
giảng một thời pháp ngắn gọn.
Vipancitannu là hạng chúng sanh
không đủ khả năng thành tựu Đạo Quả sau
khi nghe một thời Pháp ngắn do Đức Phật
giảng, nhưng có đủ khả năng chứng
ngộ Đạo Quả khi thời Pháp ngắn kia
được giảng rộng thêm.
Neyya là hạng chúng sanh
không thể chứng đắc Đạo Quả khi
được nghe một thời Pháp ngắn do Đức
Phật giảng hoặc khi nghe thời Pháp ấy
được giảng rộng thêm nhưng cần
phải học hỏi, thận trọng ghi chép, và
nghiền ngẫm suy tư về những lời dạy
được tŕnh bày rồi đem ra tu tập thực
hành nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm, mới có
thể thành tựu Đạo Quả.
Hạng Neyya nầy có thể
lại được phân làm nhiều hạng tùy theo
thời gian tu tập cần thiết của mỗi
người để có thể chứng đắc
Đạo Quả, và hơn nữa, tùy thuộc số
lượng ba-la-mật (pàrami), và số ô nhiễm (kilesa)
mà mỗi người đă tích trữ trong luồng
nghiệp. Những hạng cá tính nầy bao gồm một
đàng, những người phải cần một
thời gian bảy ngày và đàng khác, những vị
phải cần đến ba mươi hoặc sáu
mươi năm chí công tu tập thực hành.
Cũng có những hạng chúng
sanh khác, thí dụ như trường hợp những
vị chỉ cần phải thực hành trong bảy ngày;
những vị nầy có thể thành tựu được
Đạo Quả A La Hán nếu cố gắng chuyên cần
trong thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ
nh́ [2] của đời sống, nhưng không thể
vượt quá hơn hai tầng Thánh đầu nếu
chỉ đến thời kỳ thứ ba mới chuyên
cần tinh tấn.
Lại nữa, khi nói "chuyên
cần tinh tấn trong bảy ngày", điều nầy
có nghĩa là phải tận lực cố gắng, vận
dụng hết mọi khả năng để thành
tựu mục tiêu. Nếu không tinh tấn đến
mức độ cao nhất, thời gian tinh tấn
cần thiết sẽ kéo dài tùy thuộc t́nh trạng
dể duôi, buông lơi tinh tấn, và bảy ngày có thể
trở nên bảy năm hay hơn nữa.
Nếu t́nh trạng tinh tấn
chuyên cần trong kiếp sống nầy không đủ
mạnh để có thể thành tựu Đạo và Quả,
ắt không thể giải thoát ra khỏi những khổ
đau của đời trong thời kỳ Giáo Huấn
của vị Phật hiện tiền [3] c̣n
được lưu truyền trong thế gian. Trong khi
ấy cầu mong được giải thoát nhờ Giáo
Huấn của vị Phật tương lai (future Buddha
Sàsana), chỉ có thể thành tựu nếu ta hội
đủ duyên lành gặp được Giáo Huấn
ấy. Không gặp Giáo Huấn của một vị
Phật không thể giải thoát. Chỉ có trường
hợp những vị nào đă được một
vị Phật thọ kư (niyata vyàkarana, lời tiên tri
chắc chắn của một vị Phật) mới
chắc chắn sẽ gặp Giáo Huấn của một
vị Phật (Buddha Sàsana) và giải thoát.
Người không được một vị Phật
thọ kư (niyata vyàkarana) không thể chắc chắn
sẽ gặp được Giáo Huấn của một
vị Phật (Buddha Sàsana) hay thành tựu giải thoát
ra khỏi mọi khổ đau của thế gian, dầu
đă có tích trữ đầy đủ ba-la-mật (pàrami)
để có thể gặp cả hai -- Giáo Huấn của
một vị Phật và giải thoát. Trên đây là những
vấn đề liên quan đến người có khả
năng chứng ngộ Đạo và Quả bằng cách chuyên
cần tinh tấn trong bảy ngày, nhưng không
được có một vị Phật thọ kư.
Những vấn đề
tương tợ áp dụng cho trường hợp
những người có khả năng thành tựu Đạo
và Quả bằng cách cố gắng trong mười lăm
ngày hoặc một thời gian dài hơn.
Padaparama là người,
mặc dầu được gặp Giáo Huấn của
một vị Phật (Buddha Sàsana) và mặc dầu
đă tận lực học hỏi và thực hành Giáo Pháp,
vẫn không thể chứng đắc Đạo và Quả
trong kiếp sống hiện tiền. Tất cả những
ǵ người nầy có thể làm được chỉ
là tạo cho ḿnh một thói quen tốt và những khả
năng tiềm ẩn (vàsanà).
Một người như thế
đó không thể thành tựu giải thoát ra khỏi
khổ đau của thế gian trong kiếp sống
nầy. Nếu ĺa đời trong khi đang hành samatha,
thiền vắng lặng, hay vipassanà, thiền minh sát, và tái
sanh và cảnh người hay cảnh trời, vị
ấy có thể thành đạt giải thoát trong kiếp
kế, trong Giáo Huấn của vị Phật hiện
tại. Đức Phật tuyên ngôn như trên về vấn
đề bốn hạng cá tính.
Ba
Loại Bệnh Nhân
Cũng theo những nguồn kinh
điển được đề cập trên đây
Đức Phật nêu lên một phân hạng chúng sanh khác, chia
làm ba hạng giống như ba loại bệnh nhân [4],
đó là:
(1) Một loại bệnh nhân
chắc chắn sẽ được lành bệnh đúng
lúc, dầu không uống thuốc hay được chữa
trị.
(2) Một bệnh nhân chắc
chắn sẽ không được phục hồi và sẽ
chết v́ chứng bệnh, dầu chữa trị và
uống thuốc cách nào.
(3) Một bệnh nhân sẽ
được phục hồi nếu thuốc men thích nghi,
được chữa trị đầy đủ và
đúng mức, nhưng sẽ không được phục
hồi và sẽ chết nếu không dùng đúng thuốc và
chữa trị thích nghi.
Đó
là ba loại bệnh nhân.
Những người đă
được một vị Phật quá khứ thọ kư (niyata
vyàkarana), và như vậy chắc chắn sẽ giải
thoát trong kiếp sống nầy, giống như loại
bệnh nhân đầu tiên.
Người ở hạng padaparama
giống như loại bệnh nhân thứ nh́. Giống
như loại bệnh nhân thứ nh́ không hy vọng
được chữa trị, người hạng padaparama
không thể có hy vọng được giải thoát ra
khỏi những khổ đau của đời sống.
Tuy nhiên, trong những kiếp sống tương lai vị
ấy có thể giải thoát, hoặc trong Giáo Huấn
của Đức Phật hiện tiền, hoặc trong Giáo
Huấn của một vị Phật tương lai. Câu
chuyện của chàng thanh niên Chattamànava [5], của con
ếch trở thành một vị trời và của
đạo sĩ Saccaka [6] là trường hợp
của những chúng sanh đă giải thoát trong kiếp
kế liền sau kiếp hiện tại, trong Giáo Huấn
của vị Phật hiện tại.
Chúng sanh hạng Neyya
giống như loại bệnh nhân thứ ba. Cũng
giống như một bệnh nhân trong loại thứ ba có
thể, hoặc được phục hồi t́nh
trạng sức khoẻ, hoặc phải chết v́
bệnh, cùng thế ấy chúng sanh hạng Neyya có
thể, hoặc được giải thoát ra khỏi
những khổ đau của thế gian trong kiếp
hiện tại, hoặc sẽ không giải thoát.
Nếu một người ở
hạng Neyya, hiểu biết điều ǵ là tốt
cho ḿnh, hợp theo tuổi tác, lánh xa những ǵ cần
phải xa lánh, t́m đúng thầy, thực hành đúng theo
sự hướng dẫn chân chánh của thầy và tinh
tấn chuyên cần đúng mức, vị ấy sẽ có
thể giải thoát ngay trong kiếp hiện tiền. Tuy
nhiên, nếu vị ấy khư khư chấp thủ tà
kiến và tà mạng; nếu tự ḿnh không thể lánh xa
dục lạc; nếu mặc dầu có thể xa lánh
dục vọng nhưng không được sự
hướng dẫn của một vị thầy tốt;
nếu mặc dầu có được sự hướng
dẫn của một vị thầy tốt nhưng không
thể chuyên cần tinh tấn đúng mức; nếu
mặc dầu muốn cố gắng tu tập nhưng
không thể thực hành v́ tuổi tác quá cao; nếu mặc
dầu tuổi c̣n trẻ nhưng phải ươn
yếu bệnh hoạn, ắt không thể giải thoát
trong kiếp hiện tại. Vua Ajàtasattu (A Xà Thế)
[7], con của trưởng giả triệu phú Mahàdhana
[8], Tỳ Khưu Sudinna [9], là trường hợp
những vị không thể giải thoát trong kiếp
hiện tiền.
Vua Ajàtasattu không giải thoát
được v́ phạm tội giết cha. Được
biết rằng ông phải lăn trôi lặn hụp trong
ṿng luân hồi (samsàra, ṿng quanh những kiếp sinh
tồn) trong thời gian hai a-tăng-kỳ (asankheyyas),
và sau đó trở thành một vị Paccekabuddha,
Độc Giác Phật.
Con của trưởng giả
triệu phú Mahàdhana có thói quen quá đổi lợi
dưỡng trong nhục dục ngũ trần lúc thiếu
thời nên không thể thành tựu tâm vắng lặng khi
niên cao tuổi lớn. Con đường giải thoát xa
xôi diệu vợi, chí đến cơ hội sống quen
thuộc với Tam Bảo, Ti-Ratana [10] anh cũng không
được có. Khi thấy t́nh trạng khốn khổ
của anh Đức Phật nói với Đức Ananda:
"Nầy Ananda, nếu con của nhà triệu phú kia
xuất gia, trở thành một tỳ khưu trong Giáo
Huấn (Sàsana) của Như Lai trong thời son
trẻ, thời kỳ thứ nhất của cuộc
đời, anh ta đă chứng ngộ Đạo Quả A-La-Hán
và sẽ nhập Đại Niết Bàn (Parinibbàna) [11] trong
kiếp sống nầy. Nếu xuất gia, trở thành
tỳ khưu vào thời kỳ thứ nh́ của
đời sống, anh ta đă là một vị A-Na-Hàm (Anàgàmi,
Bất Lai) [12] và khi chết sẽ tái sanh vào cảnh Vô Phiên
Thiên (Suddhàvàsa brahma loka) [13] của các vị Phạm
Thiên, rồi từ đó chứng đắc Đạo
Quả A-La-Hán và nhập Đại Niết Bàn (Parinibbàna).
"C̣n một trường
hợp khác nữa, nếu xuất gia sống đời
tỳ khưu trong Giáo Huấn của Như Lai vào
đầu thời kỳ thứ ba của đời
sống, anh ta sẽ chứng đắc hoặc
Tư-Đà-Hàm (Sakadàgàmi, Nhứt Lai) -hoặc Tu-Đà-Huờn
(Sotàpanna, Nhập Lưu) và đă vĩnh viễn không
c̣n bao giờ tái sanh vào khổ cảnh (apàya lokas)"
[14]. Đức Thế Tôn nói với Ngài Ananda như
vậy. Mặc dầu con của nhà trưởng giả
triệu phú đă có tích trữ ba-la-mật (pàrami)
đủ chín mùi để làm cho kiếp sống hiện
tại là cuối cùng, nhưng v́ không có được
một vị Phật "thọ kư" (niyata vyàkarana),
nên không có ǵ bảo đảm chắc chắn rằng
những ô nhiễm c̣n tiềm tàng trong ḍng nghiệp của
anh không nổi dậy mạnh mẽ, v́ thế dầu có
được duyên may gặp Giáo Huấn của một
vị Phật (Buddha Sàsana) anh không thể thành tựu
giải thoát ra khỏi khổ đau của ṿng luân
hồi. Nếu kiếp sống của anh trong khổ
cảnh (apàya loka) c̣n kéo dài v́ những hành động
bất thiện trong kiếp hiện tại anh ta sẽ
không thể thoát khỏi những cảnh khổ (apàya
loka) vào thời kỳ Giáo Huấn của Đức
Phật Di Lạc, Metteya, vị Phật tương
lai. Và sau đó, c̣n vô số những châu kỳ không
được có một vị Phật [15]. Bất
hạnh thay! Quả thật c̣n xa, rất xa vời, thời
kỳ mà con nhà triệu phú trưởng giả có thể
giải thoát, mặc dầu trong hiện tại anh đă có
tích trữ đủ ba-la-mật để giải thoát
trong kiếp nầy.
Thông thường, ngày nay
người ta nghĩ rằng nếu đă có tạo
đủ ba-la-mật ta sẽ không mất cơ hội, mà
chắc chắn sẽ gặp Giáo Huấn của một
vị Phật (Buddha Sàsana), dầu muốn dầu
không, và ta sẽ vượt thoát ra khỏi mọi khổ
đau của những kiếp sinh tồn, chắc như
vậy, dầu có muốn giải thoát hay không. Những
người nầy quên để ư rằng có niyata (tức
được một vị Phật thọ kư) và aniyata (không
được có một vị Phật thọ kư). Xét theo
hai bài trong Tam Tạng Kinh Điển (Tipitaka) được
nêu trên và câu chuyện con nhà triệu phú, ta nên nhớ
rằng người không được một vị
Phật thọ kư, aniyata neyya, chỉ có thể
giải thoát ra khỏi khổ đau của đời
sống khi tận lực chuyên cần đầy
đủ tinh tấn, dầu đă có ba-la-mật (pàrami)
tích trữ đầy đủ để thành tựu
giải thoát. Nếu thiếu chuyên cần và tinh tấn,
không thể thành tựu Đạo và Quả trong thời
kỳ Buddha Sàsana nầy.
Ngoài những hạng người
nầy c̣n có vô số chúng sanh khác, như đạo sĩ Alàra
và Uddaka (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 28) đă có tích
trữ đủ ba-la-mật để giải thoát
nhưng không may phải sanh trưởng nhằm một
trong tám nơi không thuận tiện (atthakkhanas) [16],
những nơi mà ta không thể thành tựu Đạo và
Quả.
Những
Điều Kiện Thực Hành Cần Thiết Cho Hạng Neyya
và Padaparama
Trong bốn hạng chúng sanh
được kể ở phần trên, hạng Ugghàtitannù
và hạng Vipancitannù có thể chứng đắc Sotàpatti-magga
(Tu-Đà-Huờn Đạo) và những tầng trí tuệ cao siêu
hơn -- như Bà Visàkhà và trưởng giả Cấp
Cô Độc, Anàthapindika [17] khi chỉ nghe thuyết
giảng Giáo Pháp một lần. Những vị ấy không
cần phải thực hành Giáo Pháp qua những giai
đoạn Thanh Tịnh, như Giới Tịnh (śla-visuddhi),
tâm tịnh (citta-visuddhi) v.v... Cũng nên nhắc
lại rằng đây cũng là trường hợp
giải thoát của chư Thiên và chư Phạm Thiên.
Do vậy nên ghi nhận rằng
pháp hành như giới tịnh (śla visuddhi) và tâm
tịnh (citta visuddhi) được dạy trong Kinh
Điển Pàli chỉ áp dụng cho hai hạng chúng sanh Neyya
và Padaparama trước khi những vị nầy
chứng đắc Sotàpatti-magga (Tu-Đà-Huờn Đạo).
Pháp hành nầy cũng dành cho ba hạng người
trước khi thành đạt các tầng Đạo và Quả
cao siêu. Vào thời kỳ mới thành tựu A La Hán Quả
cũng vậy, các Ngài cũng áp dụng pháp hành nầy
nhằm mục đích dittha-dhamma-sukha-vihàra (an trụ
thoải mái trong cuộc sống hiện tại) [18],
bởi v́ vị A La Hán đă trải qua những giai
đoạn của pháp hành nầy.
Sau khi ngàn năm đầu tiên
(của nền Phật Giáo -- Buddha Sàsana -- hiện
tại) đă trôi qua, vốn là thời kỳ của
chư vị Patisambhidhà-patta (A-La-Hán với Trí Tuệ
Phân Tách), chỉ c̣n hai hạng chúng sanh Neyya và Padaparama.
Ngày nay chỉ c̣n có hai hạng chúng sanh nầy.
Neyya-puggala
Trong hai hạng chúng sanh nầy,
những vị ở hạng Neyya có thể chứng
đắc tầng Nhập Lưu (sotàpanna,
Tu-Đà-Huờn) trong kiếp sống nầy nếu cẩn
trọng và nhiệt thành thực hành bodhipakkhiya dhamma (ba
mươi bảy Pháp Trợ Đạo, hay 37 Bồ Đề
Phần) như satipatthàna (Tứ Niệm Xứ), sammappadhàna
(Tứ Chánh Cần) v.v... Nếu hờ hững dể duôi
trong pháp hành, vị nầy chỉ có thể chứng
đắc Đạo và Quả Sotàpanna (Tu Đà Huờn) trong
kiếp kế, sau khi tái sanh vào cảnh trời (deva).
Nếu ở trong cảnh giới sau nầy mà c̣n lánh xa,
không thực hành các pháp Trợ Đạo (bodhipakkhiya)
như Tứ Niệm Xứ v.v... vị nầy sẽ hoàn
toàn mất cơ hội trong Giáo Huấn của vị
Phật hiện tại (Buddha Sàsana), nhưng vẫn có
thể thành tựu giải thoát nếu được duyên
may gặp Giáo Huấn của vị Phật tương
lai.
Padaparama-puggala
Một vị trong hạng Padaparama
có thể thành tựu giải thoát trong kiếp tới, trong
Giáo Huấn của vị Phật hiện tại, sau khi tái
sanh vào một cảnh trời (deva loka) và thành tâm
thực hành những Phẩm Trợ Đạo (Bodhipakkhiya).
Thời Đại Chư Thánh Nhân
Vẫn C̣n
Thời gian năm ngàn năm
của vị Phật hiện tại bao gồm Thời
Đại Chư Thánh Nhân. Thời Đại Chư Thánh Nhân
nầy sẽ tồn tại ngày nào mà Tam Tạng Kinh
Điển (Ti-pitakas) c̣n lưu truyền trên thế gian.
Hạng chúng sanh padaparama nên nhân cơ hội
được gặp Phật Giáo (Buddha Sàsana)
để tích trữ mầm mống hay hột giống
ba-la-mật càng nhiều càng tốt trong kiếp sống
nầy. Phải tích trữ hột giống śla
(giới). Phải tích trữ hột giống samàdhi
(định). Phải tích trữ hột giống pannà (tuệ).
Giới (Śla)
Trong ba loại tích trữ, śla
(Giới), samàdhi (Định), pannà (Tuệ), hột
giống śla có nghĩa: Panca Śla [19], Aj́vatthamaka
Śla [20], Atthànga Uposatha Śla [21], Dasanga Śla [22]
đối với nam nữ tại gia cư sĩ, và Bhikkhu
Śla [23] đối với hàng xuất gia.
Định (Samàdhi)
Hột giống Định (samàdhi)
có nghĩa là những cố gắng để thành tựu parikamma-samàdhi
(tạm định, định sơ khởi, hay trạng
thái chuẩn bị nhập định) bằng cách áp
dụng một trong bốn mươi đề mục
hành thiền như mười kasinas (những
dụng cụ để chú tâm vào), hoặc nếu có
thể chuyên cần tinh tấn hơn, thành tựu upacàra-samàdhi
(cận định) hoặc tinh tấn chú tâm hơn
nữa, thành tựu appanà-samàdhi (toàn định).
Tuệ (Pannà)
Hột giống trí tuệ (pannà)
có nghĩa là trau giồi khả năng phân tách những
đặc tính và những phẩm chất của rùpa
(sắc, những hiện tượng vật chất), nàma
(danh, những hiện tượng tâm linh), khandhà (uẩn,
các nhóm cấu thành cuộc sống), àyatana (căn, sáu
cửa giác quan), dhàtu (nguyên tố, hay thành phần
căn bản cấu thành vật chất, tứ
đại), sacca (chân lư, hay diệu đế), và paticcasamuppàda
(duyên khởi, hay phát sanh do điều kiện) cùng
với công phu trau giồi minh sát về ba đặc
tướng của đời sống (lakkhana)
tức là anicca (vô thường), dukkha (khổ), anattà
(vô ngă).
Trong ba loại hột giống
của Đạo Tuệ (magga-nàna) và Quả Tuệ (phala-nàna)
[24], śla (giới) và samàdhi (định) cũng
tương tợ như những món đồ trang sức
thường xuyên tô điểm thế gian cho đến
thời kỳ không có Phật Giáo (sunna, hư không,
tức chu kỳ thế gian không có Phật, thời kỳ
không có giáo huấn của một vị Phật). Hột
giống giới và định có thể được
thành đạt bất luận lúc nào. Nhưng hột
giống pannà (trí tuệ), liên quan đến rùpa,
nàma, khandha, àyatana, dhàtu, sacca, và paticcasamuppada
(sắc, danh, ngũ uẩn, lục căn, tứ
đại, diệu đế và pháp thập nhị duyên
khởi) chỉ được có trong thời kỳ có giáo
huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana).
Ngoài thời kỳ có Phật Giáo (Buddha Sàsana) -- xuyên
qua vô số "sunna" tức chu kỳ thế gian
không có Phật Giáo -- không thể có cơ hội để
nghe những lời nói liên quan đến pannà (trí
tuệ), dù chỉ nghe thoáng qua. Do đó, người có
được duyên may tái sanh ngày nay trong thế gian
nầy, trong khi Giáo Huấn của một vị Phật
c̣n đang lưu truyền thịnh vượng, nếu
muốn tích trữ hột giống của Đạo Tuệ
và Quả Tuệ nhằm bảo đảm sự giải
thoát ra khỏi những đau khổ trong một kiếp
sống tương lai, phải đặc biệt thận
trọng chú tâm đến paramatha [25] (chân đế,
chân lư cùng tột), vốn rất khó gặp, vô cùng khó
hơn là tích trữ hột giống śla (giới) và samàdhi
(định). Tối thiểu ta phải cố gắng
thấu hiểu rơ ràng phương cách mà Tứ Đại (mahà-bhùta)
-- pathav́, àpo, tejo, và vàyo [26] -- cấu thành cơ thể
vật chất nầy. Nếu minh sát hiểu biết
tận tường bốn nguyên tố nầy ắt ta thâu
hoạch một số khá nhiều những hột
giống trí tuệ (pannà), vốn rất khó thành
đạt, mặc dầu chưa thấu đạt
tuệ giác nào trong những phần khác của Abhidhamma,
Vi Diệu Pháp. Có thể nói rằng sự kiện khó
được tái sanh vào thời kỳ có Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) đáng cho ta
gia công.
Vijjà (Minh) và Carana
(Hạnh)
Śla (giới) và samàdhi
(định) hợp thành carana (Hạnh) trong khi pannà
là vijjà (Minh). Như vậy, giới, định,
tuệ là Minh Hạnh. Minh (vijjà) giống như đôi
mắt của chúng sanh, Hạnh (carana) như cặp
chân. Vijjà giống như mắt của chim, carana
như cánh. Người có đủ Giới và Định
nhưng thiếu Tuệ giống như có đầy
đủ hai chân nhưng mù mắt. Người có Minh (vijjà)
nhưng thiếu Hạnh (carana) giống như có
mắt tốt nhưng hai chân bệnh tật. Một
người có đầy đủ cả hai, Minh (vijjà)
và Hạnh (carana), giống như người
đầy đủ hai mắt sáng và cặp chân khoẻ
mạnh. Thiếu cả hai, Minh và Hạnh, th́ giống
như người mù mà chân cẳng què quặt, không đáng
được gọi là người.
Hậu Quả Của T́nh Trạng
Chỉ Có Carana (Hạnh)
Trong những chúng sanh cùng chung
sống vào thời kỳ có Giáo Huấn của một
vị Phật (Buddha Sàsana), có những người
đầy đủ Giới và Định, nhưng không có
hột giống Minh (vijjà), như tuệ minh sát
hiểu thấu bản chất của sắc pháp, danh pháp
và ngũ uẩn. V́ có Hạnh dơng mănh, những vị
nầy có nhiều triển vọng sẽ gặp Giáo Huấn
của một vị Phật tương lai, nhưng v́
thiếu hột giống Minh, họ không thể thành
đạt Giác Ngộ, mặc dầu có được nghe
lời thuyết giảng của chính vị Phật
tương lai.
Họ cũng giống như
Đại Đức Làludàý [27], Đại Đức Upananda
[28], những vị tỳ khưu Chabbagǵya [29], và Vua
xứ Kosala [30], tất cả những người
đă sống dưới thời Đức Phật Toàn Giác.
Nhờ trong những kiếp sống quá khứ đă tích
trữ nhiều Hạnh (carana) tốt như bố
thí và tŕ giới nên các vị nầy có được
cơ hội sống liên hợp với Đức Phật
Tối Thượng, nhưng v́ thiếu tích trữ hột
giống Minh (vijjà) nên những lời dạy của
Đức Phật mà các vị ấy thường nghe trong
kiếp nầy thất bại, như đă rơi vào tai
điếc.
Hậu Quả Của
Trường Hợp Chỉ Có Vijjà (Minh)
Có những người khác đă
tích trữ đầy đủ hột giống Minh (vijjà)
như thấu hiểu sắc pháp và danh pháp và các uẩn,
nhưng thiếu Hạnh (carana) như bố thí (dàna),
thường xuyên tŕ giới (nicca śla) và giữ bát
quan trong những ngày giới (uposatha śla). Nếu
những vị nầy có duyên may gặp được
Đức Phật vị lai và nghe những thời Pháp do Ngài
thuyết giảng ắt có thể Giác Ngộ v́ có
đủ Minh (vijjà), nhưng v́ thiếu Hạnh (carana)
nên rất khó, cực kỳ hiếm hoi cho các vị nầy
có cơ hội gặp vị Phật tương lai.
Như thế bởi v́ có một antara-kappa (chu kỳ
thế gian) giữa Buddha Sàsana, Giáo Huấn của
Đức Phật hiện tại và vị Phật kế
đó.
Vào khoảng thời gian ấy,
các vị thiếu Hạnh (carana) kể trên lang thang
bất định trong Dục Giới, có nghĩa là các
vị ấy phải lặn hụp lăn trôi trong một
chuỗi dài những kiếp sống và tái sanh, sanh-tử,
tử-sanh. Cơ hội gặp được vị
Phật tương lai chỉ có thể thành tựu nếu
những kiếp sống ấy ở trong lạc cảnh
[31]. Nếu trong thời gian ấy chẳng may phải sa
đọa vào bốn cảnh khổ [32] th́ cơ hội
gặp được vị Phật tương lai đă
mất, rất khó t́m lại được, bởi v́
một kiếp sống trong Khổ Cảnh thường
đưa đến một cảnh giới khác trong
bốn cảnh khổ, triền miên liên tục kéo dài.
Những người trong kiếp
sống nầy thiếu công đức bố thí (dàna),
không giữ ǵn trong sạch hành động bằng thân,
không thận trọng thu thúc lời nói, và có những tư
tưởng nhơ bẩn nhiễm ô, và như vậy
thiếu Hạnh (carana), có chiều hướng
mạnh mẽ sẽ tái sanh vào một trong Bốn Khổ
Cảnh sau khi chết. Nếu may nhờ một vài
nghiệp tốt nào đă tạo, người ấy
được tái sanh vào một trong những cảnh
giới nhàn lạc (suggati-loka), bất luận ở
cảnh giới nào mà người ấy tái sanh vào, v́
thiếu Hạnh (carana) trong quá khứ như bố
thí (dàna), người ấy cũng thiếu thốn
và rất có thể gặp nhiều khó khăn, thử thách
và nhiều nỗi khổ tâm trong cuộc sinh sống, do
đó có chiều hướng tạo nghiệp bất
thiện và tái sanh vào khổ cảnh (apàya lokas).
Bởi v́ thiếu Hạnh (carana) như thường
xuyên hành tŕ các giới căn bản và bát quan trai giới (uposatha
śla), những người ấy có thể gặp
rất nhiều cơ hội để căi vă, tranh chấp,
sân hận, thù oán, trong cuộc sống khi giao dịch
với người khác, lại có thể c̣n thường
bị ốm đau ươn yếu, và như vậy
gặp nhiều cơ hội có chiều hướng làm cho
ḿnh gây nhiều bất thiện nghiệp và sa đọa
vào khổ cảnh (apàya loka). Như vậy
người ấy sẽ kinh nghiệm những hoàn
cảnh đau thương trong mỗi kiếp sống,
sẽ tích tụ những khuynh hướng tâm tánh bất
thiện, và do đó gây nhiều trở ngại trong
kiếp sống ở lạc cảnh (suggati loka) và
tạo những nhân bất thiện có chiều
hướng đưa tái sanh vào khổ cảnh (duggati
loka). Như vậy hy vọng được gặp
vị Phật tương lai của người thiếu
Hạnh (carana) quả thật hiếm hoi.
Điểm Chánh Yếu
Tóm lược, điều chánh
yếu là, chỉ khi nào ta hội đủ những
hột giống Minh (vijjà) và Hạnh (carana)
mới có thể giải thoát ra khỏi những khổ
đau của đời sống trong một kiếp
tới. Nếu chỉ có hột giống Minh (vijjà),
thiếu hột giống Hạnh (carana) như bố
thí và tŕ giới, ta sẽ không được bảo
đảm có cơ hội gặp Giáo Huấn của
vị Phật tương lai, Buddha Sàsana. Nếu
đàng khác, hội đủ những hột giống
Hạnh (carana) nhưng thiếu hột giống Minh (vijjà),
mặc dầu ta có thể gặp được Giáo
Huấn của vị Phật tương lai, nhưng không
thể giải thoát. Do đó những người ở
hạng padaparama ngày nay, dầu nam hay nữ, có chú
nguyện được gặp Giáo Huấn của vị
Phật tương lai, phải cố gắng tích trữ
trong thời Phật Giáo, Buddha Sàsana, hiện tại
những hột giống Hạnh (carana) bằng cách
thực hành bố thí (dàna), tŕ giới (śla), và
thiền vắng lặng (samatha bhàvanà), và cũng
phải, tối thiểu, cố gắng minh sát Bốn
Nguyên Tố Chánh Yếu Căn Bản, Tứ Đại,
nhờ đó được bảo đảm sẽ
gặp Giáo Huấn của vị Phật tương lai, và
khi đă gặp, có hy vọng sẽ thành tựu giải
thoát.
Khi nói rằng dàna, bố thí,
là Hạnh (carana), bố thí nằm trong phân hạng saddhà
(đức tin), vốn là một trong những saddhammas,
bảy phẩm hạnh thực tiễn của
người tốt, lại một lần nữa nằm
trong mười lăm carana-dhammas, hạnh pháp.
Mười lăm carana-dhammas là:
1. Śla
(Giới);
2. Indriya-samvara (thu thúc lục căn);
3. Bhojane mattannutà (ẩm thực độ
lượng):
4. Jàgariyànuyoga (tỉnh thức):
5-11. Saddhamma (bảy đặc tính của
người tốt và có đức hạnh);
12-15. Bốn Jhànas (Tứ Thiền, bốn tầng
Thiền Sắc Giới).
Mười lăm pháp kể trên
là đặc tính của người chứng đắc
tầng Thiền cao nhất (jhànalàbhi). Vị hành
giả chỉ hành thiền minh sát (sukkhavipassaka) [33]
phải có mười một hạnh pháp (catarana-dhammas)
[34], tức mười lăm trừ bốn tầng
Thiền (Jhànas). Người có chú nguyện muốn
gặp Giáo Pháp của vị Phật tương lai (Buddha
Sàsana) cần thiết phải thực hành đầy
đủ bố thí, tŕ giới và bảy pháp saddhammas
(phẩm hạnh của người tốt).
Những ai muốn thành
đạt các Đạo và Quả trong chính kiếp sống
hiện tại phải hội đủ mười
một hạnh pháp (carana-dhammas) đầu tiên: śla,
indriyasamvara, bhojane mattannutà, jàgariyànuyoga, và bảy saddhammas.
Nơi đây śla, giới, có nghĩa là Aj́vatthamaka
nicca śla (Thường xuyên thực hành chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng), Indriyasamvara có nghĩa thu thúc
lục căn -- nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư. Bhojane
mattannutà là ẩm thực có độ lượng,
chỉ lấy thức ăn vừa đủ để
làm cho cơ thể được quân b́nh. Jàgariyànuyoga
có nghĩa là không ngủ ngày, và chỉ ngủ một canh
trong đêm [35] , trong hai canh c̣n lại th́ thực hành bhàvanà
(hành thiền, trau giồi tâm).
Saddhamma có
nghĩa bảy phẩm hạnh của người
tốt:
1. Saddhà
(đức tin),
2. Sati (niệm),
3. Hiri (hổ thẹn tội lỗi),
4. Ottappa (ghê sợ hậu quả của tội
lỗi),
5. Bàhusacca (học nhiều hiểu rộng),
6. Viriya (tinh tấn),
7. Pannà (trí tuệ).
Người muốn chứng
ngộ Đạo và Quả Sotàpannas (Tu-Đà-Huờn) trong
kiếp sống hiện tại không đặc biệt
cần thiết phải thực hành hạnh bố thí (dàna).
Nhưng những ai tự biết ḿnh không đủ
khả năng chuyên cần tinh tấn để có thể
giải thoát trong thời kỳ Giáo Huấn của vị
Phật hiện tại phải đặc biệt cố
gắng thực hành dàna, hạnh bố thí, và uposatha-śla,
bát quan trai giới trong những ngày giới.
Thứ Tự Thực Hành Và
Những Người Mong Chờ Vị Phật Tương
Lai
V́ công phu thực hành của
những vị c̣n tùy thuộc và mong chờ vị Phật
tương lai không bao gồm ǵ hơn là tích trữ
ba-la-mật (pàrami), không hẳn cần thiết
phải theo đúng thứ tự của những giai
đoạn thực hành được chỉ dẫn trong
Kinh Điển Pàli, tức śla, samàdhi và pannà (giới,
định, tuệ). Không nên triển hoăn, gát chờ hành
xong śla (giới) rồi mới bắt đầu
thực hành samàdhi (định), hay triển hoăn công phu
thực hành pannà (tuệ) để chờ hoàn tất
pháp hành samàdhi (định). Theo thứ tự của
bảy giai đoạn thanh tịnh (visuddhis) như:
1. Śla-visuddhi
(giới tịnh),
2. Citta-visuddhi (tâm tịnh),
3. Ditthi-visuddhi (kiến tịnh),
4. Kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh),
5. Magg-àmagga-nànadassana-visuddhi (đạo phi đạo
tri kiến tịnh),
6. Patipadànànadassana-visuddhi (đạo tri kiến
tịnh), và
7. Nàna-dassana-visuddhi (tri kiến tịnh).
Hành giả không nên bỏ sót hay tŕ
hoăn công phu thực hành pháp nào mà phải viên măn hoàn tất
trước khi thực hành giai đoạn kế, theo
đúng thứ tự. V́ đây là những người có
chú nguyện tích trữ ba-la-mật càng nhiều càng tốt
nên phải tận lực chuyên cần nhằm tích trữ śla,
samàdhi và pannà (giới, định tuệ) càng nhiều
càng tốt.
Khi Kinh điển Pàli dạy
rằng citta-visuddhi (tâm tịnh) chỉ phải
được thực hành sau khi hoàn tất tṛn đủ śla-visuddhi
(giới tịnh), rằng chỉ nên thực hành ditthi-visuddhi
(kiến tịnh) sau khi đă hoàn măn hành xong citta-visuddhi (tâm
tịnh), rằng chỉ nên thực hành kankhàvitarana-visuddhi
(đoạn nghi tịnh) sau khi đă hoàn tất thực
hành viên măn ditthi-visuddhi (kiến tịnh), rằng công
phu trau giồi pháp hành thiền về anicca, dukkha, và anattà
bhàvanà (vô thường, khổ, vô ngă) chỉ nên
được bắt đầu sau khi đă thực hành
đầy đủ kankhàvitarana-visuddhi (đoạn
nghi tịnh), thứ tự thực hành nầy
được chỉ dạy để áp dụng cho
những vị cố gắng thành tựu Đạo và Quả
chính trong kiếp sống nầy. Trong trường hợp
những người tự thấy ḿnh không thể chuyên
cần đến mức cao độ như vậy mà
chỉ cố gắng góp nhặt ba-la-mật (pàrami)
tạo nên do pháp hành được bao nhiêu càng tốt, không
nên bảo họ rằng pháp hành thiền vắng lặng
nhằm thanh lọc tâm (samatha manasikàra citta-visuddhi)
chỉ nên được bắt đầu sau khi thực
hành đầy đủ śla-visuddhi (giới tịnh).
Với người thợ săn
và người thợ câu, không nên bảo họ nếu không
bỏ nghề để hành một nghề khác th́
đừng nên thực hành quán niệm, hướng tâm
về vắng lặng và minh sát (samatha-vipassanà-manasikàra).
Nói như vậy sẽ gây trở ngại cho Giáo Pháp (dhammantaràya,
chướng ngại, cản trở người ta trên con
đường dẫn đến Giáo Pháp). Trái lại nên
khuyến khích người thợ săn hoặc thợ
đánh cá nên quán niệm những phẩm hạnh thánh
thiện của Phật, Pháp, Tăng. Nhắc nhở
họ nên tận lực quán niệm tính chất ô
trược của cơ thể vật chất nầy.
Khuyên nhủ họ nên quán niệm tánh cách vô thường,
bất ổn định, hết sức bấp bênh,
của kiếp sinh tồn, trước cái chết chắc
chắn sẽ phải đến với ta, và với
tất cả mọi chúng sanh. Sư (Ngài Ledi Sayadaw) có
biết trường hợp một người thợ
chài lưới chuyên nghiệp, sau khi được
khuyến khích như trên, có thể đọc thuộc ḷng
Kinh Điển Pàli và "nisaya" (bản dịch
từng chữ) quyển Abhidhammattha Sangaha (Vi Diệu
Pháp Toát Yếu) và những duyên hệ, Paccaya Niddesa,
của bộ Patthàna (Tương Quan Duyên Hệ)
của Tạng Luận trong khi vẫn hành nghề đánh
cá. Những công tŕnh tu học như vậy là nền
tảng vững chắc rất tốt để gieo
trồng mầm giống vijjà (Minh).
Ngày nay, mỗi khi gặp thiện
tín (dàyaka upàsakas), đúng theo truyền thống của
một nhà Sư, Sư khuyên họ rằng mặc dầu
là thợ săn hay thợ câu chuyên nghiệp, lúc nào cũng
nên ghi nhớ, quán niệm những phẩm hạnh thánh
thiện của Tam Bảo và ba đặc tướng
của đời sống. Quán niệm những phẩm
hạnh thánh thiện của Tam Bảo (Ti-Ratana) là gieo
trồng hột giống Hạnh (carana). Quán niệm
ba đặc tướng của đời sống là gieo
trồng hột giống Minh (vijjà).
Dầu là đối với
người thợ săn hay thợ câu ta cũng nên
khuyến khích họ thực hành niệm tâm như vậy.
Không nên nghĩ rằng sẽ không thích nghi nếu ta khuyên
người thợ săn hay thợ câu nên hành thiền
vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà).
Đàng khác, nếu họ gặp khó khăn, nên giúp đỡ
cho họ hiểu biết. Nên sách tấn và khuyến khích
họ nên kiên tŕ cố gắng. Họ ở trong hoàn
cảnh mà dù chỉ có hành động nào tích trữ
ba-la-mật (pàrami) và có chiều hướng tốt
cũng nên được tán dương.
Mất Cơ Hội Gieo Trồng
Hột Giống Vijjà (Minh) V́ Không Biết Giá Trị
Của Thời Hiện Tại
Vài vị đạo sư chỉ
chú trọng đến những lời dạy trực
tiếp và rơ ràng, không thể hiểu lầm, trong Kinh
Điển Pàli về thứ tự phải thực hành
bảy giai đoạn thanh tịnh (visuddhi), nhưng
không quan tâm đến giá trị của thời gian
hiện tại. Các vị ấy dạy rằng pháp hành
thiền vắng lặng (samatha) hay thiền minh sát (vipassanà),
dầu tận lực tinh tấn thế nào, không thể
đưa đến thành quả nếu trước đó
không hoàn tất giai đoạn giới tịnh (śla-visuddhi).
Vài hành giả kém hiểu biết bị dẫn dắt
lầm đường v́ tin theo những lời dạy
tương tợ. Như vậy, đó là dhammantaràya
(chướng ngại cho Giáo Pháp).
Những người ấy, v́
không hiểu biết bản chất của giờ phút
hiện tại, sẽ mất cơ hội để gieo
trồng mầm giống vijjà (Minh), vốn chỉ có
thể thành tựu khi gặp được Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana). Trong
thực tế, họ không thể giải thoát ra khỏi
những khổ đau của đời sống và vẫn
phải c̣n lặn hụp lăn trôi trong ṿng luân hồi (samsàra)
bởi v́ trong quá khứ xa xôi dài không thể quan niệm,
trải qua vô số chu kỳ nhiều hơn cát trên bờ
sông Hằng (Ganges), mặc dầu đôi khi họ có cơ
hội gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana) nhưng không thâu thập nền tảng mầm
giống vijjà (Minh).
Khi nói đến mầm giống,
nên hiểu rằng có những hột giống đủ
chín mùi để có thể nở mộng và trở thành cây
non mạnh khoẻ sởn sơ, và có nhiều mức
độ chín. Cũng có những hột giống chưa
chín, chưa đủ mùi. Người không hiểu biết
ư nghĩa của đoạn kinh ḿnh đang đọc,
hoặc không hiểu biết phương pháp thực hành
chân chánh, dầu thông hiểu ư nghĩa nhưng chỉ
đọc, tụng, và lần chuỗi theo thói quen thông
thường trong khi ấy quán niệm phẩm hạnh
của Đức Phật và những đặc tướng
vô thường, khổ, và vô ngă, đọc tụng kinh mà
không theo dơi lời kinh, ắt sẽ có hột giống không
đủ chín, không mùi. Những hột giống nầy có
thể chín và đủ mùi nếu hành giả tiếp
tục hành như thế trong những kiếp sau kế
đó, nếu có được cơ hội.
Pháp hành vắng lặng (samatha)
cho đến mức parikamma nimitta [36] và pháp hành minh
sát (vipassanà) đến tuệ phân biệt sắc và
danh (rùpa và nàma), dầu chỉ một lần, là
hột giống chín mùi có đủ tiềm năng và
thể chất. Pháp hành thiền vắng lặng
đến mức uggaha nimitta và pháp hành thiền minh
sát đến mức sammasana-nàna [37], dầu chỉ
một lần, là hột giống càng chín mùi hơn.
Thiền vắng lặng đến mức Patibhàga-nimitta
[38] và thiền minh sát đến Udayabbayanàna [39],
dầu chỉ một lần, là hột giống càng chín mùi
hơn. Nếu càng chuyên cần tinh tấn hơn trong công phu
thực hành thiền vắng lặng và thiền minh sát
hột giống vijjà (Minh) càng già giặn chín mùi hơn
có thể đưa dến thành công quan trọng.
Adhikàra (Pháp Hành Nhiệt
thành Tinh Tấn Và Thành Công)
Kinh Điển Pàli nói rằng chỉ
trường hợp có adhikàra trong thời kỳ Giáo
Huấn của những vị Phật (Buddha Sàsana) quá
khứ mới có thể thành tựu các tầng Thiền (Jhànas),
các Đạo (Maggas) và các Quả (Phalas) trong thời
Phật Giáo sau nầy. Danh từ "adhikàra" có
nghĩa là "hột giống thành công", tức là
những mầm giống có thể trổ sanh thành quả
tốt đẹp. Ngày nay có những người trải
qua cuộc đời của ḿnh thực hành theo những
phương pháp cổ truyền, vốn chỉ là những
pháp mô phỏng theo thiền vắng lặng (samatha) và
thiền minh sát (vipassanà) mà không chính thực là
những hột giống samatha và vijjà có thể
gọi là adhikàra.
Trong hai loại hột giống,
những người đă gặp được Phật
Giáo (Buddha Sàsana) mà không có đủ hột giống
vijjà (Minh) th́ quả thật là một mất mát lớn
lao. Đáng tiếc như vậy bởi v́ những hột
giống vijjà (Minh) liên quan đến rùpa và nàma dhamma
(tiến tŕnh sắc pháp và danh pháp) chỉ có thể có trong
thời kỳ c̣n Giáo Huấn của một vị Phật
(Buddha Sàsana) và chỉ khi nào đủ nhạy cảm
để hay biết mới có thể thấu đạt.
Do đó hiện nay, dầu nam hay
nữ, những ai tự cảm thấy ḿnh không thể suy
niệm và quán xét tận tường bản chất
của sắc và danh pháp (rùpa nàma dhamma) nên cố
gắng t́m hiểu cặn kẻ nằm ḷng bốn nguyên
tố chánh yếu (Tứ Đại) của vật chất,
suy niệm về ư nghĩa và bản chất của Tứ
Đại, và hiểu biết nó hợp thành cơ thể
vật chất nầy như thế nào.
Đến đây chấm dứt
phần chỉ dẫn, với những thảo luận
về bốn hạng và ba loại người đă
được đề cập đến trong Tạng
Kinh và Tạng Luận đó là:
1. Những người sống
trong thời kỳ có Giáo Huấn của một vị
Phật mà không thực hành vắng lặng (samatha) và minh
sát (vipassanà) để cho thời gian trôi qua với
những pháp hành mô phỏng, giả mạo, bị mất
mát rất quan trọng v́ lỡ mất cơ hội
được sanh làm người trong thời kỳ có
Phật Giáo,
2. Đây là thời gian mà những
người trong hạng Padarama và Neyya [40] nếu
đủ chuyên cần tinh tấn, có thể thâu gặt
những hột giống samatha (vắng lặng) và vipassanà
(minh sát) chín mùi, và dễ dàng thành tựu những lợi ích
siêu thế trong kiếp sống nầy hay trong một
cảnh trời (deva loka) vào kiếp tới -- trong Giáo
Huấn của vị Phật nầy hoặc của
vị Phật tương lai,
3. Những vị nầy có
thể thâu hoạch những lợi ích rộng lớn bao
la trong kiếp sống làm người, trong Giáo Huấn
của một vị Phật.
Đến đây chấm dứt
phần tŕnh bày ba loại và bốn hạng cá nhân.
Một Lời Khuyên Và Cảnh Giác
Nếu những thời kinh
được Đức Phật thuyết giảng trong
suốt bốn mươi lăm Hạ (vassas)
được súc tích cô đọng và những phần
chánh yếu trong Tam Tạng Kinh (Tipitaka)
được rút tỉa ngắn gọn lại th́ ta c̣n ba
mươi bảy Phẩm Trợ Đạo (bodhipakkhiya-dhamma,
những pháp cần thiết phải có để thành
tựu trạng thái giác ngộ, cũng gọi là 37 Bồ
Đề Phần). Ba mươi bảy pháp cần thiết
giúp đưa đến giác ngộ (bodhipakkhiya-dhamma)
nầy là phần cốt tủy chánh yếu của Tam
Tạng kinh. Bảy giai đoạn thanh lọc (visuddhi),
là phần thâu gọn của những phẩm trợ
đạo nầy, trở thành śla (Giới), samàdhi (Định),
và pannà (Tuệ). Những pháp nầy được
gọi là adhiśla sàsana (Giáo Huấn của Giới
Luật Cao Siêu), adhicitta sàsana (Giáo Huấn Của Tâm
Cao Siêu), và adhipannà sàsana (Giáo Huấn Của Trí Tuệ
Cao Siêu). Những pháp nầy cũng được gọi
là sikkhàs, những pháp tu học. Khi nói đến śla
(Giới). điều chánh yếu đối với
người cư sĩ tại gia là nicca śla (những
giới cần phải thường xuyên hành tŕ). Những
ai tṛn đủ nicca śla là đă có đủ carana
(Hạnh). Chính Hạnh (carana) cùng với Minh (vijjà)
giúp ta thành tựu Đạo và Quả. Nếu những vị
ấy có thể hành thêm Bát Quan Trai Giới (uposatha śla)
trong những ngày giới th́ càng tốt hơn nicca śla
nhiều. Đối với hàng cư sĩ, nicca śla
(giới thường xuyên) có nghĩa là àjivatthamaka śla [41].
Những giới nầy phải được nghiêm
chỉnh và thật ḷng nhiệt thành hành tŕ. Nếu, v́ c̣n là
phàm nhân (putthujjana) ta vi phạm một giới nào, th́
có thể sám hối và xin giới lại, lặp lại
lời chú nguyện, xin trong sạch giữ giới từ đây
về sau, đến trọn đời. Nếu, trong
tương lai lại c̣n phạm giới nữa th́ có
thể lặp lại lời chú nguyện, và mỗi
lần xin giới như vậy th́ giới hạnh
được thanh lọc trong sạch trở lại.
Sự cố gắng không phải khó. Mỗi khi nicca śla,
giới thường xuyên, bị vi phạm th́ nên sám
hối và như vậy giới hạnh trở nên trong
sạch trở lại. Ngày nay có rất nhiều
người giới đức trong sạch Tuy nhiên
người có tâm định vững chắc trong pháp hành
niệm kasina (dùng một h́nh thể tṛn làm bằng
đất nhồi rồi gom tâm an trụ vào đó) hay thực
hành niệm những ô trược của thân (asubha-bhàvanà)
v.v... quả thật hiếm hoi, cũng như người
có thể thấu đạt minh sát những hiện
tượng vật lư và tâm linh, hay ba đặc
tướng của vạn pháp v.v... Thật hiếm hoi có
những người thành công như vậy v́ ngày nay nhiều
Giáo Pháp Sai Lầm (micchàdhamma) đă chín mùi, tạo nhân
gây hiểm họa và chướng ngại cho Giáo Pháp.
Những
Giáo Huấn Sai Lầm
Giáo Huấn Sai Lầm (micchà-dhamma)
tức "những lời dạy rất có thể gây
chướng ngại cho Giáo Pháp" (dhammantaràya), có
nghĩa là những quan kiến tương tợ như
những pháp hành và những giới hạn như không
thể thấy hiểm họa của ṿng luân hồi samsàra,
niềm tin cho rằng thời bây giờ không ai có thể
thành tựu Đạo và Quả, chiều hướng
triển hoăn mức độ chuyên cần, chờ cho
đến khi ba-la-mật (pàramis) đủ chín mùi,
niềm tin cho rằng người thời nay chỉ là dvi-hetuka
[42], những người sanh ra với hai nhân thiện,
niềm tin cho rằng những vị đại sư
thời xưa không c̣n nữa.
Mặc dầu không đưa
đến mục tiêu cùng tột, không có thiện nghiệp
(kusala kamma) nào là vô ích. Nếu ta chuyên cần cố
gắng, thiện nghiệp (kusala kamma) lúc nào cũng là
phương tiện tạo ba-la-mật (pàrami) cho
những ai c̣n thiếu ba-la-mật. Nếu không cố
gắng tạo ba-la-mật ắt cơ hội thâu gặt
ba-la-mật đă mất. Nếu những người mà
ba-la-mật chưa chín mùi ra sức cố gắng th́
ba-la-mật của họ sẽ chín mùi. Những
người nầy có thể thành đạt Đạo và
Quả trong kiếp tới trong Giáo Huấn của vị
Phật hiện tại. Nếu không chuyên cần tinh
tấn, cơ hội để làm cho ba-la-mật chín mùi
sẽ mất. Nếu những người mà ba-la-mật
đă chín mùi chuyên cần tinh tấn, những vị ấy
có thể chứng đắc Đạo và Quả trong kiếp
sống nầy. Nếu không cố gắng, cơ hội
thành đạt Đạo và Quả sẽ mất.
Nếu những người sanh
ra với hai nhân thiện (dvi-hetuka) chuyên cần tinh
tấn, họ có thể trở thành ti-hetuka [43] trong
kiếp sống tới. Nếu không chuyên cần cố
gắng, họ không thể tiến lên từ trạng thái dvi-hetuka
(sanh ra với hai nhân thiện) mà sẽ c̣n tuột xuống
mức ahetuka [44]. Thí dụ như anh kia trù
định xuất gia, trở thành tỳ khưu (bhikkhu).
Nếu có người nói với anh rằng "chỉ nên
dự định xuất gia nếu anh có thể sống
suốt đời cuộc sống của một vị
tỳ khưu. Nếu liệu làm không được
vậy, chớ nên dự định xuất gia như
thế", -- đó là dhammantaràya, chướng
ngại cho Giáo Pháp.
Đức Phật dạy:
"Như Lai tuyên ngôn rằng chỉ một tác ư thiện
khởi sanh đă tạo lợi ích lớn lao" -- (Majjhima
Nikàya, Trung A Hàm, số 8)
Làm giảm giá trị một hành
động bố thí (dàna) hoặc làm ngă ḷng một
người phát tâm bố thí, có thể là một punnantaràya,
chướng ngại cho hành động tạo thiện
nghiệp của người có ư định bố thí.
Nếu làm thối chí những người có hành
động tŕ giới, tham thiền, và phát triển trí
tuệ th́ đó là tạo dhammantaràya, chướng ngại
cho Giáo Pháp. Người gây chướng ngại cho
những hành động tạo thiện nghiệp sẽ
mất quyền lực và ảnh hưởng, tài sản và
sự nghiệp và sẽ nghèo đói trong những kiếp
tới. Nếu gây chướng ngại cho Giáo Pháp
người ấy sẽ có khuyết điểm trong
giới đức và phẩm hạnh và kém nhạy cảm
hiểu biết, và như vậy, rơ ràng là thấp kém và hèn
hạ trong những kiếp vị lai. Do đó hăy coi
chừng!
Đến đây chấm dứt
phần tŕnh bày nên xử dụng xứng đáng cơ
hội hiếm hoi được sanh làm người,
bằng cách loại trừ những Giáo Huấn sai lạc
được kể trên và chuyên cần tinh tấn trong
đời sống hiện tại nhằm khóa chặt cánh
cổng vào bốn cảnh khổ (apàya), -- cho
những kiếp vị lai trong ṿng luân hồi (samsàra)
-- hoặc nữa, nhằm tích trữ những hột
giống tốt giúp ta thoát ra khỏi những khổ
đau trong kiếp sống tới hoặc trong Giáo Huấn
của vị Phật kế sau đây, do nhờ thực
hành vắng lặng (samatha) và minh sát (vipassanà)
một cách quyết định, nhiệt thành và chuyên
cần.
Ghi chú:
[1] Gặp một vị Phật: Điểm nầy
không thấy ghi chép trong kinh sách và chú thích được
đề cập đến ở phần trên. (Chủ biên
Buddhist Publication Society -- Kandy)
[2] Đời sống thường được
phân làm ba giai đoạn: thiếu niên, trung niên, và lăo niên.
Xem "Path of Purification" (Visuddhi Magga - Thanh Tịnh
Đạo) do Đại Đức Nànamoli chuyển dịch từ
Pàli sang Anh, trang 721.
[3] Giáo Huấn của vị Phật hiện
tiền -- nơi đây được dịch sang tiếng
Việt từ chữ: the present Buddha Sàsana.
[4] Puggala-Pannatti, chương 100f; Anguttara,
Tika-nipàta (những số Ba) số 22. (Xem "The
Wheel" số 155/158, trang 18)
[5] Vimàna Vatthu.
[6] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, số 36.
[7] D́gha Nikàya, Trường A Hàm, số 2: kinh
Sàmannaphala Sutta.
[8] Dhammapada Commentary, Chú Giải kinh Pháp Cú -- Peta
Vatthu.
[9] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, Pàràjikà.
[10] Ti-ratana = "Tam Bảo": Phật
Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. (Buddha, Dhamma, Sangha)
[11] Đại Niết Bàn: Sự viên tịch của
một vị A-La-Hán được gọi là nhập
Đại Niết Bàn, parinibbàna.
[12] A-Na-Hàm, hay "Bất Lai" là tầng Thánh
thứ ba trong Tứ Thánh. Vị Thánh nầy
được gọi là Bất Lai v́ không bao giờ c̣n
trở lại cảnh Dục Giới (kàma-loka).
[13] Vô Phiên Thiên -- cảnh giới hoàn toàn tinh
khiết, bao gồm năm cảnh trời thuộc Sắc
Giới, cảnh giới mà chỉ có những vị Thánh
"Bất Lai" tái sanh vào và nơi đây các Ngài sẽ
chứng đắc Đạo và Quả A-La-Hán và nhập
Đại Niết Bàn.
[14] Apàya-loka là bốn cảnh khổ bao
gồm: cảnh a-tu-la, cảnh ngạ quỷ, cảnh thú
và cảnh địa ngục
[15] Sunna-kappas -- những châu kỳ
"hư không", tức những a-tăng-kỳ không có
Phật Giáo, không có Giáo Huấn của một vị
Phật.
[16] Atthakkhana: D́gha Nikàya, Trường A Hàm, Pàthika-vagga,
phẩm Pàthika, bài kinh Dasuttara Sutta; Anguttara Nikàya III,
Atthaka-nipàta, Akkhana Sutta, trang 60:-- (i) paccantaro, sống
một nơi mà Giáo Huấn của một vị Phật, Buddha
Sàsana, không được lưu truyền; (ii) Arino,
tái sanh vào bốn cảnh giới Phạm Thiên Vô Sắc;
(iii) Vitalingo, những người sanh ra đần
độn ngu si hay bệnh tật về tâm thần, v.v...
; (iv) Asannasatta, sống trong cảnh giới những
vị Phạm Thiên Vô Tưởng, không có thức; (v) Micchà-ditthi,
sanh trưởng giữa những người mang nặng
tà kiến; (vi) Peta, trong cảnh ngạ quỉ; (vii) Tirachàna,
trong cảnh thú; và (viii) Niraya, trong cảnh địa
ngục.
[17] Dhamma Commentary, tích chuyện liên quan đến
câu 1 và câu 18.
[18] Dittha-dhamma-sukha-vihàra -- Phát sanh đến
vị A-La-Hán sự hiểu biết rằng ḿnh đă
giải thoát, và Ngài chứng ngộ: "Không c̣n tái sanh
nữa; ta đă sống cuộc sống trong sạch; ta
đă hoàn thành viên măn những ǵ cần phải làm; ta không
c̣n ǵ nữa phải làm để chứng ngộ Đạo
và Quả A La Hán." Như vậy Ngài an trụ thoải
mái trong cuộc sống hiện tại.
[19] Panca Śla, Ngũ Giới. Đây là những
giới căn bản bao gồm mức tối thiểu mà
mỗi người, nam hay nữ, cần phải hành tŕ. Đó
là: cử kiêng không sát sanh, không trộm cắp, không tà
hạnh, không nói dối và không dùng những chất say.
[20] Ba phần của nhóm "Giới" trong Bát
Chánh Đạo (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng), khi
được kể với chi tiết, trở thành Aj́vatthamaka
śla như sau: 1. Con nguyện sẽ không sát hại hay làm
tổn thương sanh mạng; 2. Con nguyện sẽ không
trộm cắp; 3. Con nguyện sẽ không phạm tà
hạnh và dùng các chất say; 4. Con nguyện sẽ không nói
dối; 5. Con nguyện sẽ không nói lời đâm
thọc, làm cho người nầy hờn giận
người kia; 6. Con nguyện không nói lời thô lỗ
cộc cằn; 7. Con nguyện không nói lời nhảm nhí; 8.
Con nguyện không sinh sống bằng tà mạng.
[21] Atthànga Uposatha Śla = Tám giới, hay bát quan
trai giới, là kiêng cữ: 1. sát sanh, 2. trộm cắp, 3. tà
hạnh, 4. nói dối, 5. dùng chất say, 6. ăn sau giờ
ngọ, 7. khiêu vũ, hát xướng, đờn kèn, và ca
nhạc, đeo tràng hoa, dùng nước hoa, son phấn và
trang sức v.v... 8. nằm giường đẹp và cao.
[22] Dasanga Śla, mười giới, là một
h́nh thức tế nhị của tám giới. Giới
số (7) trong Bát Quan Trai Giới chia làm hai, và cộng thêm
giới thứ 10 là cữ kiêng, không nhận vàng và bạc.
[23] Bhikkhu Śla, Tứ Thanh Tịnh Giới,
bốn loại giới giúp chư Tăng giới
đức trong sạch (catupàrisuddhi-śla) là:-- 1. Kiêng cữ,
khép ḿnh trong 227 giới luật của nhà sư (Giới
Bổn); 2. Thu thúc lục căn; 3. Giới luật liên quan
đến chánh mạng; 4. Giới luật liên quan
đến bốn đồ dùng cần thiết (tứ
vật dụng: y phục, chỗ ở, vật thực và
thuốc men).
[24] Magga-nàna: Trí tuệ của bốn Thánh
Đạo, tức Tu Đà Huờn Đạo, Tư Đà Hàm Đạo,
v.v... Phala-nàna là trí tuệ của bốn Thánh Quả.
[25] Paramatha: chân lư trong ư nghĩa cùng tột;
chân lư tuyệt đối, chân đế. Sách Abhidhammattha
Sangaha, Vi Diệu Pháp Toát Yếu, kể ra bốn paramatha
dhammas là: Citta, tâm vương; Cetasika, tâm sở; Rùpa,
sắc; và Nibbàna, Niết Bàn.
[26] Pathav́ (nguyên tố Đất), Àpo
(nguyên tố Nước, hay nguyên tố có đặc tính
làm dính liền), Tejo (nguyên tố Lửa) và Vàyo
nguyên tố Gió, có đặc tính di động hay nâng
đỡ); ta thường gọi là đất,
nước, lửa, gió.
[27] Dhammapada Commentary, Bản Chú Giải Kinh Pháp Cú,
câu chuyện liên quan đến câu 64.
[28] Bản Chú Giải Kinh Pháp Cú, liên quan
đến câu 158, câu chuyện vị tỳ khưu tham ái
[29] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, phẩm Mahàvagga.
[30] Dhammapada Commentary, Bản Chú Giải Kinh Pháp Cú,
câu chuyện liên quan đến câu 60.
[31] Lạc cảnh, suggati loka, là cảnh
người (manusa) và sáu cảnh trời Dục Devaloka.
[32] Khổ cảnh, duggati loka, là cảnh
a-tu-la, ngạ quỉ, thú, và địa ngục.
[33] Sukkhavipassaka: (Lời người
dịch) Vị hành giả không dựa trên thiền vắng
lặng để phát triển tuệ minh sát mà hành
thẳng thiền minh sát.
[34] Mười một: từ số 1 đến
11, tức 15 trừ bốn tầng Thiền (Jhàna)
[35] Đêm được xem là có ba canh.
[36] Nimitta là h́nh ảnh phát
hiện trong tâm khi hành giả thành công tu tập một
phương pháp hành thiền. H́nh ảnh ấy là
bước đầu đưa vào tâm định nên
gọi là Chuẩn Bị hoặc Parikamma Nimitta,
đề mục sơ khởi. Đây là h́nh ảnh trong tâm.
H́nh ảnh vẫn chưa vững
chắc và rơ ràng lắm, phát hiện trong tâm sau đó
được gọi là Uggaha-Nimitta. Đây là h́nh ảnh
trong tâm.
[37] Sammasana-nàna, tuệ
thấu đạt, quán sát, nghiên cứu, nắm vững và
nhận định rằng tất cả những hiện
tượng trong kiếp sống là vô thường, khổ
và vô ngă. Vào thời kỳ cuối cùng của tuệ
nầy hành giả nhoáng thấy minh sát rơ ràng.
[38] Patibhàga-nimitta, h́nh ảnh
khái niệm. Thiền vắng lặng đến mức gom
tâm an trụ thật vững chắc, thấy h́nh ảnh rơ
ràng và không chao động. Đây cũng là một h́nh ảnh
trong tâm.
[39] Udayabbayanàna, tuệ sanh
diệt, là tuệ giác phát sanh do công phu quán sát trạng thái
phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi. Đây là
tuệ giác đầu tiên trong chín tuệ hợp thành giai
đoạn thanh lọc Patipadànànadassana-Visuddhi, Tri
Kiến Tịnh.
[40] Xem từ trang 147 sách nầy.
[41] Ajivatthamaka śla. Xem chú thích số 2, trang
158 , sách nầy.
[42] Dvi-hetuka-patisandhi, sanh ra với hai nhân. Câu
nầy hàm ư là được sanh ra với hai nhân thiện,
tức hai nhân vô-tham (alobha) và vô-sân (adosa).
Người sanh ra với hai nhân thiện như vậy
không thể thành tựu Đạo và Quả trong kiếp
hiện tiền, v́ c̣n thiếu nhân thiện thứ ba là vô
si (amoha).
[43] Ti-hetuka-patisandhi, sanh ra với ba nhân
thiện: alobha (vô tham), adosa (vô sân) và amoha (vô
si).
[44] ahetuka: một chúng sanh sanh ra không có nhân
thiện nào.
Chương I
Phẩm trợ đạo
(Bodhipakkhiya-dhamma)
Hôm nay Sư (Ngài Ledi Sayadaw) sẽ
giản lược tŕnh bày ba mươi bảy Phẩm
Trợ Đạo, hay ba mươi bảy Bồ Đề
Phần, những Yếu Tố Cần Thiết cho sự
Giác Ngộ [1], mà những ai muốn trau giồi thiền
vắng lặng và thiền minh sát phải tận lực và
quyết chí thực hành, nhằm tạo cho ḿnh cơ
hội hiếm hoi được tái sanh vào cảnh
người trong thời kỳ có Giáo Huấn của
vị Phật hiện tại (present Buddha Sàsana).
Pháp Bodhipakkhiya dhamma, Phẩm
Trợ Đạo, gồm bảy nhóm là:
1. Satipatthàna,
Niệm Xứ (4 yếu tố),
2. Sammappadhàna, Chánh Cần (4 yếu tố),
3. Iddhipàda, Như ư Túc, hay căn bản của sự
thành công, (4 yếu tố),
4. Indriya, Căn, hay Khả Năng Kiểm Soát (5
yếu tố)
5. Bala, Lực, hay Năng Lực Tinh Thần (5 yếu
tố)
6. Bojjhanga, Giác Chi, những Yếu Tố của
sự Giác Ngộ (7 yếu tố)
7. Magganga, Đạo, những yếu tố của Con
Đường (8 yếu tố)
(Tất
cả 37 yếu tố)
Pháp bodhipakkhiya-dhamma, Phẩm
Trợ Đạo, hay Bồ Đề Phần được
gọi như vậy bởi v́ nó là những thành phần (pakkhiya)
của sự Giác Ngộ (bodhi) mà nơi đây
đề cập đến như là tuệ giác của
Thánh Đạo (magga-nàna). Đây là những pháp, dhammas
(những hiện tượng tâm linh) làm nhiệm vụ
nguyên nhân kế cận (padatthàna, những thành phần
thiết yếu (sambhàra) và những nền tảng,
hay điều kiện đầy đủ (upanissaya)
của Đạo Tuệ (magga-nàna).
37 PHẨM TRỢ ĐẠO (Bodhipakkhiya
Sangaho)
TỨ NIỆM XỨ |
4 |
1. Niệm Thân |
TỨ CHÁNH
CẦN |
4 |
1. Tinh Tấn lánh
xa ác pháp đă phát sanh |
TỨ THẦN
TÚC |
4 |
1. Dục Như
ư Túc |
NGŨ CĂN |
5 |
1. Tín Căn |
NGŨ LỰC |
5 |
1. Tín Lực |
THẤT GIÁC CHI |
7 |
1. Niệm Giác Chi |
BÁT CHÁNH
ĐẠO |
8 |
1. Chánh Kiến |
Tổng cộng: |
37 |
Chương II
Tứ niệm xứ
(Satipatthàna)
Danh từ satipatthàna
được định nghĩa như sau:
Bhusam titthat́'ti patthànam; sati eva patthànam satipatthànam.
Có nghĩa là: cái ǵ được kiên cố
thiết lập, vững chắc áp đặt, vào là
"niệm xứ", nền tảng của niệm;
công phu "chú niệm" tự chính nó là một niệm
xứ như vậy.
Có bốn Niệm
Xứ:
1. Kàyànupassanà-satipatthàna
(Thân Quán Niệm Xứ),
2. Vedanànupassanà-satipatthàna (Thọ Quán Niệm Xứ)
3. Cittànupassanà-satipatthàna (Tâm Quán Niệm Xứ),
4. Dhammànupassanà-satipatthàna (Pháp Quán Niệm Xứ).
1. Kàyànupassanà-satipatthàna, Thân Quán Niệm
Xứ, vắn tắt gọi Niệm Thân, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những hiện
tượng của thân, như hơi-thở-vào và
hơi-thở-ra.
2. Vedanànupassanà-satipatthàna, Thọ Quán Niệm
Xứ, vắn tắt gọi Niệm Thọ, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những cảm thọ.
3. Cittànupassanà-satipatthàna, Tâm Quán Niệm
Xứ, vắn tắt gọi Niệm Tâm, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những tư
tưởng hay những tiến tŕnh tâm, như ư nghĩ
liên hợp hoặc không liên hợp với khát vọng.
4. Dhammànupassanà-satipatthàna, Pháp Quán Niệm
Xứ, vắn tắt gọi Niệm Pháp, là sự chú
niệm kiên cố áp đặt vào những hiện
tượng như những chướng ngại tinh
thần (ńvaranas, pháp triền cái) v.v...
Trong bốn niệm xứ nếu niệm, hay chú
tâm ghi nhận, được kiên cố áp đặt trên
một phần của thân, như hơi-thở-ra và
hơi-thở-vào chẳng hạn, điều đó hàm xúc ư
nghĩa là sự chú tâm đă được vững
chắc thiết lập trên tất cả. Như vậy
bởi v́ ta đă có khả năng đặt sự chú tâm
vào bất luận nơi đâu trong thân.
"Vững chắc thiết lập" có
nghĩa là nếu muốn đặt sự chú tâm vào
hơi-thở-ra và hơi-thở-vào trong một giờ, ta
có thể an trụ tâm vững chắc vào hơi thở
trọn thời gian ấy. Nếu muốn giữ tâm an
trụ vào hơi thở trong hai giờ, ta có thể giữ
tâm vững chắc áp đặt vào hơi thở trong hai
giờ. Không có lúc nào tâm chú niệm rời khỏi
đề mục bởi v́ chi thiền Tầm (vitakka)
không ổn định vững chắc.
Muốn có thêm chi tiết về satipatthàna,
xem "Satipatthàna Sutta", bản dịch trong "The
Wheel" số 18. Cũng đọc Chú Giải bài kinh
nầy trong "The Way of Mindfulness", bản dịch do
Soma Thera (Buddhist Publication Society, Kandy).
Tại sao ta phải vững chắc gom tâm an
trụ và kiên cố áp đặt trên đề mục
như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào, không thể
sơ khuyết? Là bởi v́ ta cần phải tập trung
tư tưởng để canh chừng và kiểm soát
lục thức (vinnàna) [2], vốn nhanh chóng bay nhảy
và trôi giạt bềnh bồng một cách bất
định từ quá khứ xa xôi không thể quan niệm,
trong ṿng luân hồi (samsàra) vô tận.
Sư xin nói rơ thêm. Tâm có thói quen chạy rong từ
đầu nầy sang đầu kia quanh quẩn tới lui
sáu trần cảnh, khởi hiện ở sáu căn môn. [3]
Sư lấy một thí dụ, như
trường hợp anh chàng kia mất trí, không thể
kiểm soát tâm ḿnh. Chí đến giờ ăn cơm anh
cũng không nhớ mà cứ măi thênh thang rong rỗi đầu
nầy đầu kia, cha mẹ phải đi t́m, gọi
về ăn. Rồi sau khi ăn năm sáu miếng th́ anh
lật úp chén lại, bỏ đi, không dùng hết bửa.
Anh chàng lăng trí đến mức độ như vậy.
Ăn uống cũng không biết dùng cho đủ no. Khi
nói chuyện anh cũng không thể nói hết trọn câu.
Nói đầu quên đuôi, đang chuyện nầy bắt
sang câu chuyện khác. Đoạn đầu, đoạn
giữa và đoạn cuối của một câu không phù
hợp với nhau. Nói không ai hiểu. Anh chàng không thể
làm ǵ hữu ích trên thế gian nầy, và không ai biết anh
muốn ǵ. Anh không thể hoàn tất một công việc ǵ.
Người như thế không thể được xem là
một chúng sanh trong cảnh người, sống cũng
như không.
Anh chàng mất trí ấy có thể trở lại
b́nh thường, với tinh thần ổn kiện,
nếu anh gặp một vị lương y tâm thần tài
giỏi, chữa bịnh cho anh với những
phương pháp nghiêm nhặt. Được chữa trị
như vậy, dần dần anh chàng có thể trở
lại đời sống b́nh thường, đến bửa
có thể ăn uống no bụng. Trong những công
việc khác hằng ngày anh cũng có thể kiểm soát tâm
và hoàn thành đến nơi đến chốn, nói
chuyện mạch lạc có trước có sau như
thường. Đó là một thí dụ.
Trong thế gian nầy có những người
b́nh thường, tâm thần ổn kiện, nhưng
cũng giống như anh chàng mất trí, không thể
kiểm soát tâm khi ngồi lại hành thiền, thiền
vắng lặng (samatha) hay thiền minh sát (vipassanà).
Cũng giống như anh chàng mất trí kia không thể
ăn trọn bửa cơm mà bỏ đi sau khi trợn
trạo năm sáu miếng, người có tâm trí b́nh
thường nầy ngồi xuống hành thiền cũng
để tâm rong rỗi đầu nầy đầu kia
bởi v́ ḿnh không thể kiểm soát nó. Mỗi khi lễ
Phật và quán niệm về những phẩm hạnh thánh
thiện của Đức Phật anh không thể gom tâm vào
những phẩm hạnh thánh thiện ấy mà để
tâm phóng dật bay nhảy hết ư nghĩ nầy
đến những tư tưởng khác và không thể
đọc hết một câu kinh cúng Tam Bảo như "Iti'
pi so ...", Phẩm Hạnh của Đức Thế Tôn
quả thật như thế nầy ..."
Cũng giống như người lâm bịnh chó
dại (sợ nước), khát nước đến khô môi
khô cổ, nhưng khi thấy xa xa một ao hồ
nước mát th́ sợ hải bỏ chạy. Lại
cũng như một người bịnh mà phải dùng
những thức ăn nên thuốc để chữa
trị th́ cảm nghe đắng miệng và không thể
nuốt, phải phun nhổ ra hết. Cùng thế ấy, có
những người tự thấy ḿnh không thể
thực hành pháp quán niệm những hồng danh thánh
thiện của Đức Phật, một cách linh nghiệm.
Họ không thể tiếp tục giữ tâm an trụ vào
đề mục. Khi bắt đầu đọc "Iti'
pi so" th́ tâm phóng và bị gián đoạn, và nếu
khởi đầu trở lại, mỗi lần
đều bị gián đoạn, vị ấy không bao
giờ đọc đến cuối bài kinh, mặc
dầu đọc cả ngày, cả tháng hay cả năm.
Giờ đây vị ấy cố gắng học thuộc
ḷng từng đoạn, và nhờ vậy có thể
đọc đến cuối bài kinh, mặc dầu tâm
phóng.
Cùng thế ấy, trong những ngày giới (uposatha,
bố-tát), có những vị dự tính t́m nơi vắng
vẻ yên tĩnh để quán niệm ba mươi hai
phần của thân như kesà (tóc), lomà (lông),
v.v... hoặc hồng danh Đức Phật, nhưng rốt
cuộc lại gặp bạn bè, vui chơi tṛ chuyện,
quên mất những ư định tu niệm. Đến chùa, vào
lúc mọi người cùng đọc kinh chung, mặc
dầu cố gắng chú tâm vắng lặng đọc
tụng kinh brahma-vihàra (Tứ Vô Lượng Tâm) [4],
như công thức rải mettà (tâm từ), nhưng v́
không kiểm soát được tâm, tinh thần tán loạn,
những ư nghĩ bay nhảy tứ tung bất định
và rốt cùng chỉ có h́nh thức đọc tụng
bề ngoài, ngồi đọc lời kinh mà tâm ở
đâu nơi nào khác.
Bấy nhiêu trường hợp ấy đủ
cho thấy bao nhiêu người tuy b́nh thường,
nhưng có cuộc sống giống như anh chàng mất
trí trong lúc tạo thiện nghiệp, kusala kamma, gieo
trồng nhân thiện tạo phước.
"Pàpasmim ramate
mano" -- Tâm thỏa thích trong ác pháp.
(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 116)
Giống như bản chất thiên nhiên của
nước là chảy từ trên cao xuống thấp, tâm
của chúng sanh cũng dường thế ấy, tự
nhiên xít lại gần ác pháp. Đó là khuynh hướng thiên
nhiên của tâm.
Sư kể thêm một câu chuyện thí dụ
để so sánh người không thể kiểm soát tâm
với anh chàng mất trí.
Trên một con sông nước chảy thật
nhanh, có người lái buôn nọ chở đầy ghe
những hàng hóa quư giá nhưng không thông thạo công việc
chèo chống, hay lèo lái. Anh xuôi ḍng, xuyên qua những khúc sông
chảy dài theo rừng núi hoang vu không bến đậu,
không chỗ thuận tiện để cặp ghe. Và như
thế anh tiếp tục không ngừng thả trôi theo ḍng
nước. Đêm đến, thuyền đi ngang qua những
xóm làng, thành thị, và những nơi có bến để
ghe đậu, nhưng v́ đêm tối anh không thấy, nên
cứ tiếp tục để thuyền trôi ngang qua mà
không dừng lại cặp bến. Rồi ngày đến,
thuyền trôi ngang qua những nơi có phố phường
thành thị, nhưng v́ không nắm vững tay lái, anh không
thể hướng thuyền vào bến và lại phải
tiếp tục để thuyền trôi, dần dần ra
khơi, giữa biển cả mênh mông.
Ṿng quanh luân hồi những kiếp sống (samsàra)
dài dẳng vô cùng tận cũng tựa hồ như con sông
nước chảy nhanh. Những chúng sanh không kiểm soát
được tâm giống như người lái buôn đi
thuyền mà không biết chèo chống hay lèo lái con thuyền.
Tâm như chiếc thuyền. Chúng sanh bị trôi giạt
trong ḍng nước lũ của những kiếp sinh
tồn, hết kiếp nầy đến kiếp khác, xuyên
qua những chu kỳ thế gian "sunna" không có
Giáo Pháp của một vị Phật giống như
chiếc thuyền của người lái buôn đi xuyên qua
những vùng rừng núi hoang vu không bến đậu
hoặc chỗ cặp ghe. Đôi lúc những chúng sanh ấy
được sanh vào chu kỳ thế gian có Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) truyền bá
rộng răi và thịnh vượng, nhưng không hay biết
v́ bất hạnh phải tái sanh vào một trong tám
trường hợp không thuận lợi (atthakkhanas)
[5], cũng giống như thuyền người lái buôn trôi
ngang qua những phố phường hay xóm làng có bến cho
thuyền ghe đậu, nhưng v́ đêm tối, anh
lại không hay biết. Rồi đến khi, trong những
lúc khác được sanh làm người, làm chư thiên hay
chư Phạm Thiên (devas hay Brahmas) trong thời kỳ
có Giáo Pháp của một vị Phật (Buddha Sàsana)
nhưng không thể thành tựu Đạo và Quả (magga và
phala) bởi v́ không thể kiểm soát tâm và không
đủ chuyên cần tinh tấn để thực hành vipassanà
(minh sát), tu tập satipatthàna (Tứ Niệm Xứ),
nên vẫn phải tiếp tục lăn trôi trong ṿng luân
hồi (samsàra). Những chúng sanh ấy cũng
giống như người lái buôn đă thấy
được phố phường, làng xóm và bến
nước để ghe đậu, nhưng không thể
hướng chiếc thuyền của ḿnh vào bến v́ không
thể điều khiển bánh lái và như thế tiếp
tục bị ḍng nước lũ kéo trôi ra biển cả
mênh mông. Xuyên qua vô số những kiếp sinh tồn
nhiều như số cát trên bờ sông Hằng (Ganges) trong
ṿng luân hồi dài dẵng, những ai đă giải thoát ra
khỏi những khổ đau của đời sống
là những vị đă kiểm soát được tâm ḿnh
và có đủ khả năng gom tâm an trụ vào đề
mục tu tập đă chọn như ḿnh muốn, qua pháp
hành Tứ Niệm Xứ, Satipatthàna.
Điều nầy chỉ rơ khuynh hướng trôi
giạt trong ṿng quanh những kiếp sinh tồn của
những chúng sanh không thực hành satipatthàna, Tứ
Niệm Xứ, mặc dầu hay biết rằng ḿnh không
thể kiểm soát tâm trong khi thực hành thiền vắng
lặng và minh sát (samatha và vipassanà).
Chúng ta cũng có thể lấy thí dụ
người luyện tập ḅ tơ để cho nó kéo cày
hoặc kéo xe, hay người luyện voi để vua
xử dụng hoặc để dùng trong lúc có chiến
tranh.
Trường hợp ḅ tơ. Trước hết
phải cho nó nhập bầy và quen ở chuồng, rồi
xỏ vàm, tức xỏ sợi dây vàm xuyên qua mũi con ḅ và
cột đầu dây vào một trụ cột. Rồi dùng
dây vàm điều khiển cho nó quen làm theo ư ḿnh. Phải
luyện như thế cho đến khi ḅ đủ
thuần thục để có thể gác ách, cho nó kéo xe
hoặc kéo cày. Đến chừng ấy ḅ mới có thể
sẵn sàng để xử dụng hoặc bán. Đó là thí
dụ người luyện ḅ tơ.
Trong thí dụ nầy, quyền lợi và sự
thành công của người luyện ḅ tùy thuộc nơi
t́nh trạng ḅ có thể được xử dụng
hữu hiệu trong công tác kéo xe hay kéo cày không, sau khi
được rèn luyện, cùng thế ấy lợi ích
thật sự của người tu Phật, cư sĩ
hay tỳ khưu, sống trong thời kỳ có Giáo Huấn
của vị Phật hiện tại, tùy thuộc nơi
công phu tu luyện trong thiền vắng lặng và thiền minh
sát (samatha và vipassanà).
Trong Giáo Pháp của vị Phật hiện tại
(present Buddha Sàsana), pháp hành Giới Tịnh (śla
visuddhi) giống như trong pháp luyện ḅ, cho ḅ nhập
bầy và tập nó quen sống trong chuồng.
Cũng như ḅ tơ, nếu không nhập
bầy và sống trong chuồng sẽ phá khuấy, làm
hư hoại mùa màng hay sở hữu của người
khác, và đó là trách nhiệm của người chủ ḅ,
cùng thế ấy người thiếu Giới Tịnh
sẽ không trong sạch giữ ǵn tam nghiệp [6], do đó
sẽ gặp những hoàn cảnh bất hạnh trong
đời và sẽ gặt hái những quả xấu trong
tương lai, như Giáo Pháp dạy.
Cố gắng trau giồi kàyagatà satipatthàna
[7], thân quán niệm xứ, giống như xỏ sợi dây
vàm qua mũi con ḅ, và sau khi cột dây vàm vào trụ cột,
luyện cho ḅ tuân theo lịnh điều khiển của
ḿnh. Cũng như ḅ bị cột vào trụ phải tuân
theo lịnh, chủ biểu làm ǵ th́ làm theo ư muốn
của chủ, không thể chạy loạn, cùng thế
ấy, khi bị cột vào thân bằng sợi dây satipatthàna
(tứ niệm xứ), tâm không thể chạy loạn mà
phải an trụ vào bất luận nơi nào mà
người chủ muốn. Thói quen khuấy động và
phóng dật chạy loạn của tâm từ xa xưa trong
ṿng luân hồi không thể quan niệm, giờ đây
lắng đọng, trở nên vắng lặng.
Thực hành samatha (thiền vắng lặng)
và vipassanà (thiền minh sát) mà trước đó không
niệm thân th́ cũng như người chủ ḅ gác vào
ách xe hay ách cày một con ḅ chưa từng được
xỏ vàm. Người ấy sẽ không điều
khiển được ḅ theo ư muốn. Bởi v́ ḅ c̣n
hoang dại và v́ chưa có vàm để điều
khiển, nó sẽ chạy hoang loạn, lệch ra khỏi
đường hoặc vùng vằng phá ách để thoát
thân.
Đàng khác, người đă có tu luyện
để kiểm soát và lắng tâm bằng pháp Niệm Thân
trước khi hướng về pháp hành thiền vắng
lặng và minh sát (samatha và vipassanà) th́ tâm dễ dàng an
trụ, và người ấy sẽ thành công.
Trong trường hợp luyện voi,
trước hết phải đem con voi hoang dại ra
khỏi rừng, đưa đến một vùng
đất rộng, nơi chuyên dùng để luyện voi
có hàng rào bằng cột kiên cố, rồi cột voi
chắc chắn vào một nơi an toàn, giữ đó cho
đến khi nó được rèn luyện thuần
thục, trở nên yên tĩnh và không c̣n hung hăng hoang
dại. Sau đó người ta mới bắt đầu
luyện tập voi làm những công việc mà nó sẽ
phải làm cho vua. Đến chừng ấy voi mới trở
nên hữu ích, mới được xử dụng hữu
hiệu trong những phận sự khác nhau trong
nước, và ở chiến trường khi quốc gia
hữu sự.
Lănh vực của những lạc thú trần gian
cũng giống như khu rừng mà con voi hoang dại
thỏa thích hưởng thụ. Giáo Huấn của
một vị Phật (Buddha Sàsana) tựa hồ
như vùng đất rộng răi mà người ta
đưa voi rừng đến để rèn luyện. Voi
rừng giống như cái tâm. Đức tin (saddhà) và ḷng
ham muốn (chanda) trong Giáo Pháp (sàsana-dhamma)
giống như con voi cần phải được
luyện mà người ta buộc chung với con voi đă
được huấn luyện, rồi đem ra ngoài
trời trong một vùng đất rộng. Giới
Tịnh (śla visuddhi), tức giới đức trong
sạch, là cái hàng rào kiên cố bao quanh chỗ cột voi.
Cơ thể vật chất hay những phần trong thân
như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào giống như
những cột trụ vững chắc ở bên trong rào mà
voi bị cột vào. Pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati) [8]
giống như sợi dây cột voi vào trụ. Những
công tŕnh chuẩn bị luyện voi cũng giống như
những pháp hành, chuẩn bị đưa đến
thiền vắng lặng và thiền minh sát (samatha và
vipassanà). Công phu hành thiền, vắng lặng hay minh sát,
là những công việc khác nhau như diễn binh, tập
trận hay xông pha trên chiến trường.
Những thí dụ khác giờ đây có thể
được nhận ra dễ dàng.
Như vậy, Sư đă chỉ rơ những thí
dụ người mất trí, người đi thuyền
mà không biết lèo lái chiếc thuyền của ḿnh,
người luyện ḅ tơ, và người luyện voi.
Đó là những điểm chánh yếu trong pháp Niệm Thân mà
tập tục cổ truyền xem là bước đầu
của công phu hành thiền từ giai đoạn Giới
Tịnh (śla visuddhi) trở lên, trong Giáo Huấn
của tất cả chư Phật đă thị hiện
trong ṿng luân hồi dài dẳng từ quá khứ xa xôi không
thể quan niệm.
Ư nghĩa chánh là dầu niệm hơi-thở-ra
và hơi-thở-vào, hay niệm iriyàpatha (bốn oai nghi
-- đi, đứng, ngồi, nằm) với sampajanna
(tâm giác tỉnh, hiểu biết rơ ràng) hoặc bằng cách
dhàtu-manasikàra (gom tâm niệm vào Tứ Đại), hoặc
bằng cách atthika-sannà (niệm xương), ta
phải chuyên cần tinh tấn để thâu đạt
khả năng tập trung chú niệm vào thân và vào bốn
oai nghi của ḿnh bao lâu cũng được, suốt ngày
suốt đêm ngoại trừ lúc ngủ, và do đó
vững vàng kiểm soát tâm ḿnh. Làm như vậy ta thoát
khỏi trạng thái bất hạnh của người
mất trí. Giờ đây ta giống như người
đi thuyền đă nắm vững tay lái, hay người
chủ của một con ḅ đă được rèn
luyện thuần thục, hoặc giống như nhà vua
đang xử dụng một thớt voi đă
được áp phục và thuần hóa.
Có nhiều loại và nhiều mức độ
làm chủ tâm ḿnh. Trong Giáo Huấn của Đức Phật (Buddha
Sàsana), công phu thực hành pháp Niệm Thân một cách viên
măn là giai đoạn đầu tiên trên bước
đường đưa đến khả năng
vững vàng làm chủ tâm ḿnh.
Những vị hành giả không muốn theo con
đường samatha (vắng lặng) mà chỉ
muốn theo con đường minh sát thuần túy (pure
vipassanà), tức là con đường của vị
sukkha vipassaka [9], phải tiến thẳng vào vipassanà
sau khi đă kiên cố thành công pháp Niệm Thân.
Nếu những vị nầy không muốn hành
pháp Niệm Thân riêng rẽ mà tận lực chuyên cần
hành Minh Sát đến độ có thể bao gồm luôn pháp
niệm thân, kàyagatà-sati, th́ cũng có thể thành công,
nếu họ có đủ tinh tấn và trí tuệ. Pháp
Niệm Thân (kàyagatà-sati) liên hợp với Tuệ Sanh
Diệt (udayabbaya-nàna), thấy rơ ràng trạng thái phát
sanh và hoại diệt của những hiện tượng
tâm-vật-lư, quả thật là rất quan trọng.
Theo phương pháp hành vắng lặng (samatha),
bằng cách niệm hơi-thở-ra và hơi-thở-vào
của pháp Niệm Thân, ta có thể tiến đạt
đến mức rùpàvacara catuttha jhàna, Tứ Thiền
Sắc Giới; bằng cách niệm vanna manasikàra [10],
ba mươi hai phần của thân như kesà (tóc), lomà
(lông), v.v... ta có thể chứng đắc tất cả
tám tầng Thiền, samàpattis [11], và bằng cách hành patikkùla
manasikàra [12] cũng của pháp Niệm Thân, ta có thể
đắc Sơ Thiền. Nếu trong khi thiền, phát
triển Minh Sát (vipassanà) ta cũng có thể thành
tựu Đạo và Quả.
Dầu không trọn vẹn thành công trong pháp hành
vắng lặng và minh sát (samatha và vipassanà) mà
chỉ đến mức kiểm soát tâm và có khả
năng giữ tâm an trụ vào đề mục, Đức
Phật dạy, người như thế có thể
được xem là đă thỏa thích hưởng thụ
hương vị của amatta nibbàna [13].
"Amatam tesam paribhuttam, yesam kàyagatà sati
paribhuttà." [14]
"Những ai hoan hỷ thỏa thích trong pháp
Niệm Thân (kàyagatà-sati) an vui thỏa thích trạng thái
Bất Diệt (Niết Bàn)."
Nơi đây danh từ Amata -- để
chỉ Niết Bàn -- có nghĩa là trạng thái tâm thanh b́nh an
lạc và vắng lặng. [15]
Trong t́nh trạng sơ khởi, tâm rất chao
động và bất ổn định khi ta muốn
chăm chú vào đề mục. Như thế bản
chất nguyên thủy của tâm là khô cằn và nóng nảy.
Giống như con sâu nằm trong trái ớt, không hay
biết ǵ đến sức nóng của ớt, con
người có bản chất tham ái (tanhà) không nghe
sức nóng của ái dục, người có bẩm tánh sân
hận và tự cao tự đại không cảm nhận
sức nóng của sân hận và tánh tự phụ, cùng
thế ấy chúng sanh không hay biết ǵ đến sức
nóng của một cái tâm khuấy động. Chỉ
đến khi, do công phu thực hành pháp Niệm Thân, kàyagatà-sati,
trạng thái tâm tán loạn chấm dứt, ta mới
nhận thức nhiệt độ của t́nh trạng
bất ổn. Đă tiến đạt đến trạng
thái tan biến của tâm khuấy động ta mới
biết sợ sức nóng của tâm ấy tái phát.
Trường hợp người đă thành đạt
tầng Sơ Thiền hay tầng Tuệ Sanh Diệt (udayabbaya
nàna) xuyên qua pháp hành Niệm Thân (kàyagatà-satipatthàna),
ta không cần phải giải bày dài ḍng nữa.
Từ đây, càng thành đạt những mức
độ cao siêu nhiều hơn càng thấy ḿnh khó tự
tách rời khỏi pháp kàyagatà-sati (Niệm Thân). Các bậc
Thánh Nhân (ariya puggalas) áp dụng pháp Tứ Niệm
Xứ (satipatthàna) để nuôi dưỡng tâm linh cho
đến khi nhập Đại Niết Bàn (parinibbàna).
Để thành đạt khả năng giữ tâm an
trụ vào một phần nào trong thân, như
hơi-thở-ra và thở-vào chẳng hạn, có thể
cần phải mất từ 7 ngày hay 15 ngày, hoặc
một tháng, 2 tháng, 3 tháng, hay 4 tháng, hay 5 tháng, 6 tháng hay
một năm, 2 năm, hay 4 năm, tùy theo mức
độ chuyên cần tinh tấn của mỗi
người.
Về phương pháp thực hành pháp niệm
hơi-thở-ra và hơi-thở-vào, nên đọc quyển
"Ànapàna D́pań" [16].
Có nhiều sách dạy về pháp hành niệm ba
mươi hai phần của thân. Trong pháp hành nầy, kesà
(tóc), lomà (lông), nakhà (móng tay, móng chân), dantà (răng),
taco (da) được xem là taca pancaka (nhóm năm
phần của thân, chấm dứt bằng taco). Nếu có
thể vững chắc an trụ tâm vào năm điểm
ấy công phu Niệm Thân (kàyagatà-sati) đă được
viên măn thành tựu.
Về những pháp niệm catu dhàtu vavatthàna
(Phân Tách Tứ Đại), rùpa vipassanà (quán niệm các
hiện tượng vật lư, tức các sắc pháp), và nàma-vipassanà
(quán niệm các hiện tượng tâm linh, danh pháp), xem
những quyển "Lakkhana D́pań", "Vijjà-magga
D́pań", "Ahàra D́pań", và "Anattà D́pań"
của Sư.
* * *
Đến đây chấm dứt phần giảng
giải ngắn gọn pháp kàyagatà-sati bhàvanà, Thân Quán
Niệm Xứ, vốn là một trong bốn pháp "Tứ
Niệm Xứ", và là pháp mà những người ở
hạng Neyya và Padaparama cần nên kiên cố
nắm vững trong công tŕnh luyện tâm (bhàvanà),
nhằm mục tiêu thành đạt Đạo và Quả trong
Giáo Huấn của một vị Phật.
Ghi chú:
[1] Về ư nghĩa của danh từ, xem Phần
Nói Đầu của Chủ Biên.
[2] Lục thức: sáu loại hay biết là: nhăn
thức tức hay biết qua mắt (thấy), nhĩ
thức hay biết qua mũi (hửi) v.v... tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, và ư thức.
[3] Tức nhăn căn, nhĩ căn v.v...
[4] Brahma-vihàra (tứ vô lượng tâm) là: mettà
(tâm từ), karunà (tâm bi), mudità (tâm hỷ), và upekkhà
(tâm xả). Xem The Wheel số 6.
[5] Xem chú giải trong phần Nhập Đề.
[6] Tam nghiệp là thân nghiệp, khẩu
nghiệp, và ư nghiệp. Ba loại nghiệp nầy bao
gồm mười (10) hành động tạo bất
thiện nghiệp là:
- Kàyakamma, 3
thân nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh;
- Vaćkamma, 4 khẩu nghiệp: nói dối, nói đâm
thọc, nói thô lỗ cộc cằn và nói nhảm nhí.
- Manokamma, 3 ư nghiệp: ḷng tham lam, sân hận và tà
kiến.
[7] Thân quán niệm xứ: chú tâm niệm trở
vào thân. Niệm Thân.
[8] Kàyagatà-sati, Thân Quán Niệm Xứ. Nơi
đây để cho gọn, pháp nầy được
gọi là "Niệm Thân".
[9] Sukkha vipassaka, người chỉ thực
hành minh sát (vipassanà) mà không qua thiền vắng lặng
trước.
[10] Vanna manasikàra, chú tâm niệm vào màu sắc
hay h́nh thể, vốn là một phần của pháp niệm
32 phần trong thân.
[11] Tám tầng samàpattis là 4 tầng Thiền
Sắc Giới và 4 tầng Thiền Vô Sắc.
[12] Niệm về trạng thái bất tịnh (ô
trược) của thân.
[13] Amatta nibbàna, trạng thái Bất Diệt
của Niết Bàn -- một danh từ khác để
gọi Niết Bàn.
[14] Anguttara, Tăng Nhứt A Hàm, Ekaka-nipàta;
Bản dịch tiếng Anh trong "The Wheel", số
155/158, trang 6.
[15] Danh từ nầy hàm xúc kilesa-nibbàna,
trạng thái đă "dập tắt mọi ô
nhiễm" trong đời sống của vị A-La-Hán.
[16] Ànàpàna D́pań, sách tiếng Pàli, không có
bản tiếng Anh
CHƯƠNG III
Tứ chánh cần
(Sammappadhàna)
Danh từ sammappadhàna
được định nghĩa như sau:
Bhusam dahati vahat́'ti padhànam sammadeva
padhànam sammappadhànam.
Có nghĩa: padhàna là tận lực
chuyên cần tinh tấn, mạnh mẽ cố gắng;
nếu chuyên cần một cách thích đáng và chân chánh th́
đó là sammappadhàna, Chánh Cần, hay Chánh Tinh Tấn.
Đó là quyết tâm, tận lực
chuyên cần tinh tấn, một sự cố gắng không
mảy may hàm ư gượng gạo, cũng được
gọi là "nhiệt thành tinh tấn" (àtàpa-v́riya).
Đó là một cố gắng có bốn đặc tính
được nêu lên trong đoạn văn sau đây:
Kàmam taco ca nahàru ca atthi ca avasissatu,
saŕre upasussatu mamsalohitam; yam tam purisathàmena purisav́riyena
purisaparakkamena pattabbam, na tam apàpunitvà viriyassa santhànam bhavissati.
"Hăy để cho da, gân và
xương, thịt c̣n lại, máu trong thân tôi khô cạn
dần, tôi sẽ không chấm dứt chuyên cần tinh
tấn cho đến khi thành đạt những ǵ mà
khả năng của con người, tánh chuyên cần
của con người, và sự cố gắng của con
người, có thể thành đạt." (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt
A-Hàm, Duka Nipàta; Wheel 155/158, tr.9).
Những đặc tính nầy có thể
được tóm gọn như sau:
1. Hăy để cho
da c̣n lại,
2. Hăy để cho gân c̣n lại,
3. Hăy để cho xương c̣n lại,
4. Hăy để cho thịt và máu khô cạn dần.
Đây là loại tinh tấn cần phải có sự
quyết tâm dũng mănh, "Nếu đây là mục tiêu mà
con người có thể đạt đến, ta sẽ
không dể duôi ngừng nghỉ hay hững hờ buông
lơi cho đến khi viên măn thành tựu, ta quyết tâm
phải vượt tới cho bằng được và
vững chắc nắm lấy mục tiêu ấy." Đó là
loại tinh tấn mà Đại Đức Sona [1] và Đại
Đức Cakkhupàla [2] đă tận lực gia công.
Khi đă chuyên cần tinh tấn trọn cuộc
đời như Đức Phật đă chỉ dạy mà
không đạt được các tầng Thiền hay các
Đạo, các Quả, chỉ đến chừng đó
mới có thể nói rằng nguyên nhân của t́nh trạng
không thành công nầy là do thiếu sót điều kiện
trong kiếp sống hiện tại, v́ được sanh
ra với chỉ có hai nhân thiện (dvi-hetuka), hay v́
trong quá khứ ta tích trữ không đủ ba-la-mật (pàrami).
Có vài người không chịu khó tinh cần
đúng mức như Đức Phật chỉ dạy,
cũng không cố gắng hành pháp Niệm Thân để
chữa trị cái tâm tán loạn hoang dại của ḿnh mà
vẫn đổ lỗi là tại có những thời
kỳ mà không ai có thể chứng đắc tầng
Thiền (Jhàna) nào hay Đạo (magga) và Quả (phala)
ǵ. Có những vị khác cũng thuộc về hạng
những người nầy nói rằng con người, nam
hay nữ, trong thời hiện tại nầy không có tích
trữ đầy đủ ba-la-mật cần thiết
để có thể đắc Đạo và Quả. Lại có
người khác nữa, cũng thuộc hạng
người trên, chủ trương rằng trong thời
nầy con người chỉ được sanh ra với
hai nhân thiện (dvi-hetuka). Tất cả những
người ấy nói như vậy bởi v́ họ không
biết rằng có những thời kỳ mà chúng sanh trong
hạng Neyya [3] không thể thành đạt Đạo và
Quả nếu không tinh tấn chuyên cần đúng mức,
chánh cần (sammappadhàna).
Nếu chuyên cần tinh tấn thích nghi (sammap-padhàna),
nhiệt thành quyết chí (pahitatta) đúng mức,
nơi nào có một ngàn người quyết tâm gia công
như vậy, có thể có ba, bốn, hay năm trăm
người đủ khả năng thành tựu những
mức độ cao siêu; nếu có một trăm
người tinh tấn như vậy có thể có ba
mươi, bốn mươi, hay năm mươi vị
đủ khả năng thành tựu. Nơi đây,
"sự quyết tâm" (pahitatta) có nghĩa là
"dũng mănh quyết định gia công chuyên cần tinh
tấn trọn đời, chí đến khi chết, trong
giây phút cuối cùng vẫn tận lực cố
gắng."
Đại Đức Sona quyết định không
ngủ, thức suốt ba tháng mùa mưa (vassa),
chỉ đi và ngồi. Mức tinh tấn của Ngài
Cakkhupàla cũng dường thế ấy. Đại Đức
Phussadeva [4] chỉ đắc Đạo và Quả sau hai
mươi lăm năm tinh tấn ở mức độ
ấy. Trường hợp của Ngài Đại Đức
Mahàsiva [5], mức tinh tấn như vậy kéo dài ba
mươi năm.
Ngày nay chúng ta rất cần phải có những
mức độ tinh tấn (sammappadhàna, chánh cần)
như thế ấy. Có những vị gia công chuyên cần
tinh tấn đúng mức nhưng không có đủ pariyatti
(pháp học, hay Sức Học Giáo Lư) để làm
nền tảng vững chắc cho pháp hành, trong khi ấy
những vị khác có nền tảng pariyatti (Sức
Học Giáo Lư) vững chắc, nhưng lại phải
vấn vương trong những công tác Phật sự
của vị tỳ khưu có tánh cách gây palibodhas
(trở ngại), như thảo luận Giáo Pháp, thuyết
giảng giáo lư, viết sách về Giáo Pháp v.v... Đó là
những vị không thể tận lực gia công chuyên
cần (sammappadhàna, chánh cần) suốt một
thời gian lâu dài không gián đoạn.
Vài người có thói quen nói rằng đến chừng
nào các ba-la-mật (pàramis) của ḿnh đủ chín mùi,
thời gian sẽ trở nên thuận tiện và chừng
ấy họ sẽ đủ thuần thục để
giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của thế
gian. Đ?n lúc ấy họ sẽ dễ dàng thành đạt
giải thoát, hiện giờ họ không tận lực gia
công v́ không biết chắc công tŕnh khổ nhọc ấy có
đưa đến thành quả tốt đẹp không.
H́nh như các vị ấy không so sánh những khổ
đau mà họ phải chịu trong thời gian ba
mươi năm chuyên cần tinh tấn với những
hoàn cảnh bất hạnh vô cùng kham khổ mà họ
sẽ phải gặp, nếu trong khoảng thời gian
chờ đợi cho đến ngày giải thoát họ
phải sa đọa vào cảnh địa ngục cả
trăm ngàn năm. Có vẻ như các vị ấy không
nhớ rằng những khổ nhọc mà họ phải
chịu trong ba mươi năm chuyên cần tinh tấn
không đến đổi cùng cực khổ đau như
chỉ ba tiếng đồng hồ trong cảnh
địa ngục.
Những vị ấy có thể nói rằng
nếu họ không giải thoát th́ hoàn cảnh vẫn
như thế nầy sau ba mươi năm chuyên cần
tinh tấn. Nhưng nếu người đủ thuần
thục chín mùi để giải thoát th́ công phu chuyên
cần ấy sẽ giúp họ thành đạt giải thoát.
Nếu không đủ thuần thục chín mùi, họ
sẽ thành tựu giải thoát trong kiếp sống tới
kế đó. Dầu không thể giải thoát trong thời
kỳ có Giáo Huấn của vị Phật (Buddha Sàsana)
hiện tiền, nghiệp lành của công tŕnh liên tục
tinh tấn trau giồi tâm trí (bhàvanà àcinna kamma) là
một nghiệp lực dũng mănh. Nhờ cái nghiệp có
năng lực hùng mạnh ấy họ có thể tránh xa
những khổ cảnh (apàya), và gặp vị
Phật tương lai kế sau đây, sau chuỗi dài
những kiếp sống trong những cảnh giới
hữu phúc (sugati). Trong trường hợp những
vị không gia công chuyên cần tinh tấn, họ sẽ
mất cơ hội dù đă đủ thuần thục
chín mùi để thành tựu giải thoát sau ba mươi
năm tinh tấn. V́ thiếu chánh cần những vị
nầy không thành đạt được ǵ, và để
mất tất cả. Do vậy, tất cả chúng ta hăy
mở rộng "Cặp Mắt Trí Tuệ", và
để ư coi chừng hiểm họa.
Có bốn loại sammappadhàna [6], chánh cần,
là:
1. Uppannànam akusalànam
dhammànam pahànàya vàyàmo,
2. Anuppannànam akusalànam dhammànam anuppà-dàya vàyàmo,
3. Anuppannànam kusalànam dhammànam uppàdàya vàyàmo,
4. Uppannànam kusalànam dhammànam bhiyyo-bhàvàya vàyàmo.
1. Tinh tấn
chế phục hoặc loại trừ những hành
động bất thiện đă khởi sanh, hoặc
đang trên đà phát sanh;
2. Tinh tấn xa lánh (chẳng những trong kiếp sống
hiện tiền mà luôn cả trong những kiếp về
sau), ngăn ngừa những hành động bất
thiện chưa phát sanh, không để cho nó khởi sanh;
3. Tinh tấn làm phát sanh những hành động thiện
chưa khởi sanh;
4. Tinh tấn tăng trưởng và duy tŕ bền lâu
những hành động thiện đă khởi sanh hoặc
trên đà phát sanh.
Các Hành Động (nghiệp) Bất Thiện Đă và
Chưa Phát Sanh (Uppanna và Anuppanna Akusala Kamma)
Bên trong cá tính của mỗi chúng sanh c̣n thênh thang
trong ṿng luân hồi (samsàra) có hai loại nghiệp
bất thiện (hành động có tác ư bất thiện),
đó là:
1. Uppanna akusala
kamma, và
2. Anuppanna akusala kamma.
Uppanna akusala kamma (những hành động bất thiện đă
phát sanh) có nghĩa là những nghiệp bất thiện
đă tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Các
nghiệp nầy bao gồm những hành động bất
thiện có tác ư, bằng thân, khẩu, ư, mà ḿnh đă làm trong
chuỗi dài vô tận những chu kỳ thế gian và trong
những kiếp sống quá khứ. Trong những akusala
kammas (nghiệp bất thiện) ấy có vài nghiệp
đă trổ quả đưa đến tái sanh vào
những apàya-lokas (khổ cảnh, bốn cảnh
giới thấp kém và khốn khổ của những
kiếp sống). Những nghiệp khác đang chờ
đợi để đúng lúc trổ quả đưa
tái sanh vào những khổ cảnh (apàya-lokas), và như
vậy c̣n chứa đựng những tiềm năng dính
liền với chúng sanh từ chu kỳ thế gian nầy
đến chu kỳ khác, từ kiếp sống nầy
đến kiếp khác, để đưa đến tái sanh
vào các cảnh khổ [7].
Tất cả những ai c̣n mang nặng sakkàya-ditthi
(Thân Kiến), dầu là người, chư Thiên, hay chư
Phạm Thiên, đều có tích trữ một kho tàng
rộng lớn những món nợ cũ, bao gồm akusala
kammas (nghiệp bất thiện). Chính những nghiệp
bất thiện nầy tự nó có tiềm năng
đưa đến tái sanh vào cảnh Av́ci, a-tỳ
địa ngục, thấp nhất. Cùng thế ấy, có
vô số kho tàng tích trữ những nghiệp khác có thể
trổ quả đưa đến tái sanh vào những apàya-lokas
(khổ cảnh) khác. Các nghiệp quá khứ ấy chờ
một cơ hội thuận tiện để trổ
quả đưa đến tái sanh và sẽ theo dính
liền chúng sanh từ kiếp nầy sang kiếp khác cho
đến khi khô cạn tiềm lực, được
gọi là uppanna (đă phát sanh).
Những nghiệp bất thiện đă phát sanh (uppanna
akusala kammas) ấy bắt nguồn từ sakkàya-ditthi
(Thân Kiến, lầm lạc chấp thủ ư niệm
rằng cơ thể vật chất nầy là chính ḿnh).
Ngày nào c̣n chấp thủ Thân Kiến th́ c̣n tạo
nghiệp mới. Nhưng đến khi tuệ minh sát
rọi sáng vào anattà-lakkhàna (đặc tướng vô
ngă) th́ sakkàya-ditthi, Thân Kiến sai lầm ấy
đương nhiên chính nó tự loại trừ. Đến
chừng ấy tất cả uppanna akusala kammas,
nghiệp bất thiện đă phát sanh, mất dần
tiềm năng và biến tan trong kho tàng của những akusala
kammas, nghiệp bất thiện. Kể từ kiếp
sống ấy trở đi ta sẽ không c̣n phải tái sanh
vào những khổ cảnh, apàya-lokas, dầu chỉ
là trong giấc mộng.
Anuppanna akusala kammas (những nghiệp bất thiện chưa phát
sanh) có nghĩa là những akusala kamma, nghiệp bất
thiện, trong tương lai. Trong kiếp sống nầy,
bắt đầu từ khoảnh khắc kế tiếp
trong đời sống hiện tại, tất cả
những nghiệp bất thiện mới của ta mỗi
khi phát sanh, bất luận lúc nào trong kiếp hiện
tiền và trong chuỗi dài những kiếp sau đó,
được gọi là anuppanna, chưa phát sanh.
Những akusala duccarita kammas (nghiệp ác và không trong
sạch) mà ta có thể sẽ tạo, dầu chỉ trong
một kiếp sống, có thể nhiều vô số kể.
Tất cả những anuppanna akusala kammas,
nghiệp bất thiện chưa tạo ấy bắt
nguồn từ Thân Kiến (sakàya-ditthi).
Nếu Thân Kiến ấy chấm dứt, tất
cả những nghiệp bất thiện chưa phát sanh
cũng tan biến ngay trong khoảnh khắc ấy, không
để lại dấu vết. Nơi đây danh từ
"tan biến" có nghĩa là kể từ giờ phút
nầy, trong những khoảnh khắc tương lai, trong
chuỗi dài những kiếp sống tương lai, và trong
chuỗi dài những chu-kỳ-thế-gian tương lai,
không c̣n cơ hội nào để có thể tái phạm
những akusala kammas, nghiệp bất thiện
mới. Xuyên qua trọn cuộc sống tương lai trong
anamatagga samsàra (ṿng quanh những kiếp sống vô cùng
tận), những chúng sanh ấy sẽ không c̣n vi phạm,
dầu trong giấc mộng, bất luận bất
thiện nghiệp nào như sát sanh, pànàtipàta.
Nếu c̣n chấp thủ Thân Kiến, dầu
chúng sanh ấy là một vị Đại Đế thống
trị toàn thể vũ trụ, cũng sẽ c̣n bị
kẹp ở giữa, trước là lửa địa
ngục, và sau là lửa địa ngục. Hai ngọn
lửa akusala kammas của uppanna và anuppanna
(nghiệp bất thiện đă phát sanh và nghiệp bất
thiện chưa phát sanh) chằn chịt bao vây, không thể
tới, mà lui cũng không được. Vị ấy
chỉ thuần túy là một tạo vật của lửa
địa ngục. Cùng thế ấy, vị vua của
những cảnh trời (deva-lokas), Sakka, vua
của cảnh trời Đạo Lợi, Tàvatimsa-deva-loka,
tức Tam Thập Tam Thiên, chư Phạm Thiên ở
những cảnh Phạm Thiên Sắc Giới và Vô Sắc
Giới, tất cả cũng đều chỉ là tạo
vật của lửa địa ngục. Tất cả
đều là những tạo vật cố bám lấy
những xiềng xích của địa ngục và những
khổ cảnh. Trong cái xoay tṛn rộng lớn của ṿng
luân hồi (samsàra) tất cả chỉ thuần túy là
những tạo vật lăn trôi và lặn hụp trong ḍng
nước lũ của những kiếp sinh tồn.
Trong ṿng luân hồi dài dẳng vô cùng tận, chúng
sanh ham muốn được gặp Giáo Huấn của
một vị Phật, điều ấy cực kỳ khó
thành tựu.
Chúng sanh bị hai ngọn
lửa-địa-ngục uppanna và anuppanna akusala kammas
-- những nghiệp bất thiện đă phát sanh và
những nghiệp bất thiện chưa phát sanh -- ngăn
trước chận sau, tấn thối lưỡng nan,
phải tận lực gia công, và thành tâm nghiêm trọng trau
giồi ư nguyện dập tắt hẳn hai ngọn
lửa ấy. Từ đây về sau, những ai đă
gặp được Giáo Huấn của Đức Phật (Buddha
Sàsana) phải xem sự dập tắt hai ngọn
lửa-địa-ngục đă và chưa phát sanh ấy là
công tŕnh tối quan trọng, tối cần thiết,
nhiệm vụ duy nhất, để thành đạt
trạng thái an lành trong tương lai.
Công tŕnh dập tắt nghiệp bất thiện
của những hành động đă và chưa phát sanh (akusala
kammas of uppanna and anuppanna) là loạị trừ Thân
Kiến (sakkàya-ditthi) bên trong chính ḿnh, không có ǵ khác.
Nếu ta có thể nhổ tận gốc rễ sakkàya
ditthi, Thân Kiến, hai nghiệp bất thiện (akusala
kammas) đều trọn vẹn tắt hẳn.
"Bon-sin-san" Sotàpannas [8],
như bà Visàkhà và Trưởng Giả Anàthapindika (Cấp Cô
Độc), đă vô số lần được sanh trong
cảnh người, cảnh trời (deva) và cảnh
Phạm Thiên (brahmas), là những vị đă thành
đạt giải thoát ra khỏi trạng thái lặn
hụp lăn trôi trong đại trùng dương của
ṿng luân hồi (samsàra) từ khi đă tận diệt
Thân Kiến (sakàya-ditthi). Có những chúng sanh đă thành
tựu Niết Bàn lần đầu tiên được
gọi là sa-upadisesa nibbàna, Hữu Dư Niết Bàn [9].
Mặc dầu c̣n phải thênh thang trong ṿng sanh-tử
tử-sanh nhiều lần và nhiều chu kỳ thế gian,
các Ngài không c̣n là một chúng sanh tại thế (phàm
tục). Đă trở thành bậc Thánh "Bon-sin-san",
Ngài đă là chúng sanh Siêu Thế (lokuttara).
Đến đây chấm dứt phần giải
thích hai danh từ uppanna và anuppanna akusala kamma, nghiệp
bất thiện đă phát sanh và nghiệp bất thiện
chưa phát sanh.
Nghiệp Thiện Đă Phát Sanh Và Chưa Phát Sanh (Uppanna
and Anuppanna Kusala Kamma)
Giờ đây Sư sẽ chỉ rơ cách phân chia
những thiện nghiệp (kusala kammas) đă phát sanh
và chưa phát sanh (uppanna và anuppanna), làm hai phân hạng.
Trước tiên, liên quan đến ba phẩm hạnh śla
(Giới), samàdhi (Định), pannà (Tuệ) và sau
đó liên quan đến satta visuddhi (bảy giai
đoạn Thanh Tịnh) - Xem phần Nhập Đề.
Tà Kiến (ditthi)
Khi nói rằng Samsàra, Ṿng Luân Hồi, thật
vô cùng khủng khiếp, đó là v́ những Hành Động
Bất Thiện (duccarita), đă phát sanh (uppanna,
trong quá khứ và trong hiện tại) và những hành
động chưa phát sanh (anuppanna, tức có tiềm
năng sẽ phát sanh trong tương lai) đều
bắt nguồn từ Tà Kiến (ditthi). Khi nói
rằng không có nơi nào để lẫn trốn, không có
cảnh trời nào để nương tựa, cũng là
v́ những Hành Động Bất Thiện và những Tà
Kiến.
Khi đă dập tắt Tà Kiến th́ cả hai,
những Hành Động Bất Thiện (duccarita) mới
và cũ cũng đều bị dập tắt cùng lúc.
Dập tắt những nghiệp bất thiện cũ và
mới tức là đóng chặt cánh cửa mở vào
những khổ cảnh (apàya, xem chú thích 1, trang 154).
Chỉ c̣n tái sanh vào những cảnh người, trời
và Phạm Thiên. Bởi v́ chúng sanh phải phát triển ḷng
ham muốn gặp Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana) để chắc chắn
khỏi rơi vào khổ cảnh, cùng với những
nghiệp bất thiện cũ và mới, giờ đây
đă có duyên may gặp Phật Giáo trong chính kiếp
sống hiện tại ta phải cố gắng chuyên
cần dập tắt cái nghiệp bất thiện vô cùng
quan trọng là Tà Kiến. Tà Kiến có ba tầng lớp
kiên cố nằm bên trong chúng sanh, đó là:
1) V́tikkama, lớp "Vượt Ra
Ngoài", (tâm bộc lộ, biểu hiện ra ngoài bằng
hành động hay lời nói, thân hay khẩu),
2) Pariyutthàna, lớp "Quấy
Nhiễu", (tâm bị những tư tưởng bất
thiện, những trạng thái tinh thần liên quan
đến ô nhiễm, kilesa, làm rối loạn),
3) Anusaya, lớp "Khuynh Hướng Tâm
Tánh Ngủ Ngầm", hay bản tánh bất thiện
của những ô nhiễm [10] tiềm ẩn ngấm
ngầm trong tâm.
Những lớp ấy là phạm vi sinh hoạt,
nơi an trú của Thân Kiến (Sakkàya-ditthi). Có thể
gọi ba tầng lớp ấy của Tà Kiến là thô
thiển, trung b́nh, và tế nhị.
Giờ đây Sư (Ngài Ledi Sayadaw) sẽ thảo
luận về hậu quả của Tà Kiến,
mười hành động bất thiện (ducarita:
xem chú thích ở Chương II), bên trong những tầng
lớp của Tà Kiến.
Tầng lớp thô thiển của Tà Kiến,
"Vượt Ra Ngoài" (v́tikkama), bao gồm
những hành động tạo nghiệp bất thiện (akusala
kamma), biểu lộ ra hành động bằng thân và
khẩu. Tầng lớp trung b́nh, "Quấy Nhiễu"
(pariyutthàna), bao gồm những ác pháp phát sanh
dưới h́nh thức tư tưởng trong tâm. Tầng
lớp tế nhị nhất, "Khuynh Hướng Tâm Tánh
Ngủ Ngầm" (anusaya) là những ác pháp tiềm
tàng ngủ ngầm bên trong cá tính của chúng sanh xuyên qua
suốt những kiếp sanh-tử, tử-sanh của ṿng
luân hồi vô tận (anamatagga-samsàra), mặc dầu là
chưa phát hiện ra ngoài bằng hành động, lời
nói, hay tư tưởng.
Ta có thể nói đó là ba loại lửa trong
hộp diêm quẹt. Đầu tiên là ngọn lửa tiềm tàng
ngủ ngầm trong toàn thể hộp diêm. Thứ nh́ là
ngọn lửa phát hiện khi ta quẹt cây diêm trên cái
hộp. Thứ ba là ngọn lửa từ cây quẹt
chuyển sang một vật khác khi ta đưa ngọn
lửa tiếp xúc với vật ấy. Ngọn lửa
như vậy có thể đốt cháy một đống
rác, quần áo, nhà cửa, chùa chiền hay làng xóm.
Ngọn lửa ấy, từ vật nầy
chuyển sang vật khác giống như loại Tà Kiến
thô thiển (v́tikkama ditthi), vượt ra ngoài, biểu
hiện dưới h́nh thức hành động bằng thân
hay khẩu. Ngọn lửa đốt cháy cây quẹt
giống như Tà Kiến loại trung b́nh, pariyutthàna
ditthi, phát hiện trong tâm mỗi khi tâm tiếp xúc
với một đối tượng. Lửa ngủ
ngầm trong hộp quẹt giống như anusaya ditthi,
khuynh hướng tà kiến ngủ ngầm, tiềm tàng
nằm trong cá tính của chúng sanh xuyên qua chuỗi dài
những kiếp sống trong ṿng luân hồi vô cùng tận, anamatagga
samsàra.
Lửa ngủ ngầm trong hộp diêm không
bật phát lên cháy nếu ta không quẹt đầu cây diêm
lên trên mặt nhạy cháy của hộp diêm. Trong
trường hợp nầy, nó không gây tai hại nào dầu
ta để chung với những vật dễ cháy như
dầu lửa hay thuốc súng chẳng hạn. Cùng thế
ấy anusaya ditthi, tức khuynh hướng tà kiến
ngủ ngầm bên trong luồng nghiệp, không tự
biểu hiện nếu không tiếp xúc với những
đối tượng bất thiện của tâm hoặc
bất thiện pháp nào khác. Tuy nhiên, khi những đối
tượng bất thiện của tâm hoặc những
nguyên nhân khác tiếp xúc với lục căn, anusaya ditthi,
khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm liên quan đến
tà kiến bị khuấy động, bắt đầu
tự biểu hiện ở ư căn, hoặc ở
từng lớp pariyutthàna (Quấy Nhiễu) do năng
lực của tác ư. Sự biểu hiện nầy có
thể bị đè nén nếu vào lúc ấy có giáo lư tốt
đẹp phát sanh kịp thời, nó sẽ tan biến
ở tầng lớp pariyutthàna, Quấy Nhiễu, và
trở lại tầng lớp anusaya, ngủ ngầm,
ở đó như khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm
thiên nhiên. Nếu ta không thể đè nén, nó sẽ tiếp
tục tự biểu hiện dưới h́nh thức tác ư.
Nếu, trong tầng lớp pariyutthàna, Quấy
Nhiễu, mà c̣n bị khuấy động nó sẽ tự
biểu hiện trong tầng lớp v́tikkama
(Vượt Ra ngoài), dưới h́nh thức lời nói hay
việc làm, tức tạo khẩu nghiệp hay thân
nghiệp.
Trên thế gian nầy, nếu người kia có
thể tự kiểm soát ḿnh trong tầng lớp v́tikkama
và pariyutthàna (Vượt Ra Ngoài và Quấy Nhiễu) và do
đó những việc làm, lời nói và tư tưởng
tương đối trong sạch, không bị nhiễm ô,
người ấy được xem là người
tốt, có tâm đạo nhiệt thành, con người
đạo đức.
Nhưng vị ấy chưa hay biết
để canh chừng anusaya, lớp khuynh
hướng tâm tánh ngủ ngầm. Nếu chưa loại
trừ lớp khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm,
dầu có kiểm soát chặt chẽ hai lớp v́tikkama
và pariyutthàna (Vượt Ra Ngoài và Quấy Nhiễu),
t́nh trạng kiểm soát nầy chỉ có tánh cách tạm
bợ nhứt thời. Nếu người kia dũng mănh
hành tŕ các nguyên tắc đạo đức tốt
đẹp, sự kiểm soát nầy chỉ kéo dài
đến suốt kiếp sống. Nhưng không có ǵ
bảo đảm cho kiếp sống sắp đến
sau, khi hai tầng lớp kia có thể trổi dậy.
Lobha (Tham), dosa
(Sân), và mohà (Si), mỗi tật xấu cũng có ba
tầng lớp.
Nhằm tận diệt ba lớp Tà Kiến (ditthi)
nầy, ta phải chuyên cần tinh tấn thực hành ba
Pháp Tu Học (sikkhàs): Giới (śla), Định (samàdhi),
và Tuệ (pannà). Phải thực hành bảy Thanh
Tịnh (visuddhis).
Đối với người tại gia cư
sĩ, śla (Giới) có nghĩa là Aj́vatthamaka-śla [11],
vốn là nicca-śla, giới hành tŕ thường xuyên.
Hành Bát Quan Giới trong những ngày giới (Atthànga-uposatha-śla)
và Thập Giới (Dasanga-śla) thêm phần tinh luyện
cho giới thường xuyên (nicca-śla). Nếu có
thể nghiêm tŕ các giới nầy th́ tốt lắm;
nhưng nếu không thể hành được th́ cũng không
quan trọng lắm. Những ai đă đắp y vàng
của nhà tu ẩn sĩ (Isis) th́ Aj́vatthamaka-śla
và Dasanga-śla (Thập Giới) là giới (śla)
phải đuợc hành tŕ đầy đủ. Bát Quan Trai
Giới (Atthanga-upasatha-śla) được bao gồm
trong Thập Giới (Dasanga-śla). Đối với chư
vị tỳ khưu (bhikkhu), Tứ Thanh Tịnh
Giới (Catupàrisuddhi-śla) là nhóm Giới (śla). [12]
Tạm Định, Cận Định, và Toàn Định
[13] bằng cách Niệm Thân (như niệm hơi-thở-ra
và thở-vào), hay niệm 32 phần trong thân) là nhóm Định
(samàdhi).
Bốn Thanh Tịnh tại thế [14] cùng với
Tri Kiến Tịnh (lokuttara-nànadassana-visuddhi) siêu
thế là nhóm Tuệ (pannà).
Trong ba lớp Tà Kiến (ditthi), nhóm Giới
(śla) loại trừ lớp "Vượt Ra
Ngoài" (v́tikamma). Điều nầy có nghĩa là nếu
có phát triển đầy đủ Giới Tịnh (śla-visuddhi),
ắt thân và khẩu nghiệp không thể trổi dậy.
Nhóm Định (samàdhi) có thể loại trừ Tà
Kiến ở lớp "Quấy Nhiễu" (pariyutthàna)
những tư tưởng trong tâm. Điều nầy có
nghĩa là nếu tâm định trong pháp hành (bhàvanà-manasikàra)
được thiết lập kiên cố, ắt ư
nghiệp không thể trổi dậy. Nhóm Tuệ (pannà)
loại trừ Tà Kiến ở lớp anusaya,
"Khuynh Hướng Tâm Tánh Ngủ Ngầm." Điều
nầy có nghĩa là nếu tuệ minh sát được
phát triển đầy đủ, ta hiểu biết
rằng toàn thể cái thường gọi là cá nhân,
người, chỉ là một nhóm tiến tŕnh danh và
sắc (nàma và rùpa) và như sự cấu thành của
một nhóm những thành phần vô thường, khổ, và
vô ngă. Chừng ấy khuynh hướng Tà Kiến tiềm
tàng ngủ ngầm trong luồng anusaya tự biểu
hiện trong ư niệm lầm lạc thấy có một
người (puggala), một chúng sanh (satta), và
thấy trạng thái thường c̣n (nicca) sẽ tan
biến. Ngày nào mà "Khuynh Hướng Tà Kiến Ngủ
Ngầm" (ditthi-anusaya) c̣n hiện hữu, t́nh
trạng loại trừ lớp "Vượt Ra
Ngoài", biểu hiện qua hành động và lời nói
bằng nhóm Giới (śla), và lớp "Quấy Nhiễu"
(pariyutthàna) bằng nhóm Định (samàdhi) chỉ có
tánh cách tạm bợ.
Trong phân hạng những hành động
"đă phát sanh" và "chưa phát sanh" (uppanna,
anuppanna), có hai phương pháp, đó là:
1. phân hạng
căn cứ trên kiếp sống hiện hữu như
khởi điểm, và
2. phân hạng căn cứ trên quá khứ vô tận trong ṿng
luân hồi (samsàra) như khởi điểm.
g Bát Thánh Đạo), bằng cách tinh tấn diệt
trừ đến tận cùng (samuccheda-pahàna), hay có
thể hoàn toàn loại trừ tận gốc rễ,
những bất thiện pháp Tham ái (abhijjhà) và Sân
Hận (vyàpàda), vốn bắt nguồn từ
micchà-vàyàma (tà tinh tấn), micchà-sati (tà niệm) và
micchà-samàdhi (tà định). Khi đă bị tận diệt,
những bất thiện pháp Tham ái và Sân Hận ấy không
c̣n phát sanh trở lại trong suốt nhiều kiếp
sống và nhiều chu kỳ thế gian tương lai. Loại
Định Siêu Thế nầy chỉ có thể thành đạt
trong thời kỳ có Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana), khi hành giả quán niệm và phát
triển đặc tướng Vô Ngă (anattà bhàvanà). Do
đó, hiệSư sẽ chỉ rơ phương pháp căn
cứ trên kiếp sống nầy làm khởi điểm.
Bên trong những người chưa bao giờ giữ
giới (śla) trong kiếp sống nầy, ắt không
có Giới "đă phát sanh" (uppanna śla). Bên trong
những ai có giữ giới, vào một lúc nào trong kiếp
sống nầy, ắt có Giới "đă phát sanh" (uppanna-śla).
Định và Tuệ "không phát sanh" và "đă phát
sanh" cũng được hiểu cùng một thế
ấy.
Theo phương pháp căn cứ trên quá khứ
trong ṿng luân hồi như khởi điểm có hai loại
Giới, tại thế và siêu thế (lokiya và lokuttara-śla).
Giới Tại Thế là "đă phát sanh" (uppanna),
bởi v́ không có ai mà trong ṿng (samsàra) luân hồi từ
quá khứ xa xưa, chưa có lần nào giữ Giới
Tại Thế. Nhưng Giới Siêu Thế (lokuttara-śla)
th́ đối với người phàm (puthujjana), là
"chưa phát sanh" (anuppanna).
Định (samàdhi) cũng có hai loại, Tại
Thế và Siêu Thế. V́ Định Tại Thế đă
được chúng sanh thành đạt nhiều lần
trong quá khứ xa xôi của ṿng luân hồi (samsàra) nên
là "đă phát sanh". Định Siêu Thế là "không phát
sanh", đối với hạng phàm nhân (puthujjana).
Tuệ (pannà) cũng vậy, có hai loại,
Tại Thế và Siêu Thế. Bốn loại Thanh Tịnh (lokiya
visuddhi) [15], là Trí Tuệ Tại Thế và "đă phát
sanh" (uppanna) đối với những ai đă có
gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana) trong quá khứ và đă thực hành bốn loại
Thanh Tịnh nầy; nó là "không phát sanh" (anuppanna)
đối với những ai chưa hề gặp Phật
Giáo trong quá khứ. Tri Kiến Tịnh (nànadassana-visuddhi)
là Trí Tuệ Siêu Thế (lokuttara pannà). Đối với
hạng phàm nhân, đó là Trí Tuệ "không phát sanh"
bởi v́ nó chưa bao giờ phát sanh trong quá khứ xa xôi
của ṿng luân hồi (samsàra).
Giờ đây Sư sẽ giảng về bốn
pháp Tinh Tấn (padhàna, Tứ Chánh Cần).
1. Cơ hội tận diệt các nghiệp
bất thiện đă phát sanh (uppanna-akusala-kamma)
chỉ có thể được nếu có gặp Giáo
Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana).
2. Cơ hội ngăn ngừa sự khởi sanh
của nghiệp bất thiện mới (anuppana-akusala-kamma)
trong chuỗi dài những kiếp sống từ đây
về sau cũng chỉ có thể được nếu
gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana). Mặc dầu cuộc đi quanh quẩn trong ṿng
luân hồi quả thật dài vô tận, nhưng nếu ta
không gặp được Giáo Huấn của một
vị Phật, ắt không có cơ hội để
loại trừ hai loại nghiệp bất thiện
ấy. Đó là bởi v́ nhiệm vụ loại trừ các
nghiệp bất thiện đă phát sanh tức là nhiệm
vụ tận diệt tầng lớp anussaya, khuynh
hướng tâm tánh ngủ ngầm của Thân Kiến (sakkàya-ditthi),
tức khuynh hướng tâm tánh tiềm tàng nằm trong
luồng nghiệp như một tà kiến. Và tận
diệt khuynh hướng ngủ ngầm (anussaya)
nầy là công phu của pháp hành thiền quán niệm vô ngă (anattà-bhàvanà),
chỉ có thể có vào thời kỳ có Giáo Huấn của
một vị Phật (Buddha Sàsana).
Những vị sẽ chứng đắc Pacceka-Buddha,
Độc Giác Phật, trước tiên phải thành tựu
hột giống anattà-bhàvanà, hành thiền quán niệm
Vô Ngă trong khi gặp Giáo Huấn của một vị
Phật.
Khi không c̣n Giáo Huấn của một vị
Phật trên thế gian, chí đến tiếng Anattà,
hay vô ngă, cũng không được nghe. Và khi nói
"tiếng vô ngă", danh từ nầy có nghĩa là
tiếng nói những danh từ hàm ư bản chất vô ngă
của kiếp sinh tồn như rùpa (sắc), nàma (danh),
khandha (uẩn), dhàtu (tứ đại), àyatana
(lục căn) và paticcasammupapàda (thập nhị duyên
khởi). Tiếng nói của Anattà, Vô Ngă, hàm xúc toàn
bộ Tạng Luận (Abhidhamma-Pitaka) ; và như
vậy toàn bộ quyển Vi Diệu Pháp Toát Yếu, Abhidhammattha-Sangaha.
[16]
Công phu hành Anattà-bhàvanà (phát triển ư niệm
về đặc tướng Vô Ngă) bao gồm trước
tiên Giới Tịnh (śla-visuddhi), rồi chú tâm Niệm
Thân (kàyagatà-sati), và sau khi đă vững vàng kiểm soát
và an trụ cái tâm hoang dại bất ổn và chao
động, nỗ lực chuyên cần tinh tấn thực
hành thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát
(vipassanà). Chỉ đến khi tận diệt
tầng lớp Khuynh Hướng Tà Kiến Ngủ Ngầm
trong luồng nghiệp (ditthi-anusaya) bằng cách cố
gắng như mô tả trên, tất cả những Tà
Kiến "đă phát sanh" và "không phát sanh" (uppanna
và anuppanna-micchà-ditthi) và những hành động bất
thiện (duccarita) mới hoàn toàn tan biến.
3. Sự tinh tấn làm phát sanh những nghiệp
thiện (kusala kamma) trước đó chưa phát sanh,
và
4. Sự tinh tấn để bảo tồn và
duy tŕ những thiện nghiệp đă phát sanh -- những
công tŕnh ấy phải được gia công chuyên cần
để viên măn hoàn thành công phu quán niệm đặc
tướng vô ngă (Anattà-bhàvanà) sau khi vững chắc
trong pháp Niệm Thân.
Giới Đă Phát Sanh và Giới Chưa Phát Sanh (Uppanna
và Anuppanna-Śla)
Anuppanna-śla
-- tức Giới chưa bao giờ phát sanh trong đời
của hạng Phàm Nhân (puthujjana) xuyên qua vô số
những kiếp sống trong ṿng luân hồi -- bao gồm ba
chi của Bát Thánh Đạo là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và
Chánh Mạng. Ba chi nầy được bao gồm trong Tu-Đà-Huờn
Đạo (sotàpatti-magga) và lấy Niết Bàn làm
đối tượng. Nhóm Giới nầy loại trừ
những bất thiện nghiệp tự biểu hiện
ra ngoài bằng hành động, lời nói và những
phương cách sinh sống lầm lạc. Kể từ
khi đă bị tận diệt, những bất thiện
nghiệp dưới ba h́nh thức kể trên không c̣n phát
hiện trở lại, dầu trong khoảnh khắc, liên
tục suốt những kiếp sống và những chu
kỳ thế gian về sau.
Tầng lớp Giới Siêu Thế nầy chỉ
được thành tựu khi đă viên măn thực hành quán
niệm Vô Ngă (Anattà-bhàvanà). Chúng sanh phải cố
gắng làm phát sanh "Giới Chưa Phát Sanh", anuppanna-śla
nầy, trong lúc c̣n sống trong thời kỳ có Giáo
Huấn của một vị Phật. Điều nầy có
nghĩa là từ ngày vững chắc trong Giới Tịnh (śla-visuddhi)
cùng với pháp Niệm Thân (kàyagatà-sati), cho đến
khi hoàn tất viên măn pháp hành quán niệm Vô Ngă (Anattà-bhàvanà)
chúng sanh phải cố gắng thực hành không ngừng
nghỉ 37 Phẩm Trợ Đạo (Bodhipakkhiya-dhammas).
Uppanna-śla, Giới Đă Phát Sanh, đă phát sanh
nhiều lần trong ṿng luân hồi (samsàra) vô tận,
có nghĩa là Giới Tại Thế (kàmàvacara-śla). Khi
nói phải tinh tấn bảo tŕ loại śla nầy
(tức kiên cố giữ ǵn, nghiêm tŕ loại giới
nầy, đó là loại Chánh Tinh Tấn thứ tư), ta
nên hiểu biết rằng có hai tầng lớp Giới
Tại Thế, đó là niyàma (tầng lớp ổn
định, bất lay chuyển, không đổi thay) và aniyàma
(bất ổn định, c̣n biến chuyển).
Trạng thái Giới của bậc Thánh Nhân (Ariya)
là ổn định (niyàma), trong khi trạng thái
Giới của hạng Phàm Nhân (puthujjana) là bất
ổn định (aniyàma).
Giới Tại Thế (lokiya-śla) của
cảnh Dục Giới tiến đạt đến
mức "ổn định" trong phẩm chất
của bậc Tu-Đà-Huờn (sotàpanna, Nhập Lưu).
Suốt chuỗi dài những kiếp sống và những chu
kỳ thế gian về sau, cho đến khi nhập
Đại Niết Bàn (Parinibbàna), những bậc Thánh
Tu-Đà-Huờn không c̣n vi phạm Ajivatthamaka-śla [17] (tám
giới chấm dứt với Chánh Mạng), dầu trong
giấc mơ.
Tuy nhiên, trong trường hợp của hạng
Phàm Nhân (puthujjana), Giới Tại Thế trong cảnh
Dục Giới vẫn c̣n ở mức độ
"bất ổn định" (aniyàma). Những
người nầy đă là những cá nhân đạo
đức vô số lần trong quá khứ. Họ cũng
đă bị sa đọa vào những khổ cảnh (apàya-loka)
vô số lần, cũng đă là những tỳ khưu và
những đạo sĩ ẩn dật phẩm hạnh
trong sạch trong vô số lần. Tuy nhiên trong những
kiếp sống quá khứ họ chưa bao giờ thoát
khỏi hiểm họa c̣n phải bị sa đọa vào
những Cảnh Giới Thấp Kém trong vô số lần
làm người, làm trời (deva), làm chư Phạm
Thiên (Brahmas), vốn luôn luôn ở bên bờ vực
thẩm phải tái sanh, sa đọa vào Khổ Cảnh.
Do đó, những chúng sanh có Giới Tại
Thế của cảnh Dục Giới (kàmàvacara-lokiya-śla)
vẫn c̣n "bất ổn định" (aniyàma) và
chỉ giữ được Giới bên trong ḿnh một
cách tạm bợ nhất thời.
Trong khi c̣n cơ hội sống vào thời kỳ
có Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
những vị ấy phải cố gắng chuyển
biến trạng thái "bất ổn" ấy trở
thành "ổn định" (niyàma), phải nỗ
lực kiên cố trong pháp Niệm Thân và sau đó thực
hành các Phẩm Trợ Đạo, Bodhipakkhiya-dhammas, cho
đến khi viên măn hoàn tất công phu quán niệm
đặc tướng Vô Ngă (anattà-bhàvanà).
Định Đă Phát Sanh và Định Chưa Phát Sanh (Uppanna
và Anuppanna Samàdhi)
Định (samàdhi) và Tuệ (pannà) cũng
có hai tầng lớp, "ổn Định" (niyàma) và
"Bất ổn Định" (aniyàma).
Trạng thái Toàn Định (của các tầng
Thiền, Jhànas, appanà-samàdhi), vốn là một với
Bát Thiền hay Cửu Thiền (samàpatti) [18], chỉ
trở thành "ổn định" khi tiến
đạt đến giai đoạn Bất Lai (Anàgami,
A-Na-Hàm). Tuệ (pannà) bên trong phẩm hạnh tàdi
(xả) [19] chỉ trở thành "ổn định"
ở mức A-La-Hán.
Giờ đây Sư sẽ chỉ rơ trạng thái
tâm Định và Tuệ của một vị Nhập Lưu (sotàpanna,
Tu-Đà-Huờn).
Đúng theo kinh Cùla-Vedalla Sutta [20], Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Định được bao gồm trong
Tu-Đà-Huờn Đạo (Sotàpatti-magga) lấy Niết Bàn
làm đối tượng, được gọi là
Định Siêu Thế (lokuttara samàdhi).
Ba thành phần ấy của nhóm Định (nằm
bên tronn nay mà chúng sanh đang có duyên lành gặp Phật Giáo (Buddha
Sàsana), chúng ta phải tận lực chuyên cần thành
tựu cho được, làm phát sanh loại "Định
Chưa Phát Sanh" (anuppanna-samàdhi), trước khi
phải thăng trầm lặn hụp trong ṿng quanh
những kiếp sinh tồn của ṿng luân hồi (samsàra).
Điều nầy có nghĩa là ta phải bắt đầu
với pháp Niệm Thân, rồi thực hành các Phẩm
Trợ Đạo (Bodhipakkhiya-dhammas) cho đến khi hoàn
thành viên măn công phu quán niệm đặc tướng Vô Ngă
(Anattà-bhàvanà).
Uppanna-samàdhi, "Định Đă Phát Sanh", đă phát sanh vô
số lần trong quá khứ vô tận của ṿng luân
hồi, bao gồm Định của Dục Giới (kàmàvacara-samàdhi,
tức cận định), Đ?nh của Sắc Giới (rùpàvacara-samàdhi),
và Định của Vô Sắc Giới (arùpàvacara-samàdhi).
Khi nói rằng ta phải cố gắng tiến đạt
đến trạng thái "ổn định" (niyàma)
của "Định Đă Phát Sanh", phải hiểu rằng
Định Tại Thế cũng có hai tầng lớp, ổn
định và bất ổn định.
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định
của bậc Thánh Nhân (Ariya) ở tầng lớp
"ổn định". Các nghiệp Tham ái và Sân Hận
bất thiện (duccarita) không phát sanh đến các
Ngài, dầu trong giấc mơ, trong suốt chuỗi dài
những kiếp sống tương lai, cho đến khi
nhập Đại Niết Bàn (Parinibbàna).
Nhóm Định gồm ba chi [21] của hạng Phàm
Nhân (puthujjana) ở trong tầng lớp "bất
ổn định" (aniyàma). Trong quá khứ vô
tận của ṿng luân hồi những vị nầy đă
có lần là những người có nhập định,
những đạo sĩ ẩn dật hay những vị
tỳ khưu có nhập định, những vị đă
đắc Thiền (jhàna) và đă đắc thần
thông (idhi) trong chuỗi dài vô tận những kiếp
sống. Trong thời gian của mỗi hệ thống
thế gian có bốn chu kỳ (kappa), mỗi chu kỳ
dài vô tận. Ba trong bốn chu kỳ thế gian ấy, các
người Phàm Nhân (puthujjana) nầy đă là chư
vị Phạm Thiên trong những cảnh Trời. Trong
mỗi hệ thống thế gian họ cũng đă có
ở trong khổ cảnh (apàya). Và trong những
khổ cảnh ấy đầy những người mà
trước kia đă là trời Phạm Thiên, không ai khác.
Những hạng Phàm Nhân ấy đă là Trời Phạm
Thiên, đă là Ngạ Quỉ (peta), đă ở trong
địa ngục, đă làm thú, hay a-tu-la (asura).
So với ṿng luân hồi (samsàra) dài vô
tận, mỗi kiếp sống trong những hệ
thống thế gian nầy chỉ giống như thời
gian một nháy mắt.
Như vậy, trong khi được duyên may
sống giữa thời kỳ c̣n Giáo Huấn của
một vị Phật (Buddha Sàsana), tất cả chúng
ta phải nỗ lực chuyển biến trạng thái
"bất ổn định" (aniyàma) của ba
chi nằm trong nhóm Định (Samàdhi) -- mà ta đă
nhiều lần thành tựu trong quá khứ -- thành trạng
thái "ổn định" (niyàma). Do đó, sau khi
thiết lập vững chắc trong pháp Niệm Thân, ta
phải thực hành 37 Phẩm Trợ Đạo, Bodhipakkhiya-dhammas,
chí đến khi viên măn hoàn tất quán niệm đặc
tướng Vô Ngă (Anattà bhàvanà).
Trí Tuệ Đă Phát Sanh và Trí Tuệ Chưa Phát Sanh (Uppanna
và Anuppanna-Pannà)
Theo kinh Cùla Vedalla Sutta, Chánh Kiến (sammà-ditthi)
và Chánh Tư Duy (sammà-sankappa), nằm trong Tu-Đà-Huờn
Đạo (sotàpatti-magga) và lấy Niết Bàn làm
đối tượng, được gọi là Trí
Tuệ Siêu Thế (lokuttara-pannà). Trí Tuệ nầy
tận diệt tầng lớp khuynh hướng tâm tánh
ngủ ngầm (anusaya) của Thân Kiến (sakkàya-ditthi)
trong luồng nghiệp, và "khắc phục bằng cách
loại trừ tận cùng" (samuccheda-pahàna) mọi
dấu vết tiềm ẩn của Tà Kiến (micchà-ditthi)
và Tà Tư Duy (micchà-sankappa), cùng với những hành
động bất thiện (duccarita) và Tà Mạng (duràjiva).
Kho tàng tích trữ những nghiệp bất thiện trong
quá khứ (duccarita kamma) cũng hoàn toàn tan biến. Cánh
cửa mở vào ṿng quanh những khổ cảnh (Apàya-Samsàra)
hoàn toàn khóa chặt. Từ đây những nghiệp bất
thiện của Tà Kiến và những hành động sai
lầm tuyệt đối không c̣n phát sanh trong suốt
chuỗi dài những kiếp sinh tồn và những chu
kỳ thế gian tương lai.
Loại Trí Tuệ nầy chỉ có thể phát
sanh vào thời kỳ có Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana), khi pháp quán niệm đặc
tướng Vô Ngă (Anattà-bhàvanà) c̣n được
lưu truyền hiện hữu. Do đó, là những chúng
sanh đă được diễm phúc sống trong thời
kỳ Phật Giáo c̣n lưu truyền, chúng ta phải chuyên
cần tinh tấn để thành tựu cho
được, làm phát sanh "Trí Tuệ Chưa Phát
Sanh" (Anuppanna-Pannà), loại Trí Tuệ chưa bao
giờ đến với ta, trước khi mất đi
Giáo Huấn nầy (trong tương lai). Điều nầy có
nghĩa là, bắt đầu với pháp Niệm Thân chúng ta
phải nỗ lực thực hành 37 Phẩm Trợ Đạo
(Bodhipakkhiya-dhamma) chí đến khi hoàn tất viên măn
pháp quán niệm đặc tướng Vô Ngă (Anattà-bhàvanà).
Những loại Trí Tuệ đă thường
phát sanh (uppanna) trong quá khứ vô tận là: Chánh
Kiến, hiểu biết chân chánh rằng chúng sanh là sở
hữu chủ (hay người chịu trách nhiệm)
của những hành động, tức cái nghiệp (kammassakatà-sammà-ditthi)
của ḿnh; tất cả những loại tuệ giác và trí
tuệ (tại thế) thuộc về Dục Giới (kàmàvacara)
và những thần thông (abhinnà) như nhăn thông (dibba-cakkhu)
và nhĩ thông (dibba sota).
Khi nói phải tận lực cố gắng tiến
đạt đến trạng thái Trí Tuệ "ổn
định", ta phải hiểu rằng Trí Tuệ
tại thế nầy cũng có hai tầng lớp,
"ổn định" và "bất ổn
định". Chánh Kiến và Chánh Tư Duy tại
thế của chư vị Thánh Nhân (Ariyas)
được kiên cố thiết lập ở mức
độ "ổn định" (niyàma). Từ
khi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy thiết lập Trí Tuệ
"ổn định", và suốt chuỗi dài những
kiếp sống sau đó cho đến khi nhập Đ?i
Niết Bàn, luôn luôn có Chánh Kiến hiểu biết rằng
ḿnh là Sở Hữu Chủ của Nghiệp (kammassakatà-sammà-ditthi),
của Tuệ Giác về Pháp Học (pariyatti-nàna) [22],
của Tuệ Giác về Pháp Hành (patipatti-nàna) và
Tuệ Giác về Bốn Chân Lư (catu-sacca-nàna).
Tuy nhiên, Trí Tuệ Tại Thế của hạng
Phàm Nhân (puthujjana) c̣n ở mức độ
"bất ổn định" (aniyàma). Trong khi
thênh thang bất định trong ṿng luân hồi các vị
nầy đôi khi có học được Giáo Pháp (Dhamma),
đôi khi nổi danh về sức học rộng hiểu
nhiều của ḿnh, đôi khi là những vị Đại
Đức Tỳ Khưu hay lương y trứ danh, trong khi
ở những lúc khác đă là sâu bọ, ṣ ốc, côn trùng,
đỉa, chí, rệp, ḍi, ḅ chét v.v... những con vật
có thể được xem là chỉ có sự sống.
Do đó, trong khi có duyên may gặp được
Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
ta phải tận lực chuyên cần nhằm chuyển
biến "Trí Tuệ bất ổn định"
(chỉ tạm bợ nhất thời) thành "Trí Tuệ
ổn định", như đă tŕnh bày ở phần
trên.
Đến đây chấm dứt phần tŕnh bày hai
loại Giới, Định và Tuệ, đă phát sanh và chưa
phát sanh.
Do đó, những người tại gia cư
sĩ, những vị đạo sĩ ẩn dật và
Tỳ Khưu đă gặp Giáo Huấn của một
vị Phật trong kiếp sống hiện tại nầy
mà muốn tự thoát ra khỏi những khổ đau
của những kiếp sống tương lai, và muốn
củng cố bền bỉ vững chắc các Pháp như
Giới Tịnh v.v... phải thực hành thích nghi những
Niệm Xứ (satipatthàna), phải chuyên cần tinh
tấn theo những loại Chánh Cần (sammappadhàna,
xem phần trên), nhằm tiêu diệt những khuynh
hướng tâm tánh ngủ ngầm (anusaya) của Thân
Kiến.
Nếu muốn tự thoát ra khỏi cảnh
điên cuồng và hoang dại loạn tâm như
người mất trí, người không biết lái
thuyền, người bị bịnh chó dại, và
người bịnh uống thuốc mà ói mửa ra hết
(như được mô tả trong Chương II, liên quan
đến pháp Tứ Niệm Xứ, satipatthàna), và
muốn củng cố tâm Định hoặc chuyển
biến trạng thái Định của ḿnh trở thành
vững bền "ổn định" (niyàma),
nhằm giữ tâm vắng lặng, bất lay chuyển, và
chăm chú vào bất cứ đề mục thiền
định nào (kammatthàna), muốn được
vậy phải thực hành thích nghi pháp Niệm Xứ
đến mức độ tinh tấn chân chánh (sammappadhàna,
Chánh Cần) nhằm tận diệt khuynh hướng tâm
tánh ngủ ngầm (anusaya) của Thân Kiến.
Nếu những vị ấy muốn tự thoát
ra khỏi những lư thuyết và những điều
kiện Si Mê lầm lạc (sammoha-dhamma) có thể lôi
cuốn họ vào những cảnh Vô Minh tăm tối; có
thể tuyệt trừ tận gốc rễ, không c̣n
để lại dấu vết ǵ trong những kiếp
sống tương lai, tất cả ḷng kỉnh mộ
sùng kính mà họ đă nuôi dưỡng trong ḷng đối
với những phẩm hạnh thánh thiện của
Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo Thánh Thiện
cũng như Giáo Huấn của Đức Phật; nếu
họ muốn tự thoát ra khỏi những Giáo Pháp Sai
Lầm (micchà-dhamma), trong ṿng luân hồi (samsàra) vô
cùng tận, đă dẫn dắt họ đến gần,
tôn kính và lễ lạy tất cả đủ hạng
Phật (hay đạo sư) giả mạo, bởi v́
họ c̣n là Phàm Nhân (puthujjana) không ở trong vị
thế có thể hiểu biết vị Phật thiệt,
Giáo Pháp thiệt và Tăng Già thiệt; nếu, trong
chuỗi dài những kiếp sống và những chu kỳ
thế gian, bắt đầu từ giờ phút hiện
tại, họ muốn có đức tin được
gọi là Đức Tin Kiên Cố Vững Chắc (adhigama-saddhà)
và trí tuệ được gọi là Trí Tuệ Kiên Cố
Vững Chắc (adhigama-pannà), nương nhờ
nơi oai lực của đức tin và trí tuệ ấy
họ có thể cảm nhận bên trong họ mà không bị
trở ngại, ḷng kỉnh mộ và sùng kính vị Phật
thật sự, Giáo Pháp thật sự và Tăng Già thật
sự; và nếu muốn chuyển biến đức tin và
trí tuệ ấy đến mức "ổn
định" (niyàma) -- họ phải thực hành
thích nghi những Niệm Xứ (satipatthàna) với
Chánh Cần (sammappadhàna), nhằm tận diệt Thân
Kiến ở tầng lớp ngủ ngầm (anusaya-bhùmi).
Nơi đây thực hành Chánh Cần thích nghi có nghĩa là
quyết tâm tận lực chuyên cần với chú nguyện
như sau:
"Hăy để cho da, gân và xương, thịt
c̣n lại, máu trong thân tôi khô cạn dần, tôi sẽ không
chấm dứt chuyên cần tinh tấn cho đến khi
thành đạt những ǵ mà khả năng của con
người, tánh chuyên cần của con người và
sự cố gắng của con người, có thể thành
đạt."
Ghi chú:
[1] Vinaya Pitaka, Mahàvagga, câu 13. Sammohavinodàni
(Chú Giải của Patisambhida Magga)
[2] Chú Giải Kinh Pháp Cú (Dhammapada Commentary) câu
chuyện liên quan đến câu 1.
[3] Hạng Neyya, xem trang 1-2, Phần Nhập
Đề.
[4] Xem Chú Giải kinh Niệm Xứ (Satipatthàna
Sutta), The Way of Mindfulness, trang 68.
[5] Xem Chú Giải Sakkapanha Sutta, (D́gha Nikàya,
Trường A Hàm)
[6] Xem Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm.
Những con số bốn, số 13f. "The Book of
Analysis" (Vibhanga) do U Thittila chuyển dịch (Pali
Text Society, London) trang 271ff .
[7] Apàya-loka là bốn cảnh khổ bao
gồm: cảnh a-tu-la, cảnh ngạ quỷ, cảnh thú
và cảnh địa ngục.
[8] Bon-sin-san là một danh từ
Miến Điện, có nghĩa là một hạng Tu-Đà-Huờn (Sotàpanna)
sẽ tiến đến giải thoát cuối cùng của
một vị A-La-Hán sau nhiều kiếp sống cao
thượng liên tục. Danh từ nầy không có ǵ tương
đương trong Kinh Tạng (Sutta).
Trong Kinh Tạng chỉ gọi Sotàpanna, là
những vị tối đa chỉ c̣n tái sanh bảy
lần trong cảnh người hoặc cảnh trời. Bon-sin-san
là một khái niệm quen thuộc trong truyền thống
Phật Giáo ở Miến Điện. Danh từ nầy
được nhắc đến trong những
đoạn chú giải sau đây:
- Chú giải bộ Indriya-Samyutta, phẩm Chalindriya
Vagga, bài kinh Ekabiji Sutta, giảng giải danh từ sattakkhattuparamo.
- Chú giải D́gha Nikàya, Trường A Hàm, bài kinh Sakkapanha
Sutta (đoạn cuối), giảng giải những
chữ so nivàso bhavissati.
- Chú giải Puggala-pannatti (Pancappakarana Atthakatha), Ekata-nidesa,
giảng giải danh từ ekabiji.
Vị Chủ Biên The Wheel Publication (Đại Đức
Nyanaponika) tri ân Ngài Mahasi Sayadaw, Agga-Maha-Pandita, Rangoon, đă
giúp soạn thảo những chú thích nầy và chú thích
kế sau đây.
"Có thể ghi nhận rằng Bon-sin-san có hai
loại:
- Người trở thành một vị Tu Đà
Huờn (Sotàpanna) trong cảnh Dục Giới (Kàmabhùmi)
và thành tựu ba tầng Thánh cao hơn (Sakadàgàmi,
Tư-Đà-Hàm v.v...) trong năm cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhàvàsa)
của Sắc Giới (Rùpaloka);
- Người trở thành Tu-Đà-Huờn,
Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm (Sotàpanna, Sakadàgàmi, Anàgàmi) trong
Dục Giới (Kàmabhùmi) và A-La-Hán (Arahat) trong
năm cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhàvàsa) của Sắc
Giới.
Do đó danh từ Bon-sin-san có nghĩa là
tiến lên trong những giai đoạn của kiếp sinh
tồn, tầng nầy đến tầng khác.
"Hai hạng nầy hiển nhiên là khác biệt
với những hạng được đề cập
đến trong Tạng Kinh (Suttas): (1) Sattakkhattuparama
Sotàpanna, "người c̣n tái sanh tối đa là
bảy lần", (2) Kolankola Sotàpanna,
"người đi từ tầng Thánh nầy sang
một tầng Thánh khác, (3) Ekabiji Sotàpanna,
"người chỉ c̣n tái sanh một lần".
"Ba hạng nầy trở thành Sotàpanna
(Tu-Đà-Huờn) trong Kàma-bhùmi (Dục Giới), hoặc
trong chính kiếp sống nầy hoặc về sau, nhưng
không hơn bảy kiếp, trở thành A-La-Hán cũng trong
cảnh giới (bhùmi) nầy.
Xem chương VIII của sách nầy, phần
"Tu Đà Huờn" (Chủ Biên The Wheel).
[9] Đây là thói quen của riêng tác giả, Ngài Ledi
Sayadaw, dùng chữ sa-upàdisesa, Hữu Dư Niết Bàn,
áp dụng cho một vị Tu Đà Huờn (và nơi đây áp
dụng cho vị "Bon-sin-san"). Trong kinh
điển và chú giải Pali danh từ nầy chỉ áp
dụng cho vị A-La-Hán, đă tận diệt tất
cả mười triền cái, trong khi vị Tu-Đà-Huờn
chỉ loại trừ có ba. Cách xử dụng có phần
khác biệt nầy có thể v́ vị Tu-Đà-Huờn
được nói là "nhoáng thấy Niết Bàn lần
đầu tiên" (pathama-dassana), Đạo và Quả siêu
thế của Ngài có đối tượng là Niết Bàn
(chớ không phải là những hiện tượng
được cấu tạo, tức các pháp hữu vi,
như tất cả các loại tâm tại thế). V́
lẽ ấy có thể nói là lần đầu tiên Ngài
chứng nghiệm Niết Bàn, mặc dầu là chứng
nghiệm một cách tạm thời và không toàn vẹn.
(Lời của vị Chủ Biên, The Wheel).
[10] Xem "Manual of Insight" (The Wheel số 31/32)
trang 79ff.
[11] Aj́vatthamaka-śla, xem chú thích trong phần
Nhập Đề.
[12] Những danh từ Pàli trong đoạn
nầy đă được giải thích ở phần
Nhập Đ?.
[13] Tạm định, cận định, toàn
định: parikamma-, upacàra-, appanà-samàdhi. Xem Path of
Purification (Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo),
chương II, trang 26, chương IV, trang 32.
[14] 4 Bốn Thanh Tịnh tại thế là:
Kiến Tịnh, Đoạn Nghi Tịnh, Đạo Phi Đạo Tri
Kiến Tịnh và Đạo Tri Kiến Tịnh.
[15] Xem chú thích 4, trang 210.
[16] Bản dịch của Đ.Đ. Nàrada Thera,
dưới tựa đề "A Manual of Abhidhamma"
(Buddhist Publication Society, Kandy).
[17] Ajivatthamaka-śla, xem chú thích trong phần
Nhập Đề.
[18] Tám tầng Thiền (attha-samàpatti) là
bốn tầng Thiền Sắc Giới (rùpa- jhàna) và
bốn tầng Thiền Vô Sắc Giới (arùpajjhàna).
Chín tầng Thiền là tám tầng kể trên và tầng
thứ chín là nirodha-samàpatti, Diệt Thọ
Tưởng Định, tức tạm thời ngưng
những sinh hoạt tâm linh.
[19] Tàdi (theo nghĩa đen là: giống
như, cùng một thứ) là trạng thái tâm quân b́nh, tâm
xả, không thể bị ảnh hưởng của
những thăng trầm trong đời sống. Đây
cũng là một cách nói Phật và A-La-Hán.
[20] Yo ca Visàkha sammà-vàyàmo yà ca sammà-sati yo ca
sammà-samàdhi, ime dhammà samàdhikkhandhe sangahità -- "Và bất
luận nơi nào có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh
Định, những điều ấy được bao
gồm trong phân hạng Đ?nh". (Majjhima Nikàya, Trung A
Hàm, số 44)
[21] Ba chi của nhóm Định là: Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Định
[22] Pariyatti: "Học Giáo Lư". Trong
sự tiến bộ của vị đệ tử, có thể
phân biệt 3 giai đoạn: Lư Thuyết, Thực Hành và
Chứng Ngộ. Tức pariyatti (Pháp Học, nghiên
cứu học hỏi Giáo Lư), patipatti (Pháp Hành, thực
hành Giáo Lư) và pativedha (Pháp Thành, soi thấu Giáo Lư và
chứng ngộ mục tiêu). -- Buddhist Dictionary, Nyànatiloka
Chương IV
Tứ như ư túc
(Iddhipàda)
Giờ đây Sư (Ngài Ledi
Sayadaw) sẽ giản lược mô tả các iddhipàdas [1]
(Như ư Túc), hay Căn Bản của sự Thành Công.
Iddhi
Danh từ iddhipàda
được giải thích là: ijjhanam iddhi. Iddhi là
sự kiện đă thành công, đă hoàn thành tṛn đủ,
hay đă hoàn tất viên măn. [2]
Trong Giáo Huấn của Đức
Phật có năm iddhis. Đó là:
1.
Abhinneyyesu dhammesu abhinnà-siddhi, [3]
2. Parinneyyesu dhammesu parinnà-siddhi,
3. Pahàtabbesu dhammesu pahàna-siddhi,
4. Sacchikàtabbesu dhammesu sacchikiriya-siddhi,
5. Bhàvetabbesu dhammesu bhànanà-siddhi.
1. Viên măn hoàn tất, hay thành công,
trong sự đặc biệt thông hiểu những sự
vật mà sự hiểu biết đặc biệt thâm sâu
phải được thâu thập, những sự vật
như rùpa (sắc pháp) nàma (danh pháp);
2. Viên măn hoàn tất, hay thành công,
trong sự thông hiểu đầy đủ những
điều mà sự hiểu biết đầy đủ
phải thành tựu, những điều như dukkha
sacca (Đau Khổ, Chân Lư Thâm Diệu về Đau Khổ);
3. Viên măn hoàn tất, hay thành công,
trong nhiệm vụ diệt trừ những điều
phải được diệt trừ, những
điều như samudaya sacca (Nguyên Nhân Sanh Đau Khổ,
Chân Lư Thâm Diệu về Nguyên Nhân của Đau Khổ);
4. Viên măn hoàn tất, hay thành công,
trong nhiệm vụ chứng ngộ những điều
phải được chứng ngộ, như nirodha
sacca (Chấm Dứt Đau Khổ, Chân Lư Thâm Diệu về
sự Chấm Dứt Đau Khổ);
5. Viên măn hoàn tất, hay thành công,
trong nhiệm vụ trau giồi và phát triển, những
việc như magga sacca (Con Đường Chấm
Dứt Đau Khổ, Chân Lư về Con Đường dẫn
đến Chấm Dứt Đau Khổ).
Đó là năm thành công (iddhis)
chánh yếu trong Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha
Sàsana).
Abhinnà-siddhi có
nghĩa: viên măn hoàn tất nhiệm vụ thông hiểu các paramattha
dhammas (chân lư cùng tột, hay chân đế) mà
trước kia, khi c̣n đứng ngoài Giáo Huấn của
một vị Phật, ḿnh không hiểu biết. Một cách
rốt ráo, Abhinnà-siddhi là thông suốt Abhidhammattha
Sangaha [4] (Vi Diệu Pháp Toát Yếu, sơ lược
tất cả giáo lư chánh yếu của Tạng Luận).
Parinnà-siddhi có nghĩa: viên măn
hoàn thành nhiệm vụ hiểu biết đầy
đủ dukkha sacca (Chân Lư Thâm Diệu về sự
Khổ), hoặc qua sự thông suốt lakkhana (những
đặc tướng), rasa (những cơ năng), paccupatthàna
(những biểu hiện), và padatthàna (những nguyên
nhân kế cận), hoặc qua sự thấu hiểu ba
đặc tướng anicca (vô thường), dukkha
(khổ) và anattà (vô ngă) của vạn pháp.
Pahàna-siddhi có nghĩa: viên măn
hoàn tất nhiệm vụ khắc phục, loại trừ
(pahàna), tức tận diệt, các kilesas (ô
nhiễm), vốn là sammudaya sacca (Chân Lư Thâm Diệu
về Nguyên Nhân của Đau Khổ). Trong sách nầy, v́
điểm chánh yếu là thành đạt mức độ
thấp nhất của bậc Tu-Đà-Huờn (sotàpanna),
tức "Bon-sin-san" sotàpanna, chớ không nhắm
đến các tầng Thánh cao hơn, nên công tŕnh viên măn hoàn
thành nhiệm vụ diệt trừ sakàya-ditthi (Thân
Kiến) là pahàna-siddhi. Nhiệm vụ loại trừ vicikicchà
(hoài nghi) nằm trong nhiệm vụ diệt trừ sakàya-ditthi
(Thân Kiến).
Sacchikiriya-siddhi có
nghĩa: viên măn hoàn tất nhiệm vụ chứng ngộ nirodha-sacca
(Chân Lư Thâm Diệu về sự Chấm Dứt Đau Khổ)
cả hai, về mặt tâm linh cũng như về
phương diện thể chất.
Bhàvanà-siddhi có nghĩa: trau
giồi ba sikkhàs (pháp Tu Học) về śla
(Giới), samàdhi (Định) và pannà (Tuệ) cho
đến khi thành đạt lokuttara magga sacca (Thánh
Đạo dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ).
Đây cũng là viên măn thành công
bảy giai đoạn thanh lọc (Thanh Tịnh Đạo)
khởi đầu với Giới Tịnh và những phân
hạng phụ, hợp thành nhiều loại iddhi, trong ư
nghĩa nhiều loại khả năng trong phạm vi
của nó.
Iddhipàda
Danh từ được giải
thích là: iddhiyà pàdo iddhipàdo, tức là căn cội hay
nền tảng để viên măn hoàn tất hay để
tiến đến mức toàn hảo (thành công hay khả
năng) [5]
Có bốn loại iddhipàdas
(Như ư Túc). Đó là:
1.
Chandiddhipàdo (chanda, dục như ư túc)
2. Viriyiddhipàdo (viriya, tấn như ư túc)
3. Cittiddhipàdo (citta, tâm như ư túc)
4. Vimamsiddhipàdo (vimamsa hay pannà, trạch pháp, hay tuệ như
ư túc).
Chanda có nghĩa (nhiệt
tâm), nóng ḷng mong muốn được có, hết ḷng
muốn thành đạt, muốn tiến đến,
muốn hoàn tất viên măn, muốn thành tựu. ư muốn ở
đây là cực kỳ mong muốn, ư muốn ở mức
cao độ. Không có bất luận chi, bên trong hay bên ngoài
cá nhân ta có thể cản ngăn ḷng ham muốn ấy. Đây
là loại ham muốn đưa đến ư nghĩ,
"Nếu không thành đạt điều nầy trong
kiếp sống hiện tại ắt ta không thể an tâm.
Thà chết c̣n hơn sống mà không làm được
như ư nguyện."
Đây là loại mong muốn mà vào
thời Đức Phật Kassapa [6], Vua Dhammasonda [7] xứ
Benares hằng ôm ấp dưỡng nuôi trong ḷng khi Đức
vua tự nghĩ, "Làm vua như ta đây có ích ǵ nếu
không nghe được một thời Pháp của Đức
Phật Kassapa?" Rồi Ngài từ bỏ ngai vàng, ra
đi, quyết ḷng t́m một người có thể lặp
lại cho ḿnh nghe một thời Pháp của Đức
Phật Kassapa, bất luận dài hay ngắn thế nào,
dầu chỉ vỏn vẹn một câu kệ cũng
được.
Một nguyện vọng thiết
tha như vậy có thể dịu bớt nếu
được thỏa măn như trường hợp vua
Bimbisàra [8], Bà Visàkhà, và Trưởng Giả Anàthapindika [9]. Chỉ
đến khi nhoáng thấy dấu hiệu mơ hồ
rằng điều mong muốn có thể thành đạt
nhưng không hoàn toàn viên măn, rằng tâm trở nên bấn
loạn và có ư nghĩ phát sanh rằng thà chết c̣n hơn
sống mà không thỏa măn được nguyện
vọng.
Cũng có những thí dụ
tương tợ như trường hợp Vua Temiya [10],
Vua Hatthipàla [11], những v́ vua, những vương hầu
quư phái và những trưởng giả giàu sang thời
Đức Phật đă từ bỏ đền đài cung
điện, xa ĺa đoàn tùy tùng hầu cận và cuộc
sống xa hoa trên nhung lụa để sống đời
tỳ khưu (bhikkhu) trong Giáo Huấn của Đức
Phật.
Viriya, tinh tấn, hay
tấn như ư túc, có nghĩa sammappadhàna viriya, chánh
cần, cùng chung với bốn đặc tánh của nó
[12]. Người có đức hạnh chuyên cần như
vậy tự thấm nhuần ư nghĩ rằng mục tiêu
có thể thành tựu nếu ḿnh tận lực cố
gắng. Người ấy không rủn chí dầu có ai
bảo rằng ḿnh sẽ trải qua trăm ngàn khó khăn
khổ nhọc. Ngựi ấy không sờn ḷng dầu
thật sự gặp những hoàn cảnh cực kỳ
gian lao kham khổ. Người ấy không thối chí
dầu nghe nói rằng ḿnh phải gia công tinh tấn trong
nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Người
ấy không nản ḷng dầu thật sự gia công tinh
tấn chuyên cần suốt thời gian lâu dài như
thế ấy.
Những người mà hạnh
tinh tấn c̣n yếu kém suy nhược thụt lùi
trước nhiệm vụ khi chạm trán với những
khó khăn cần phải tinh tấn chuyên cần. Họ
thối lui khi nghe nói phải xa ĺa bạn bè thân thuộc.
Họ rụt rè e ngại trước viễn ảnh
cần phải ăn uống đạm bạc, ngủ nghỉ
phải tiết độ. Họ lùi bước
trước viễn ảnh phải thực hành thiền
tập lâu dài.
Tâm (citta), tâm như ư túc, có
nghĩa bám chặt vào những iddhis, thành công, khi
gặp Giáo Huấn (Sàsana) và nghe Giáo Pháp. Đây là sự
bám níu cực kỳ nhiệt thành và dơng mănh.
Mặc dầu sống giữa
những ǵ tốt đẹp và xa hoa của thế gian,
giữa những quyền thế, tiền của và
phước báu dồi dào, giữa những kinh sách quư báu và
hết ḷng nghiên cứu học hỏi, ta không măi mê ch́m
đắm trong đó mà lúc nào cũng hướng tâm về
những iddhis, như ư túc. Ta chỉ toại nguyện
và an ḷng khi gom tâm chăm chú vào những vấn đề
liên quan đến iddhis, như ư túc. Cũng như nhà
luyện kim tỉ mỉ chú tâm vào, và chỉ để ư
đến, trạng thái biến chất của vàng hay
bạc, mà không nghĩ đến ǵ khác, quên cả ăn
uống ngủ nghỉ, không hay biết đến bất
luận ǵ khi đi ra ngoài. Tâm, citta, lúc nào cũng miệt
mài chăm chú vào bản chất iddhis.
Vimamsà (trạch pháp) có
nghĩa: sáng suốt hiểu biết rơ ràng, nhận chân
tầm quan trọng của những khổ đau trong
cảnh địa ngục, và những hoàn cảnh bất
hạnh triền miên trải dài theo ṿng quanh những
kiếp sinh tồn của ṿng luân hồi. Đó là sự
hiểu biết có thể nhận thấy lợi ích
đặc thù của iddhis, như ư túc. Đó là sự
hiểu biết có thể tiềm ẩn và sâu kín nằm
trong những pháp khó hiểu, và trong bản chất của
những pháp (dhammas) khó thấu ấy. Một
người đă có nhiều hiểu biết như
thế không c̣n t́m vui thích trong cuộc rượt bắt
những lạc thú trần tục, ngoại trừ
chạy theo những iddhis, như ư túc. Người
ấy chỉ măn nguyện khi nắm vững những
iddhis, như ư túc, uyên thâm và sâu thẳm. Giáo Pháp càng thâm sâu,
nguyện vọng thành đạt Giáo Pháp càng nhiệt thành
và mạnh mẽ.
Người có một trong bốn
như ư túc, tức bốn Căn Bản của Sự Thành
Công (iddhipàda) không thể c̣n chấp nhận hay
ngụy biện rằng trong kiếp sống hiện
tại nầy ḿnh không thể gia công chuyên cần tinh
tấn nhằm vững chắc kiên cố trong pháp Niệm
Thân (kàyagatà-sati) và trong những mức độ cao hơn
của Giáo Huấn (sàsana) như bảy giai
đoạn thanh lọc tâm (Thanh Tịnh Đạo, visuddhi).
Chỉ có những người không bao giờ có "căn
bản" nào trong Bốn Căn Bản của sự Thành
Công (Tứ Như ư Túc) và không thể nh́n thấy sự khác
biệt giữa trạng thái nông cạn và trạng thái uyên
thâm của đời sống, không thể phân biệt
lớp bề mặt bên ngoài và những ǵ thâm sâu huyền
diệu nằm bên trong giáo pháp (dhamma), chỉ có
những người ấy mới chấp nhận và
ngụy biện rằng ḿnh không thể chuyên cần cố
gắng và đành sống dể duôi hờ hửng.
Người đă có một trong
bốn Như ư Túc (iddhipàdas), có thể thành đạt
thêm những Như ư Túc c̣n lại -- tùy theo số
lượng ba-la-mật đă được tích trữ --
cho đến khi tiến đạt đến những lokuttara
iddhi, Như ư Túc Siêu Thế, hoặc trong kiếp nầy
hoặc trong kiếp kế sau ở một cảnh
trời. Trường hợp của những vị có hai,
hay ba, hoặc bốn Như ư Túc th́ không cần phải bàn
thảo dong dài thêm nữa.
Trường hợp những
người không có "căn bản nào của sự thành
công" nên cố gắng thành đạt một trong
Tứ Như ư Túc (iddhipàdas). Những vị nầy nên
chỉ chấp nhận và ngụy biện rằng ḿnh không
thể làm được bởi v́ ḿnh không có ư muốn
thành đạt những lợi ích cao siêu của Giáo
Huấn (sàsana), như Tứ Niệm Xứ (satipatthàna).
Những vị ấy nên xem sự chấp nhận không
thể làm được ấy là con đường xa
lộ đưa ngay vào bốn cảnh khổ (Apàya-loka).
Như vậy, các vị nầy nên học hỏi, nghiên
cứu, và nghiền ngẫm suy gẫm những lời
dạy trong Kinh sách [13] làm phát sanh ư muốn chân thành, ḷng thúc
dục (chanda). Những vị nầy nên đến
gần một vị thầy có thể khơi động,
làm phát sanh nhiệt tâm của ḿnh và nương tựa
nơi vị thầy ấy.
Do đó Đ?c Phật dạy:
Chandiddhipàdam bhàveti,
Viriyiddhipàdam bhàveti,
Cittiddhipàdam bhàveti, V́mamsiddhipàdam bhàveti.
Vị ấy trau giồi ḷng nhiệt thành, tinh
tấn, tâm và trạch pháp như Căn Bản của
sự Thành Công (Như ư Túc).
Vài người, chưa có "như ư" (iddhi)
nào mà không cố gắng thành đạt "Như ư
Túc" (iddhipàda). Nếu không nóng ḷng mong muốn (chanda),
ắt họ không biết rằng cần phải có tâm
nhiệt thành mong muốn như vậy. Họ là những
người chấp nhận và ngụy biện là ḿnh
chịu thua, không làm được. Trường hợp
tinh tấn, tâm, và trạch pháp (viriya, citta, và vimamsà)
cũng dường thế ấy.
Vững chắc gom tâm vào pháp kàyagatàsati,
niệm thân, có nghĩa là kiên cố pàda, đặt
nền tảng. Nghiên cứu học hỏi những tích
chuyện đề cập đến t́nh trạng khẩn
cấp samvega [14] phải nghiêm túc khép ḿnh vào kỷ
cương những giới luật của người
đạo sĩ ẩn dật (dhutanga, hạnh
đầu đà) và những pháp hành tương tợ, là
kiên cố tinh tấn (viriya). Vững chắc đi sâu
vào những vấn đề thâm sâu của Giáo Pháp, như
Tứ Đại (mahà-bhùta: đất, nước,
lửa, gió) là kiên cố trong vimamsà, trạch pháp.
Nếu thành đạt một trong bốn Căn
Bản của sự Thành Công, Như ư Túc, ắt có thể
chắc rằng những iddhis [15], Như ư
tương đương sẽ được thành
tựu, tùy theo pàrami, ba-la-mật của ḿnh tích
trữ. V́ lẽ ấy Chú Giải nói rằng người
không có "căn bản của sự thành công" (Như
ư Túc) giống như con của hạng Candàla [16], trong khi
người có những Như ư Túc như con của vị
Hoàng Đế. Con của hạng Candàla ắt không bao giờ
có triển vọng trở nên hoàng đế bởi v́ không
có "căn bản" (pàda) để thành
đạt trạng thái "Con của Hoàng Đế".
Nhưng Con của một vị Hoàng Đế th́ lúc nào
cũng dưỡng nuôi hy vọng trở nên Hoàng Đế
bởi v́ đă có sẵn "căn bản" để
trở thành.
Do đó, người khôn ngoan sáng suốt ngày nay
phải tận lực thành đạt Tứ Như ư Túc, Iddhipàda,
bốn căn bản của sự thành công, nhằm
loại trừ lănh vực rộng lớn của Thân
Kiến (sakkàya ditthi) và thành tựu -- trong Giáo Huấn
(Sàsana) của vị Phật hiện tại --
những lợi ích cao thượng nhất có thể
được thành tựu, tùy ba-la-mật của ḿnh.
Ghi chú:
[1] Theo Buddhist Dictionary của Ngài Nyanatiloka
(được người dịch tóm lược), iddhi
là "Năng Lực Thần Thông", "Thần
Lực". Ariyà-iddhi là khả năng kiểm soát ư
nghĩ của ḿnh như thế nào để có thể
giữ tâm luôn luôn b́nh thản, không chao động. Iddhi-pàda,
"Đường Đến Thần Lực" hay "Con
Đường Hướng Đến Thành Công", là bốn
phẩm hạnh hợp thành Con Đường dẫn
đến Đạo và Quả, gọi là Tứ Như ư Túc,
cũng được gọi Tứ Thần Túc.
[2] Xem thêm "The Path of Purification" (Visuddhi
Magga, Thanh Tịnh Đạo), do Đại Đức Nànamoli
chuyển dịch (ấn bản thứ nh́, Colombo 1964),
chương XII, & 20-22, 44. Nơi đây được
thấy danh từ iddhi và iddhipàda không chỉ
đề cập đến các năng lực thần thông
như đôi khi được giả thuyết. Trong
đoạn văn nầy iddhi có nghĩa là thực hành Giáo
Pháp một cách "thành công", và có bốn trường
hợp thành công như thế (Tứ Như ư Túc). Trong
phần đầu của chương nầy người
dịch (Sein Nyo Tun) chuyển ngữ iddhi là "sự
hoàn thành". Nhằm thích hợp với thuật ngữ
hơn, danh từ "thành công" đă được
chọn. Tự điển PTS gợi ư dùng danh từ
"có khả năng vững vàng". (Chủ Biên)
[3] siddhi
đồng nghĩa với iddhi,
[4] Xem chú thích trong
Chương III.
[5] Xem "The Path
of Purification", chương XII, 50-53; XXII, 36.
[6] Vị Phật
trước Phật Gotama (Thích Ca)
[7] Rasavàhini
(Jambudipuppatti-kathà)
[8] Xem chú giải
Kinh Tirokudda Sutta, trong "Minor Readings" (Kuddakapatha)
do Đ.Đ. Nànamoli dịch (PTS), trang 223ff.
[9] Xem Chú Giải
Kinh Pháp Cú, tích chuyện liên quan đến câu 1,
[10] Túc Sanh
Truyện Mùgapakkha.
[11] Túc Sanh
Truyện Hatthipàla.
[12] Xem
Chương II.
[13] Những
lời dạy trong Kinh sách = suttanta discourse.
[14] Samvega là
khuấy động tâm, do công tŕnh quán niệm các hiểm
họa và khổ nhọc của Samsàra, ṿng luân
hồi.
[15] Tức là
một trong năm iddhis hay siddhis được
đề cập đến ở phần đầu
chương nầy.
[16] Candàla --
vào thời xưa ở Ấn Độ, chăn-đà-la
(thủ-đà-la) là hạng người thấp kém nhất
trong xă hội.
Chương V
Ngũ căn
(Indriya)
Danh từ indriya
được giải thích là:
Indassa kammam indriyam.
Có nghĩa: indriya là hành
động thống trị hay kiểm soát, của
người cai trị. "Hành động thống
trị" có nghĩa là bất luận ở nơi
đâu, người thống trị cũng có toàn quyền
định đoạt, không ai có thể chống
đối hay cưỡng lại.
Nơi
đây, kiểm soát hay thống trị tâm ḿnh là điểm
chánh yếu của Ngũ Căn, tức năm khả
năng kiểm soát tâm.
Có
năm Khả Năng như thế ấy: [1]
1. Saddhindriya(Tín
Căn)
2. Viriyindriya(Tấn Căn)
3. Satindriya (Niệm Căn)
4. Samàdhindriya (Định Căn)
5. Pannidriya(Tuệ Căn)
Tín Căn
Saddhindriya, (ở một
mức độ nào) đồng nghĩa với saddhà,
đức tin. Nhưng có hai saddhà, đức tin, là:
1. Pakati-saddhà,
Đức Tin thông thường, và
2. Bhàvanà-saddhà, Đức Tin được Tu Tập
(tức được trau giồi hay thuần thục hóa)
do pháp hành thiền.
Đức Tin và sự tín nhiệm (saddhà)
dắt dẫn người thường thực hiện
những hành động như Bố Thí (dàna), Tŕ
Giới (śla) và "bắt đầu tập tành"
Hành Thiền (Bhàvanà) [2] -- được gọi là
Đức Tin Thông Thường. Nơi đây, như đă
chỉ trong h́nh ảnh người mất trí (chương
II), mặc dầu ở một mức độ nào,
niềm tin (saddhà) ấy cũng là một Khả
Năng Kiểm Soát, nó không tăng trưởng đến
khả năng có thể kiểm soát cái tâm chao động
của một người thường trong khi hành
thiền (bhàvanà). Tầm mức kiểm soát chỉ
đến mức độ kềm chế và hướng
dẫn một cái tâm bất ổn đến hành
động Bố Thí, Tŕ Giới và "bắt
đầu" hành thiền.
Không có Đức Tin và Tín Nhiệm (saddhà)
tâm không bao giờ hướng về thiện nghiệp, kusala
kamma (những hành động có tác ư trong sạch)
bởi v́ thông thường tâm chỉ thỏa thích trong
những hành động bất thiện. Điều nầy
đúng, trong nỗ lực thành đạt Giới Tịnh
(śla visuddhi) cũng như trong việc nghiên cứu
học hỏi kinh điển. Bởi vậy cho nên
những hành động thiện thông thường (pakati-kusala-kamma)
cũng được tạo nên do Đức Tin Thông
Thường (pakati-saddhà), không phải được
trau giồi qua pháp hành thật sự thích đáng (abhàvita).
Trong công tŕnh theo dơi một
đề mục hành thiền (kammatthàna) khi thực
hành thiền Vắng Lặng và Minh Sát, Đức Tin Thông
Thường không đủ khả năng để
kiểm soát tâm v́ tâm có thể từ chối, thối lui và
nhảy ra khỏi Đức Tin sang một nơi khác. Trong công
tŕnh hành thiền, Đức Tin Thông Thường không
đủ.
Chính Đức Tin được Trau
Giồi chuẩn bị nền tảng để tâm thâu
thập cường độ và năng lực qua pháp hành
thiền, như Niệm Hơi Thở.
Trong phạm vi các "Phẩm
Trợ Đạo" (bodhipakkhiya-dhamma) chính "Đức
Tin được Trau Giồi" (bhàvanà saddhà)
được gọi là saddhindriya, Tín Căn, hay
đức tin có khả năng kiểm soát. Trong công phu hành
thiền, Đức Tin nầy một đàng tự biểu
hiện qua sự biến dạng của t́nh trạng chú tâm
bất ổn định và chao động và đàng khác
tượng trưng cho sự xuất hiện của tâm
sáng suốt và vững bền. [3] Trạng thái gom tâm chỉ
có thể vững chắc tập trung vào những
đề mục sáng tỏ không mù mờ. Pháp hành Niệm
Thân (kàyagatà-sati) như Niệm Hơi Thở, chuẩn
bị làm nền tảng cho bhàvanà-saddhà, Đức Tin và
Tín Nhiệm được công phu thực hành thiền
tập trau giồi, phát triển và thuần hóa. Nếu gom
tâm vào pháp Niệm Thân, như niệm hơi-thở-ra-và
hơi-thở-vào, có nghĩa là đă có Đức Tin
được Trau Giồi. Chừng đó, nếu tiếp
tục hành thiền Vắng Lặng (samatha) và Minh Sát (vipassanà),
hành giả sẽ thành đạt khả năng tận
diệt ba tầng lớp của Thân Kiến (sakkàya-ditthi)
trong chính kiếp sống hiện tại. Công phu hành
thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát cần phải
được thực hành thích nghi. Hành giả phải
nương tựa nơi một vị thầy thông
suốt Giáo Pháp.
Tấn Căn
Viriyindriya, ở một
mức độ nào, là đồng nghĩa với viriya,
tinh tấn. Nhưng có hai loại, hay hai tŕnh độ tinh
tấn. Đó là:
1. Pakati-viriya,
Tinh Tấn Thông Thường, và
2. Bhàvanà-viriya, Tinh Tấn được Trau Giồi
bằng pháp hành thiền.
Một
cách phân loại khác là:
1. Kàyika-viriya,
thân tinh tấn, và
2. Cetasika-viriya, tâm tinh tấn.
Tinh Tấn Thông Thường (pakati-viriya)
có thể được nhận ra dễ dàng. Những
người có nhiều Tinh Tấn Thông Thường trong những
vấn đề thế gian cũng có thể dễ dàng
đạt đến loại Tinh Tấn Trau Giồi (bhàvanà-viriya).
Hạnh đầu đà (dhutanga) hay những giới
luật nghiêm khắc của vị tỳ khưu là một
thí dụ về Thân Tinh Tấn trong bản chất
được trau giồi (kàyika-bhàvanà-viriya).
Nếu, sau khi vững vàng trau
giồi "Thân Tinh Tấn" như giảm bớt
ngủ nghỉ, tỉnh thức và cương quyết, mà
vẫn không đạt đến "Tâm Tinh Tấn" (cetasika-viriya),
như hăng say chăm chú hành thiền (bhàvanà-manasikàra),
vững chắc định tâm vào đề mục hành
thiền (kammatthàna), như Niệm Hơi Thở, và
thời gian thực hành kéo dài mà không thành tựu trạng
thái tâm sáng suốt, ta phải suy tư.
Bất luận làm việc ǵ,
chỉ khi nào người thực hành công việc ấy
nhanh chóng làm chủ vấn đề -- tức nắm
vững, hiểu biết rơ ràng và cặn kẻ vấn
đề -- mới hoàn thành thích nghi và đúng đắn.
Công việc sẽ không được hoàn tất thích nghi
và viên măn nếu chính công việc ấy làm chủ
người thực hành. Nói rằng "công việc làm
chủ người thực hành" có nghĩa là công
việc được thực hành một cách lơ
đễnh dể duôi, không hăng say, không thật sự
nhiệt tâm. Người thực hành sẽ không gặt hái
kết quả thiết thực, rồi ngày qua ngày, tháng
nầy kéo dài sang tháng kia, đâm ra chán nản (trong pháp hành)
buồn phiền, rồi ngán ngao uể oải dẫn
đến hôn trầm dă dượi. V́ hôn trầm dă
dượi, pháp hành không tiến, rồi v́ pháp hành không
tiến triển, càng thêm dă dượi hôn trầm.
Chừng ấy sẽ có ư nghĩ phát sanh thúc giục nên thay
đổi phương pháp thực hành. Như vậy luôn
luôn thay đổi pháp hành, và đó là "công việc làm
chủ người thực hành kém tinh tấn".
Trong công phu hành thiền chỉ
nhanh chóng thâu hoạch thành quả khi có đủ cả hai,
thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Từ lúc nắm vững
pháp hành Niệm Hơi Thở, hạnh tinh tấn ngày càng
phát triển thêm lên là bhàvanà viriya (tinh tấn
được phát triển do pháp hành thiền) và trong các
Phẩm Trợ Đạo (bodhipakkhiya-dhamma)
được gọi là viriyindriya (Tấn Căn).
Tinh tấn nầy được tiêu biểu bằng
sự biến dạng t́nh trạng dă dượi hôn
trầm và sự xuất hiện t́nh trạng nhiệt
thành, hăng say và cương quyết, trong khi hành
thiền. Tâm thỏa thích mạnh mẽ tập trung vào
đề mục. Do đó, nhiệm vụ thiết lập
"Tinh Tấn được Trau Giồi và Phát
triển" do pháp hành thiền cũng giống như
nhiệm vụ thiết lập "Đức Tin
được Trau Giồi và Phát Triển" do pháp hành
thiền.
Trong các Phẩm Trợ Đạo (bodhipakkiya-dhamma)
Niệm Căn (satindriya) có nghĩa là vững
chắc thiết lập chú niệm vào thân kàyagatà-sati,
Niệm Thân, tức vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào
và trau giồi pháp quán niệm (Bhàvanà-sati) gọi là Satipatthàna,
(Niệm Xứ), cho đến Chánh Niệm Siêu Thế (lokuttara-sammà-sati),
như là một chi của Đạo siêu thế.
Định Căn và Tuệ Căn (samàdhindriya
và pannindriya) cũng có thể được
định nghĩa và mô tả cùng một thế ấy.
Định Căn loại trừ t́nh
trạng tâm phóng dật khi được áp đặt vào
pháp Niệm Xứ (Satipatthàna), như đề
mục Niệm Hơi Thở. Tuệ Căn loại
trừ t́nh trạng tâm rối loạn và mơ hồ.
Tín Căn, Tấn Căn và
Niệm Căn -- đến trước Định và Tuệ
-- cũng như những người hỗ trợ một
v́ vua lên ngôi. Tín, Tấn và Niệm hỗ trợ Định và
Tuệ chí đến tuyệt đỉnh cao.
Sau khi đă kiên cố thiết lập
pháp Niệm Thân và vững vàng làm chủ tâm, nếu đi
con đường Vắng Lặng (samatha) th́ Định
Căn trở thành tám tầng Thiền (samàpatti hay jhàna)
trong khi Tuệ Căn trở thành năm Tuệ Giác Cao
Thượng (abhinna) [4] như thần thông, hay Năng
Lực Siêu Thế v.v... Nếu đi con đường
Minh Sát (Vipassanà), Định Căn trở thành tâm Định
Hư Vô (sunnatà-samàdhi), Định Vô Điều Kiện (animitta-samàdhi)
hay Định Vô Tác ư (appanihita-samàdhi), trong khi Tuệ
Căn trở thành năm Thanh Tịnh (visuddhi) liên quan
đến trí tuệ [5], Tuệ Giác về ba điều
Quán Niệm (anupassanà-nàna) [6], mười Tuệ Minh
Sát (vipassanà-nàna) [7], những Tuệ Giác liên quan
đến bốn Đạo và bốn Quả và mười
chín Tuệ Ôn Duyệt (paccavekkhana-nàna) [8].
Phần trên đây cho thấy
năm chi của Ngũ Căn đồng phát sanh chung
như thế nào.
Sự nổi bật của
Ngũ Căn
Giờ đây nơi nào mỗi chi
của Ngũ Căn hợp thành yếu tố nổi
bật.
Kinh điển dạy:
Kattha
saddhindriyam datthabbam?
Catùsu sotàpattiyangesu ettha saddhindriyam datthab-bam.
"Phải
t́m Tín Căn ở đâu?
Ta phải t́m nó trong bốn thành phần của tầng
Nhập Lưu." [9]
Điều nầy có nghĩa là Tín
Căn nổi bật trong bốn thành phần của
tầng Nhập Lưu. Bốn thành phần ấy là:
1. Đức tin không lay chuyển
nơi những phẩm hạnh thánh thiện của
Đức Phật, như Araham, Sammà-sambuddho ... (Ứng
Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác v.v...)
2. Đức tin không lay chuyển
nơi những phẩm hạnh thánh thiện của Giáo
Pháp như Svàkkhàto ... (Đă khéo giảng dạy và
được khẩu truyền y theo Chánh Pháp v.v...)
3. Đức tin không lay chuyển
nơi những phẩm hạnh thánh thiện của
Tăng Già như Supatipanno ... (Đức hạnh toàn
hảo đă tu hành y theo thánh pháp v.v...)
4. Trọn vẹn và toàn hảo
được phú cho Nền Tảng (hay nguyên nhân kế
cận; padatthàna) của tâm Định Siêu Thế (lokuttara-samàdhi),
vốn là "Giới Tịnh" (śla-visuddhi)
Đó là bốn yếu tố bảo
đảm t́nh trạng thành tựu Sotàpatti-magga-nàna
(Tu-Đà-Huờn Đạo Tuệ, hay tuệ giác liên quan
đến Tu-Đà-Huờn Đạo), trong kiếp sống
nầy.
Trong đoạn văn "Buddhe
aveccappasàdena samannà-gato", danh từ "aveccappasàdo"
có nghĩa "đức tin không lay chuyển". Đó là
đức tin (saddhà) của những vị đă
đạt đến mức Cận Định (upacàra-samàdhi)
trong khi suy niệm những phẩm hạnh thánh thiện
của Đức Phật. Upacàra-samàdhi nơi đây là
sự chú tâm vững chắc và không lay chuyển trong khi suy
niệm hồng danh Đức Phật. Khi có sự chú tâm
vững chắc và không lay chuyển như thế, phải
hiểu rằng sự kiểm soát của Đức Tin đă
nổi bật. Người như thế đă thành
đạt mức độ làm chủ tâm ḿnh trong vấn
đề liên quan đến Đức Tin nơi những
phẩm hạnh thánh thiện của Đức Phật.
Đối với những phẩm hạnh thánh thiện của
Pháp Bảo và Tăng Bảo cũng nên hiểu cùng một
thế ấy.
"Nền Tảng của Tâm
Định Siêu Thế" có nghĩa "Giới hạnh
thường xuyên, chấm dứt với Chánh Mạng
như giới thứ tám" (àj́vatthamaka-niccaśla) [10],
vốn là pháp có thể giúp hành giả đạt
đến tâm Định Siêu Thế trong kiếp sống
hiện tại. Khi giới (śla) nầy
được giữ ǵn trong sạch, không bị vi
phạm, và được nghiêm túc hành tŕ, ắt không
thể có những ô nhiễm của ái dục (tanhà),
ngă mạn (màna) và tà kiến (ditthi), và trong
trường hợp tương tợ ta phải hiểu
rằng saddhà (đức tin) nổi bật nằm
trong śla (giới). Không đủ khả năng ǵn
giữ những nhu cầu của śla (giới)
được gọi là "phạm giới". Mặc
dầu trên nguyên tắc, śla có thể không bị vi
phạm, nhưng nh́n dưới khía cạnh của
những điều kiện trần gian, giới
được thấy là "không trong sạch". Theo
thành ngữ "giá trị của con ḅ có thể
được thẩm định khi nh́n nó kéo xe băng
ngang một ḍng sông", hạng người cư sĩ hay
những vị tỳ khưu tự xem ḿnh là Phật
tử, chỉ có thể hiểu biết trong tâm ḿnh c̣n
tiềm ẩn ngủ ngầm t́nh trạng loạn động
và phóng dật nữa không -- tức ḿnh đă làm chủ cái
tâm chưa -- sau khi xem xét tận tường bốn yếu
tố trên.
Katha
v́riyindriyam datthabbam?
Càtusu sammappadhànesu ettha v́riyindriyam datthabbam.
"Phải
t́m Tấn Căn ở đâu?
Ta phải t́m nó trong "Tứ Chánh Cần", bốn
thành phần của Tinh Tấn (sammappadhàna)."
Hạng người cư sĩ
hay những vị tỳ khưu tự xem ḿnh là những
người bước theo dấu chân của Đức
Phật chỉ có thể hiểu biết t́nh trạng
loạn động và phóng dật nằm trong hạnh Tinh
Tấn (v́riya) của ḿnh đă bị loại trừ
và biến dạng chưa -- tức ḿnh đă làm chủ cái
tâm chưa -- sau khi quan sát cặn kẻ bốn yếu
tố của Tứ Chánh Cần (sammappadhàna).
"Hăy để da của ta c̣n
lại, để gân của ta c̣n lại, hăy để
xương của ta c̣n lại, hăy để máu khô
cạn, ta sẽ không an tâm ngơi nghỉ cho đến khi
tận diệt quyền lực của Thân Kiến (sakkàyaditthi),
tận diệt quyền lực của các Bất Thiện
Pháp (duccaritas), và những khổ cảnh của ṿng
luân hồi (apàya-samsàra) bên trong cá nhân ta, trong kiếp
sống nầy." Đây là ư chí cương quyết và
hạnh chuyên cần tinh tấn nằm trong Tứ Chánh
Cần, không ǵ khác. Đây là hạnh tinh tấn giống như
mức tinh tấn của Ngài Đại Đức Cakkhupàla. [11]
Khi thấy có ư chí cương quyết và hạnh tinh
tấn như vậy ta phải nhận ra t́nh trạng
nổi bật và kiểm soát tâm của v́riya, tinh
tấn. Trong phạm vi Tinh Tấn (v́riya) trạng thái
tâm loạn động và bất ổn định đă
tan biến, không c̣n thấy nơi người như
thế ấy, và người ấy, trong Giáo Huấn
của một vị Phật (Buddha Sàsana) đă làm
chủ tâm ḿnh.
Kattha
satindriyam datthabbam?
Catùsu satipatthànesu ettha satindriyam datthabbam.
"Phải
t́m Niệm Căn ở đâu?
Ta phải t́m nó trong Tứ Niệm Xứ (satipatthàna,
tức Nền Tảng của tâm Niệm)."
Hàng cư sĩ và những vị
tỳ khưu tự xem ḿnh là những người noi theo
dấu chân của Đức Phật, chỉ có thể
hiểu biết t́nh trạng loạn động và bất
ổn định trong chú niệm (sati) của ḿnh có
tan biến không, và ḿnh có thật sự làm chủ tâm ḿnh
không, bằng cách thực hành bốn yếu tố của
satipatthàna, Tứ Niệm Xứ. Nếu có thể vững
chắc gom tâm vào phần nào của thân, như
hơi-thở-ra và thở-vào chẳng hạn, ḿnh thành công
Niệm Thân (kàyagatàsati) bao lâu cũng được,
th́ phải nhận biết rằng ḿnh đă kiểm soát
niệm (sati). T́nh trạng loạn động và
bất ổn định của người như
thế đă biến tan. Vị ấy đă làm chủ tâm
ḿnh.
Kattha
samàdhindriyam datthabbam?
Catùsu jhànesu ettha samàdhindriyam datthabbam.
"Phải
t́m Định Căn ở đâu?
Ta phải t́m nó trong Tứ Thiền, tức bốn tầng
Thiền (jhàna) dục giới."
Nếu trong khi hành thiền samatha
(Vắng Lặng), như niệm hơi-thở-ra
thở-vào, ta thành công tiến đến mức tối
thiểu là giai đoạn cận định upacàra samàdhi
bhàvanà, và nếu do đó những Triền Cái (nivaranas,
tức những chướng ngại tinh thần) như
Tham Dục (kàmacchanda), Sân Hận (byàpàda) v.v... mà
từ quá khứ xa xôi của ṿng luân hồi (samsàra),
liên tục chạy loạn và khuấy động tâm đă
được loại trừ, sự chú tâm vào những
đề mục của thiền Vắng Lặng đă
đặc biệt trở thành vững chắc và tĩnh
lặng. Sự kiện nầy phải được
nhận thức là phát sanh từ cơ năng kiểm soát
của samàdhi, tâm Định. T́nh trạng loạn
động và bất ổn trong tâm định đă
biến tan, và hành giả là người đă làm chủ tâm
ḿnh.
Kattha
pannindriyam datthabbam?
Catùsu ariyasaccesu ettha pannindriyam datthabbam.
"Phải
t́m Tuệ Căn ở đâu?
Ta phải t́m nó trong Tứ Diệu Đế."
Trong những người đă
gặp được Giáo Huấn của một vị
Phật (Buddha Sàsana), sự hiểu biết Tứ
Diệu Đế có giá trị tối quan trọng.
Chỉ khi thông suốt Tứ
Diệu Đế mới có thể tiến đến mức
giải thoát ra khỏi quyền lực của sakkàyaditthi
(Thân Kiến), của những duccaritas (Bất
Thiện Pháp) và của apàya samsàra, những cảnh
khổ của ṿng luân hồi. Do đó, nhằm thấu
đạt ư nghĩa thâm sâu của Tứ Diệu Đế
phải cố gắng tối thiểu là minh sát hiểu biết
sáu dhàtus (tức sáu nguyên tố căn bản): pathavi,
àpo, tejo, vàyo, àkàsa và vinnàna -- đất, nước,
lửa, gió, không gian và thức, [12] hoặc minh sát bản
chất phù du tạm bợ và bất ổn định --
thấy nó không thể tồn tại lâu hơn một nháy
mắt và không ngừng hoại diệt. Ta phải minh sát
thông suốt những điều nầy bằng những phương
pháp thực hành như học, nhớ, đọc đi
đọc lại, suy gẫm, lắng nghe, thảo
luận, t́m hỏi, tu tập thiền minh sát và quán
niệm. Nếu đă minh sát nhận thức rơ ràng sáu nguyên
tố ấy, ắt không cần c̣n phải đặc
biệt thực hành những pháp ǵ khác. [13] Nếu có
thể chứng ngộ bản chất anicca (vô
thường), tiếp theo sau bản chất anattà (vô
ngă) ắt sẽ được chứng ngộ một
cách tự nhiên. [14]
Bản chất dukkha
(Khổ) chỉ có thể được chứng ngộ
trọn vẹn khi đạt đến giai đoạn arahatta
phala (A-La-Hán Quả).
Như vậy, sau khi chuyên cần
tinh tấn trong một thời gian dài, đến lúc thành
đạt sự hiểu biết minh sát về bản
chất của sáu nguyên tố căn bản ở bên trong
và bên ngoài ḿnh -- cả hai nơi -- cũng như bản
chất vô thường của nó, mới có sự kiên
cố chú tâm vào đó. Sự hiểu biết minh sát nầy
phải được nhận thức là đă phát sanh do
bản chất kiểm soát nổi bật của pannà
(trí tuệ). T́nh trạng không thể tin cậy, vốn là
bản chất thông thường của tâm, từ quá
khứ vô tận trong ṿng luân hồi, dần dần tan
biến.
Nơi đây, "t́nh trạng
không thể tin cậy của tâm" có nghĩa là nhận
thấy thường c̣n trong những sự việc vô
thường, thấy hạnh phúc trong đau khổ,
thấy thú vị trong sự việc đáng ghê tởm,
thấy cái ta trong vô ngă, thấy những cá nhân trong cái
không-cá-nhân, những chúng sanh trong cái không-chúng-sanh, thấy
những con người trong cái không-con-người,
thấy chư thiên, Trời Đế Thích và chư Phạm
Thiên trong cái không-chư-thiên, không-Trời-Đế-Thích, không-Phạm-Thiên,
thấy đàn ông, đàn bà, trâu, ḅ, voi, ngựa trong cái
không-đàn-ông, không-đàn-bà, không-trâu, không-ḅ, không-voi, và
không-ngựa. Vượt ra khỏi t́nh trạng "không
thể tin cậy" có nghĩa nhận thức sự
thật đúng như thật sự nó là vậy, sau khi
đă làm chủ tâm ḿnh trong Giáo Huấn của một
vị Phật.
Nếu dukkha-sacca, Khổ
Đế, hay Chân Lư Thâm Diệu về sự Khổ,
được nhận thức rơ ràng, tiếp theo sau, ba
Chân Lư kia cũng sẽ được nhận thức rơ
ràng theo ḍng diễn tiến của nó. Trong sự nhận
thức bốn Chân Lư, phương cách mà người
thế gian (puthujjana) hiểu biết được
gọi là "hiểu biết trên lư thuyết" (anubodha).
Phương cách hiểu biết của hạng Thánh Nhân (ariya,
tức như những vị Tu-Đà-Huờn v.v...)
được gọi là "hiểu biết xuyên
thấu" (pativedha, tức hiểu biết một
cách rơ ràng, thâm sâu và sắc bén). "Hiểu biết trên lư
thuyết" cũng giống như nh́n thấy ánh sáng
trong đêm tối, thấy sáng nhưng không thấy
ngọn lửa, nguồn gốc mà từ đó ánh sáng
khởi phát. Mặc dầu không thể trực tiếp
nhận thấy ngọn lửa, nhưng chỉ thấy ánh
sáng ta cũng có thể biết chắc chắn rằng có
một ngọn lửa. Trực tiếp nhận thấy
ngọn lửa như pativedha, "hiểu biết
xuyên thấu".
Saddhindriyam bhàveti, V́riyindriyam bhàveti,
Satindriyam bhàveti, Samàdhindriyam bhàveti, Pannindriyam bhàveti." [15]
Câu Pàli trên do Đức Phật
dạy, có nghĩa là Ngũ Căn phải được
thực hành và phát triển nhằm làm dễ dàng công tŕnh
hành thiền samatha và vipassanà (Vắng Lặng và
Minh Sát).
Người không trau giồi và
phát triển năm khả năng indriyas, Ngũ Căn,
nầy cũng giống như một quốc gia không có
người cai trị, như một vương quốc
không có vua. Giống như một khu rừng núi hoang vu trong
đó những giống thổ dân sinh sống ô tạp,
không người lănh đạo, quản lư. Trong một
quốc gia như vậy không có luật pháp. Dân chúng trong
đó sống buông lung hỗn tạp không có ǵ kềm
chế. Giống như loài thú, kẻ yếu làm mồi cho
người mạnh. Cùng một thế ấy, tâm của
người không trau giồi Ngũ Căn cũng phóng túng
và chạy loạn với những ô nhiễm như
vậy. Y hệt người bị ma quỷ nhập không
chịu nổi âm thanh của lời kinh như "iti'
piso" hay "hetu paccayo", khi người mà
không trau giồi Ngũ Căn nghe những câu chuyện liên
quan đến nhân duyên đưa đến hạnh phúc (paccaya
santosa) hoặc đề cập đến pháp hành trau
giồi tâm linh (bhàvanà-rambha) th́ nhanh chóng t́m ra lư lẽ
để chê bai, chỉ trích, và phản đối. Bên trong
những người như thế ấy không bao giờ có
ư muốn hành thiền, Vắng Lặng hay Minh Sát, phát sanh.
Đàng khác, người có phát
triển Ngũ Căn giống như một quốc gia có
vị quốc vương công minh chánh trực lănh
đạo. Giống như thị thành hay làng xóm nằm
ngay nơi có chánh phủ trung ương. Người
như thế ấy không bị những lư thuyết khác
nhau làm tâm trí rối loạn. Người ấy kiên cố
vững chắc trong đường lối duy nhất
của Giáo Pháp. Khi nghe bàn thảo về nguyên nhân đưa
đến hạnh tri túc, hoặc về pháp hành để
mở mang tinh thần th́ tâm trở nên mát mẻ và sáng
tỏ. Người ấy vững vàng trong ư muốn
thực hành thiền Vắng Lặng (samatha) và Minh Sát
(vipassanà).
Như vậy, trong thế gian
nầy hai loại ư muốn phát sanh, không phải v́ bản
chất của những chúng sanh hay những cá nhân, mà tùy
thuộc nơi mức độ phát triển Ngũ Căn
(indriyas) của những vị ấy. Nếu không phát
triển Ngũ Căn (indriyas) ắt có một
loại ư muốn phát sanh. Nếu có phát triển Ngũ
Căn (indriyas) ư muốn đó tan biến và loại ư
muốn mới chắc chắn sanh khởi. Ngũ Căn
càng được phát triển mạnh mẽ, loại ư
muốn mới càng tăng trưởng và càng trở nên
dũng mănh. Khi tất cả năm indriyas kiên cố
vững chắc, ư muốn thành đạt Đạo và Quả
liền phát khởi. Như vậy ta nên phát triển Ngũ
Căn để vượt lên, từ mức độ
Thông Thường (pakati-saddhà v.v...) đến mức
độ Phát Triển (bhàvanà-saddhà v.v...) do pháp hành thiền.
Ghi chú:
[1] Về Ngũ Căn xem "The Way of Wisdom"
do tác giả Edward Conze (The Wheel số 65/66)
[2] "Tập tành" hành thiền. Trong bản
dịch tiếng Anh đầu tiên, dịch giả dùng danh
từ "imitation meditation", hàm ư như bắt
chước, giả bộ hành thiền. Vị chủ biên
(Ngài Nyanaponika Maha Thera) cảm thấy rằng danh từ
nầy phần nào làm giảm giá trị của công tŕnh
bắt đầu hành thiền, và đó chắc không
phải là nguyên ư của tác giả. Theo ư Ngài đây là
bắt đầu tập hành thiền (rudimentary meditation).
Bởi v́ đây là bước đầu, hành giả
mới khởi công suy niệm chớ không đi sâu vào pháp
hành. Do đó theo ư nghĩa của đoạn văn, đây
là một trong ba phương cách tạo phước (punna-kiriya-vatthu).
Dầu sao pháp hành nầy có thể đem lại nhiều
lợi ích và rất có thể dẫn đến tâm
định và pháp hành thích nghi. (người dịch)
[3] Sắc thái saddhà (Đức Tin) đặc
biệt biểu hiện nơi đây là ḷng tín nhiệm. Tín
nhiệm nơi phương pháp thực hành (và tín nhiệm
nơi Giáo Pháp nói chung) và ḷng tự tin. (Chủ Biên)
[4] Năm Tuệ Giác Cao Thượng (abhinna)
là: 1. Iddhividha, Thần Thông, 2. Dibba-sota, Thiên
Nhĩ (nhĩ thông), 3. Parassa cetopariya-nàna, Tha Tâm Thông
(tuệ giác biết được tâm của người
khác), 4. Pubbe-nivàsànussati, Túc Mạng Thông (tuệ giác
nhớ lại những kiếp sống quá khứ), 5. Dibba-cakkhu,
Thiên Nhăn (nhăn thông).
[5] Năm Thanh Tịnh liên quan đến tuệ:
Kiến Tịnh (Ditthi-visuddhi), Đoạn Nghi Tịnh (Kankhàvitarana-visuddhi),
Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh (Maggàmagganànadassana-visuddhi),
Đạo Tri Kiến Tịnh (Patipadànàna-dassana-visuddhi), và
Tri Kiến Tịnh (Nànadassana-visuddhi).
[6] Đó là Quán Niệm về Vô Thường, Khổ
và Vô Ngă.
[7] Đó là Tuệ Thấu Đạt (sammasana-nàna)
và chín Tuệ Minh Sát được đề cập
đến trong Chương XXI sách "The Path of
Purification" (Thanh Tịnh Đạo).
[8] Mười chín Tuệ Giác nầy
được liệt kê trong "The Path of Purification"
(Thanh Tịnh Đạo), Chương XXII.
[9] Sotàpannassa angàni; Xem Indriya Samyutta, Sutta 8,
Datthabba-sutta.
[10] Xem chú thích trong chương II.
[11] Xem Dhammapada Commentary, tích chuyện liên quan
đến câu 1.
[12] Sáu nguyên tố căn bản là: 1. Nguyên tố
Đất, có đặc tính chiếm không gian, 2. Nguyên tố
Nước có đặc tính làm dính liền, 3. Nguyên tố
Lửa, có đặc tính làm đổi thay, 4. Nguyên tố
Gió, có đặc tính di chuyển, hay nâng đỡ, 5. Nguyên
tố Không Gian. 6. Nguyên tố Thức. Về pháp hành
thiền niệm bốn nguyên tố đầu, xem Magga
D́pani, của tác giả Ngài Ledi Sayadaw, phần "How to
establish the Wisdom Group".
[13] Những pháp khác, như phân hạng các Uẩn
(khandha) hay lục căn (àyatana).
[14] Xem Udàna, Meghiya Vagga Suttà: "Nơi
người đă nhận thức bản chất vô
thường, tri giác về bản chất Vô Ngă tự nhiên
phát sanh. Và người đă nhận thức Vô Ngă, tánh ngă
mạn, chấp thủ "Tôi Là", sẽ bị
loại trừ và chứng đắc Niết Bàn ngay trong
kiếp sống nầy."
[15] Samyutta Nikàya, Mahà Vagga, Indriya Samyutta, Vagga 6,
Sutta 8.
Chương
VI
Ngũ lực
(Bala)
Những "Năng Lực Tinh
Thần" (balàni) được gọi như
vậy bởi v́ "nó khắc chế những trạng
thái tâm đối nghịch". [1] Hoặc nữa, như
các bản chú giải giải thích: Nó có nhiều năng
lực, trong ư nghĩa các thế lực đối nghịch
không thể làm nó lay chuyển (akampanatthena) [2].
Đối chiếu với Ngũ
Căn có Ngũ Lực (bala):
1. Saddhà
(Tín Lực, đức tin)
2. V́riya (Tấn Lực, hạnh tinh tấn)
3. Sati (Niệm Lực, tâm chú niệm)
4. Samàdhi (Định Lực, tâm định)
5. Pannà (Tuệ Lực, trí tuệ).
Ngũ Lực giống như
năm vị tướng soái, hay chỉ huy trưởng,
tàn sát và tiêu diệt "vương quốc Thân Kiến
đối nghịch". Đây là năm năng lực hùng
mạnh mà chư vị Tỳ Khưu và hàng tại gia
cư sĩ có thể đặt niềm tin và an toàn
nương tựa vào.
Cũng như trường
hợp Tín Căn, Tín Lực (saddhà bala) có hai loại:
1) Tín Lực Thông Thường (pakati-saddhà) và 2) Tín
Lực được Trau Giồi (bhàvanà-saddhà).
"Tín Lực Thông
Thường" không có được trau giồi và phát
triển qua pháp hành đặc biệt, c̣n liên hợp
với Tham ái (tanhà) tùy trường hợp, chỉ có
thể tạo những thiện nghiệp thông
thường (pakati-kusala-kamma) như Bố Thí (dàna),
Tŕ Giới (śla) v.v... Năng lực ở mức
độ hạn chế của nó không thể khắc
phục tâm Tham. Ngược lại, Tham ái (tanhà)
cầm giữ "Đức Tin Thông Thường"
dưới quyền lực của nó.
Tham ái giữ Đức Tin Thông
Thường dưới quyền lực của nó như
thế nào? -- Kinh điển Pàli rơ ràng đề cập
đến bốn "Phương Pháp Thực Hành Cổ
Truyền của chư Thánh Nhân" (ariya-vamsa) [3].
Đó là:
1.
Dễ dàng an phận, bằng ḷng với thức ăn mà
ḿnh có,
2. Dễ dàng an phận, bằng ḷng với y phục mà ḿnh
có,
3. Dễ dàng thỏa măn với bất luận chỗ
ở nào ḿnh có,
4. T́m thích thú và hoan hỷ trong công phu hành thiền (bhàvanà).
"Bốn phương pháp
thực hành cổ truyền của chư Thánh Nhân"
nầy hợp thành phạm vi của saddhà [4],
đức tin. Trong thế gian ngày nay phạm vi rộng
lớn nầy của đức tin, saddhà, đă kín
đáo ẩn ḿnh ch́m đắm mất dạng. Ngày nay,
người ta hoan hỷ và thỏa thích trong lạc thú
trần gian (paccayàmisa); người ta hoan hỷ và
thỏa thích trong địa vị, quyền thế, và danh
vọng trần gian (lokàmisa); người ta hoan hỷ
và thỏa thích với cuộc sống có nhiều lạc
thú, tài sản phong phú, nhiều oai lực và quyền
thế (vattàmisa) và như thế, vương quốc
rộng lớn của Tham ái (tanhà) được kiên
cố vững chắc và tỏ tường như
đại dương mênh mông rộng lớn bao trùm ḥn
đảo. Điều nầy cho thấy điểm suy
nhược của Đức Tin Thông Thường (pakati-saddhà)
trong thế gian nầy.
Chính "Đức Tin
được Trau Giồi", sanh khởi từ công phu
thực hành pháp Niệm Thân (như Niệm Hơi Thở)
-- được gia công chuyên cần chí đến khi
mọi t́nh trạng chao động và bất ổn trong tâm
chấm dứt -- mới có thể loại trừ Tham ái (tanhà),
tức hoan hỷ thỏa thích trong ba loại lạc thú
trần gian (àmisa) kể trên. [5] Chính Đức Tin
được Trau Giồi (bhàvanà saddhà) có thể
cứu vớt chư vị tỳ khưu và hàng cư
sĩ tại gia đang lặn hụp ch́m đắm trong
đại dương của ba Tham ái [6], và giúp đưa
họ đến "ḥn đảo ẩn trú" của
vương quốc Đức Tin (saddhà), tức bốn
Pháp Thực Hành Cổ Truyền của chư Thánh Nhân (ariya-vamsa-dhamma).
Trong phạm vi các Phẩm Trợ Đạo (Bodhipakkiya-dhamma)
chính Đức Tin được Trau Giồi phải
được thành đạt.
Trong hai loại Tinh Tấn (v́riya),
loại Tinh Tấn Thông Thường, không được
có pháp hành trau giồi, liên hợp với tánh lười
biếng (kosajja), tùy trường hợp, đưa
đến những thiện nghiệp thông thường (pakati-kusala-kamma)
như Bố Thí, Tŕ Giới và nghiên cứu học hỏi
kinh điển v.v... Loại Tinh Tấn Thông Thường
nầy không đủ khả năng loại trừ
tật lười biếng. Trái lại, chính lười
biếng kiểm soát và cầm quyền làm chủ Tinh
Tấn Thông Thường.
Khi gặp Giáo Huấn của
một vị Phật (Buddha Sàsana) ta hiểu biết
rằng từ trong quá khứ xa xôi vô tận của ṿng luân
hồi ḿnh đă gần gũi quen thuộc với Thân
Kiến (sakkàya-ditthi), với những Bất Thiện
Nghiệp (duccarita), và đă là chúng sanh ở trong
những Khổ Cảnh (apàya-loka). Kinh điển Pàli
mô tả rơ ràng và tường tận Phương Pháp
Thực Hành Cổ Truyền của Thánh Nhân, Ariya-vamsa,
như đường lối để loại trừ
thói quen lười biếng, và yếu tố thứ tư
trong bốn pháp nầy -- tức hoan hỷ thỏa thích
trong pháp hành thiền -- phải được thực hành chí
đến khi vượt thoát ra khỏi t́nh trạng
lười biếng (vốn đối nghịch với
Tinh Tấn).
Phương cách loại trừ
trạng thái lười biếng được mô tả
như trên (trong trường hợp của một vị
tỳ khưu) [7]. Đă tự trang bị với các sikkhàs
(pháp tu tập -- vốn là di sản của Đức Phật)
mà trong Lễ Xuất Gia, khi trở thành tỳ khưu,
vị nầy chú nguyện hành tŕ:
*
lấy cây cối và lùm bụi trong rừng làm nơi cư
trú,
* chỉ sống với vật thực được
bố thí trong khi đi tŕ b́nh,
* thực hành hạnh đầu đà (Dhutanga, pháp hành
nghiêm khắc của các vị đạo sĩ ẩn
dật), và
* và chuyên chú Niệm Thân.
Đó là những tác động
của Tinh Tấn nhằm loại trừ nghiệp bất
thiện (akusala kamma) phát sanh do lười biếng (kasajja).
Đó là những công tŕnh nằm trong phạm vi Tinh Tấn (v́riya).
Trong thế gian ngày nay phạm vi
Tinh Tấn nầy bị che dấu, c̣n tối tăm và
không được biết đến. Ngày nay, mặc
dầu chư vị tỳ khưu biết ḿnh thuộc
về hạng chúng sanh nằm trong Thân Kiến và Bất
Thiện Nghiệp và c̣n có thể sa đọa vào những
Khổ Cảnh, nhưng vẫn thường xuyên sống
trong thành thị và xóm làng để được gần
tín thí; họ lấy làm vui thích nhận lănh lễ vật
cúng dường và những lợi ích, họ không thể xa
lánh những cuộc hội họp đông người
v.v... tất cả những điều ấy đều
nằm trong phạm vi của Lười Biếng (kasajja)
và phạm vi Lười Biếng nầy hiển hiện rơ
ràng như nước trong biển cả tràn ngập
một hải đảo. Điều nầy biểu hiện
tánh cách suy nhược của Tinh Tấn Thông Thường
(pakati v́riya).
Chỉ có Tinh Tấn
được Trau Giồi (bhàvanà v́riya) -- như an
phận bằng ḷng với t́nh trạng ngủ nghỉ
tối thiểu, luôn luôn giác tỉnh và tích cực sinh
hoạt, không sợ sệt, dũng cảm và quyết tâm
sống đơn độc, chuyên cần và bền
vững thực hành thiền tập -- chỉ có loại
Tinh Tấn như vậy mới có thể loại trừ
trạng thái Lười Biếng.
Trong phạm vi các Phẩm Trợ
Đạo (Bodhipakkhiya-dhammà, những nhu cầu chánh
yếu nhằm hướng đến Giác Ngộ) phải
thành đạt "Tinh Tấn được Trau
Giồi" qua thiền tập.
ư nghĩa chi tiết về
Niệm Lực, Định Lực và Tuệ Lực có thể
được lănh hội qua những lời giải thích
ở phần trên. Nơi đây Sư (Ngài Ledi Sayadaw)
chỉ tóm lược vắn tắt.
Nghịch nghĩa với sati,
Niệm, là mutthasacca, trạng thái tâm phóng dật hay không
chăm chú (thất niệm). Điều nầy có nghĩa là
không thể chú tâm vào công phu hành Thiền Vắng Lặng (samatha
bhàvanà) hay Thiền Minh Sát (vipassanà-bhàvanà); không
đủ khả năng tập trung và kiểm soát tâm; ḍng
tư tưởng hoang dại hướng về những
đối tượng khác, ngoài đề mục phải
gom tâm vào. Niệm Lực Thông Thường trong giai
đoạn mới bắt đầu tu tập không
đủ khả năng loại trừ t́nh trạng
thất niệm như vậy. Chỉ tâm Niệm được
Trau Giồi mới có đủ khả năng.
Nghịch nghĩa với samàdhi,
Định, là t́nh trạng Loạn Động (vikkhepa,
tức những ư tưởng vẩn vơ bay nhảy không
ư định). Đó là t́nh trạng bất lực, kém khả
năng tập trung, kiểm soát và chú tâm vững chắc vào
một đối tượng. Đó là sự khởi sanh
những ư nghĩ hướng về đối
tượng khác, ngoài đề mục hành thiền. Đó là
trạng thái tâm loạn động và bất an khi muốn
áp đặt vào công phu hành thiền. Tâm Định Thông
Thường không thể loại trừ trạng thái
bất tịnh của tâm Loạn Động. Chỉ tâm
Định được thiền tập Trau Giồi (bhàvanà
samàdhi) mới có đủ khả năng.
Nghịch nghĩa với pannà,
Tuệ, là trạng thái sammoha, Si Mê. Đây là trạng thái
tâm mê hoặc, kém trong sáng, mù mờ và không minh mẫn. Đây là
trạng thái tâm mờ tối v́ bị màng đen che
lấp. Trí Tuệ Thông Thường (pakati-pannà)
cũng như sức học uyên bác ngoài đời (pariyatti-pannà),
có thể bao gồm t́nh trạng thông suốt toàn thể Tam
Tạng kinh điển, không thể loại trừ
trạng thái tâm Si Mê như thế đó. Chỉ có Trí
Tuệ được Trau Giồi bằng Thiền Tập
(bhàvanà pannà) vững vàng kiên cố trong pháp Niệm
Thân, mới có thể dần dần loại trừ Si Mê.
Điều nầy có nghĩa là
năm bất thiện pháp đối nghịch (patipakkha-akusala-dhamma)
đi đôi từng cặp, song song với những
Năng Lực tương ứng (bala).
Năm năng lực bất
thiện đối nghịch ấy là:
1.
Tham ái (tanhà);
2. Lười biếng (kosajja), hay kém khả năng
chịu đựng t́nh trạng cực nhọc (mỏi
mệt), hoặc thiếu ư chí cương nghị,
thiếu quyết tâm không sợ thực hành Giáo Pháp;
3. Thất niệm (mutthasacca);
4. Loạn Động (vikkhepa);
5. Si Mê (sammoha).
Năm sức mạnh có thể
cưỡng chế, hay phản ứng chống lại và
loại trừ năm năng lực nầy
được gọi là Ngũ Lực (bala). Đối
với hạng Neyya, những người cần
phải được hướng dẫn, nếu một
chi trong Ngũ Lực yếu kém và không đủ khả
năng loại trừ năng lực đối nghịch
th́ pháp hành, dầu thiền Vắng Lặng hay thiền Minh
Sát, ắt khó thành công.
Do đó, ngày nay vài người có
thể vượt lên khỏi phạm vi Tham ái (tanhà)
bởi v́ Tín Lực (saddhà bala) của họ
đủ dũng mănh. Các người nầy đă không c̣n
luyến ái, không bám níu vào những sự việc trần
gian, vào địa vị, quyền thế, hay danh vọng.
Nhưng v́ bốn Năng Lực kia c̣n yếu kém, nên họ
không thể vượt khỏi lên trên mức dễ dàng
thỏa măn (santutthi) với điều kiện sinh
sống của ḿnh.
Vài người có thể
vượt lên khỏi phạm vi Tham ái và Lười
Biếng v́ Tín Lực và Tấn Lực của họ
đủ mạnh. Họ có thể thường xuyên ǵn
giữ cuộc sống thỏa măn, và -- nếu là nhà sư
-- có thể kiên tŕ sống trong rừng sâu, trên đồi
núi, và quyết chí hành tŕ hạnh đầu đà (dhutanga),
gương mẫu của hạnh Tinh Tấn. Tuy nhiên, v́ ba
Năng Lực kia yếu kém nên họ không thể thành công
thực hành pháp Niệm Thân hay trong công phu thực hành
thiền Vắng Lặng hay thiền Minh Sát.
Lại nữa, có vài người
đủ mạnh trong ba Năng Lực đầu (Tín
Lực, Tấn Lực và Niệm Lực) và nhờ vậy
tiến đến pháp Niệm Thân (kàyagatà sati), thành
tựu trạng thái chú tâm như thực hành niệm
hơi-thở-ra thở-vào hoặc suy niệm về
xương trong thân. Nhưng v́ thiếu hai Năng Lực
kia (Định Lực và Tuệ Lực) nên không thể
đắc Thiền, Jhàna, và tuệ Minh Sát.
Những người khác, có
thể chứng đắc các tầng Thiền (Jhàna)
bởi v́ bốn Năng Lực đầu tiên của
họ đủ mạnh nhưng Tuệ Lực c̣n yếu
nên không thể thành công trong pháp hành thiền Minh Sát.
Vài người có Tuệ Lực
đủ sức mạnh nhờ học hỏi nghiên
cứu Giáo Pháp và Tam Tạng kinh điển. Họ cũng
sáng suốt lănh hội những giáo lư về chân lư cùng
tột (paramattha dhamma, chân đế). Nhưng bởi
v́ c̣n thiếu nền tảng vững chắc của
bốn Năng Lực kia, nên họ không thể vượt
qua khỏi lănh vực tâm Tham ái, Lười Biếng,
Thất Niệm và Loạn Động. Họ sống và
chết trong phạm vi của những trạng thái bất
tịnh ấy. Như vậy, khi một Năng Lực nào
của Ngũ Lực c̣n yếu kém, ḿnh không thể
vượt qua khỏi phạm vi của năng lực đối
nghịch tương đương.
Trong Ngũ Lực, năng lực
của Tinh Tấn và Trí Tuệ cũng là Như ư Túc (Iddhipàdas)
"Căn Bản của sự Thành Công" về mặt
tinh thần. Do đó, nếu hai Năng Lực nầy
dũng mănh và dung ḥa với nhau, sẽ không có trường
hợp không thể thành công hành thiền Minh Sát v́ ba Năng
Lực kia suy yếu.
Những người không hiểu
cơ năng và nhiệm vụ của Như ư Túc (iddhipàda,
Nền Tảng của Thành Công), của Ngũ Căn (indriya,
Khả Năng Kiểm Soát) và của Ngũ Lực (bala)
không hiểu tại sao nhiệt tâm thực hành Giáo Pháp
của họ yếu kém và những năng lực
đối nghịch (patipakkha) nào tấn công họ.
Họ không hiểu biết những phẩm chất
của tâm mà họ phải trau giồi và do đó, ḷng ham
muốn trau giồi tâm không bao giờ đến với
họ. V́ lẽ đó mà ngày nay những Phương Pháp
Thực Hành Cổ Truyền của Thánh Nhân (ariya-vamsa)
đă đến bờ vực thẩm của t́nh trạng
mất dạng.
Sư (ngài Ledi Sayadaw) cho một thí
dụ. Có một giống ḅ gọi là usabha. Giống
ḅ nầy có giá trị cả ngàn lần cao hơn ḅ
thường. Nếu nhận ra những đặc tính và
những dấu hiệu đặc thù của nó và nếu
nó được chăm sóc dưỡng nuôi đúng
mức, chân cẳng và ḿnh mẩy nó sẽ nở nang to
lớn, mạnh dạn và có rất nhiều năng lực.
Nó có thể canh gát giữ ǵn và bảo bọc cả
bầy ḅ hàng trăm con chống lại sư tử,
cọp, beo.
Nếu người chủ
của con ḅ quư giá như vậy không biết giá trị
của nó và do đó không trông nom chăm sóc và dưỡng
nuôi thích nghi mà vẫn đối xử với nó như
những con ḅ thường khác; cứ bắt nó kéo cày, kéo
bừa và kéo xe với những con ḅ thường, những
đặc tính khác biệt, ḿnh mẩy và chân cẳng nó
sẽ không nở nang sức mạnh và năng lực to
lớn của nó nằm im. Nó sẽ sống như vậy
và sẽ chết giống hệt như những con ḅ thông
thường khác.
Nhưng người chủ ḅ
hiểu biết sẽ nuôi con ḅ giống tốt như
vậy trong một cái chuồng được xây cất
riêng, che mưa đỡ gió kín đáo. Họ sẽ
trải cát trắng sạch sẽ để lót sàn cho cái
chuồng, và đóng trần cao tới nóc. Họ sẽ
giữ chuồng sạch sẽ, cho ḅ ăn loại lúa thóc
dành cho người, và năng tắm rửa ḅ. Trong
trường hợp nầy những dấu hiệu
đặc biệt, chân cẳng và ḿnh mẩy ḅ sẽ
nở nang to lớn, sức mạnh và năng lực
của ḅ sẽ tăng trưởng phi thường.
Trong Giáo Huấn hiện tại
của Đức Phật, hạng người Neyya [8]
(cần phải được hướng dẫn)
giống như người chủ ḅ. Ngũ Lực
của hạng người Neyya giống như con ḅ usabha.
Những đoạn kinh sách phân hạng Satipatthàna Vibhanga,
Sammappadhàna Vibhanga, Iddhipàda Vibhanga, Indriya Vibhanga, Bojjhanga
Vibhanga, và Magganga Vibhanga của Tạng Luận, Abhidhamma
Pitaka, cũng như những bài kinh Mahà-Satipatthàna-Sutta,
Satipatthàna Samyutta, Sammappa-dhàna Samyutta, Iddhipàda Samyutta, Indriya
Samyutta, Bala Samyutta, và Bojjhanga Samyutta của Tạng Kinh
giống như sách vỡ được tŕnh bày, mô tả
những đặc tính khác biệt, những dấu
hiệu đặc thù của loại ḅ usabha,
những phương pháp phải trông nom chăm sóc và
dưỡng nuôi giống ḅ như thế nào, và nếu
được trông nom chăm sóc đúng mức sức
mạnh và năng lực của ḅ sẽ ra sao.
Những người ở
hạng Neyya, v́ không biết, không cố gắng trau
giồi và phát triển Ngũ Lực bằng thiền
tập và như thế vẫn thỏa măn với những
thành quả thấp kém trong Giáo Huấn của Đức
Phật như dàna, śla (bố thí, tŕ giới) và học
hỏi kinh sách, họ giống như người làm
chủ một con ḅ usabha mà không biết cách chăm sóc và
dưỡng nuôi.
Trong đời có nhiều
loại công việc phải làm thuộc về thế
tục. Nhiều việc có thể thành tựu bằng
sức mạnh của tài sản, và có nhiều việc có
thể thành tựu bằng sức mạnh của sự
hiểu biết. Cho đến những canh tác nông nghiệp
cũng phải cần đến nhiều loại năng
lực để hoàn thành. Đôi khi, trước tiên phải
cần đến sức mạnh của tài sản.
Những lúc khác, phải có sức mạnh của sự
hiểu biết. Căn bản giáo hóa và học vấn
sơ khởi hợp thành sức mạnh của sự
hiểu biết.
Cùng thế ấy, trong Giáo
Huấn của Đức Phật, Ngũ Lực rất
cần thiết cho công tŕnh hành thiền Vắng Lặng,
thiền Minh Sát, và cho sự thành tựu các Thánh Đạo,
Thánh Quả và Niết Bàn. Chỉ đến khi
trước đó đă có tích tụ Ngũ Lực nầy,
mới có thể hoàn măn thực hiện công tác. Những
người không có năng lực nào trong Ngũ Lực
không thể làm khởi sanh ư muốn thực hiện
những công tŕnh to lớn nầy. ư nghĩ rằng ḿnh có
thể thành tựu những công tŕnh quan trọng như
vậy trong kiếp sống nầy không phát sanh đến
họ. Họ sống một cách hững hờ cẩu
thả và không quyết định. Nếu có người
chỉ dạy rằng công tŕnh có thể thực hiện,
họ không thích nghe. Họ không biết rằng những ư
tưởng ương ngạnh tương tợ khởi
sanh đến họ bởi v́ rơ ràng họ thiếu kém
Năng Lực tinh thần. Họ đổ lỗi cho t́nh
trạng không tích trử đủ ba-la-mật (pàrami),
hay v́ sanh ra chỉ với hai căn (dvi-hetuka), hoặc
v́ thời giờ không thuận tiện. [9]
Tuy nhiên, nếu những vị
nầy chuyên cần kiên cố trong một Niệm Xứ (satipatthàna)
như niệm Hơi Thở (ànàpàna sati), và do đó
vững chắc thiết lập ba Năng Lực Tín,
Tấn và Niệm, những tư tưởng ương
ngạnh kia chắc chắn sẽ tan biến. Thế nào
cũng có những tư tưởng trong sạch mới
mẻ phát sanh, v́ người ấy đă tạo sức
mạnh cho những tư tưởng nầy.
Sức mạnh khai triển
như thế ấy. Mặc dầu không thể chứng
đắc tuệ minh sát và thấu hiểu bản chất
thật sự của Sắc (Thân) và Danh (Tâm), Đức Tin c̣n
yếu ớt của người ấy tăng
trưởng qua pháp hành kiểm soát Tham ái (tanhà) ham
muốn dục lạc (paccayàmisa) và những thành
tựu trần tục (lokàmisa). Tinh Tấn yếu
ớt được tăng trưởng nhờ kiểm
soát Lười Biếng. Niệm yếu ớt
được tăng trưởng nhờ kiểm soát
Thất Niệm (tâm bất tại). Định và Tuệ
cũng tăng trưởng thêm sức mạnh nhờ
kiểm soát Phóng Dật và Si Mê. Khi những Năng Lực
ấy tăng trưởng lớn mạnh, chắc
chắn sẽ có sự đổi thay trong tâm hành giả.
Một người đang lâm
trọng bịnh ắt không quan tâm đến những
sự việc và những sinh hoạt tầm thường
của thế gian. Nhưng sau khi nhờ thầy giỏi
thuốc hay và phương pháp trị liệu thích nghi,
cơn bịnh nặng dần dần thuyên giảm,
người ấy vượt ra khỏi t́nh trạng lănh
đạm thờ ơ, và chắc chắn sẽ quan tâm
trở lại đến những sinh hoạt b́nh
thường. Nơi đây năm năng lực bất
thiện, tức tham ái, lười biếng v.v... giống
như cơn trọng bịnh. Công tŕnh thực hành Tứ
Niệm Xứ (satipatthàna) như pháp Niệm Hơi
Thở, cũng giống thầy giỏi thuốc hay và
phương pháp trị liệu thích nghi. Phần c̣n lại
của thí dụ có thể được hiểu biết
dễ dàng.
Do đó, Đức Phật dạy:
"vị ấy khai triển Tín Lực, Tấn Lực,
Niệm Lực, Định Lực và Tuệ Lực". (saddhàbalam
bhàveti .,.).
Trong thế gian nầy, sức
mạnh của người thợ nề nhờ xử
dụng những dụng cụ tốt như giùi,
đục, búa, dao, cưa v.v... Chỉ khi nào
được trang bị dụng cụ thích nghi người
ấy mới hoàn thành tốt đẹp công việc làm.
Cùng thế ấy, trong Giáo Huấn của Đức Phật,
những dụng cụ của công tŕnh hành thiền Vắng
Lặng và Minh Sát (samatha và vipassanà) nhằm thành
tựu Đạo Tuệ và Quả Tuệ (magga và phala-nàna)
của bậc Thánh Nhân bao gồm công phu khai triển Tín
Lực, Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực và
Tuệ Lực (bhàvanà-saddhà v.v...) qua pháp hành Trau
Giồi Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna) như
Niệm Hơi Thở. Ngũ Lực nầy là sức
mạnh của người hành thiền (yogàvacara). Do
đó Ngũ Lực phải được trau giồi và
phát triển nhằm viên măn hoàn thành pháp hành thiền
Vắng Lặng và thiền Minh Sát trong Giáo Huấn của
Đức Phật (Buddha Sàsana). Đó là ư nghĩa của danh
từ bhàveti (vị ấy trau giồi ...) trong
đoạn kinh được trích dẫn ở phần
trên.
Ghi chú:
[1] Xem sách Paramattha D́pani, do Ngài Ledi Sayadaw.
[2] Xem Bản Chú Giải bộ Anguttara Nikàya
(Tăng Nhứt A-Hàm), Ekaka-nipata.
[3] Anguttara-Nikàya, Tăng Nhứt A-Hàm. Catukka
Nipata, Những Con Số Bốn, bài kinh Ariyavamsa-Sutta,
do Tỳ Khưu Khantipalo dịch trong quyển "With Robes
and Bowl" (The Wheel số 83/84), trang 70.
[4] Trong ư nghĩa là tín nhiệm nơi những giá
trị cổ truyền của cuộc sống giản
dị và sự phát triển tâm linh được diễn
đạt trong một công thức tổng quát, có thể áp
dụng vào đời sống của hàng cư sĩ
tại gia -- Chủ Biên.
[5] Ba loại lạc thú trần tục ấy là
vui thú thỏa thích trong vật thực, trong y phục và
trong chỗ ở, như được kể ở
phần trên.
[6] Ba Tham ái là: ḷng tham luyến ái dục lạc,
ḷng tham luyến ái kiếp sinh tồn, và ḷng tham luyến ái
sự không-sinh-tồn (tuyệt diệt).
[7] Trong trường hợp người cư
sĩ tại gia, những nguyên tắc được
nhấn mạnh trong bốn "Pháp Thực Hành Cổ
Truyền" phải được áp dụng càng
chặt chẽ càng tốt. Những nguyên tắc nầy có
thể được tóm lược trong câu nói thông
thường "sống giản dị và suy gẫm thanh
cao (hành thiền)". -- Chủ Biên
[8] Xem Chương II.
[9] Vài người tin tưởng rằng có
những khoảng thời gian mà không ai có thể chứng
đắc Thánh Đạo hay Thánh Quả, và như thế có
chiều hướng triển hoăn tinh tấn, chờ cho
đến khi ba-la-mật (pàrami) đủ chín mùi. Vài
người tin rằng trong thời hiện đại
người ta chỉ được sanh ra với hai
căn (dvi-hetuka, tức hai căn Không-Tham và Không-Sân) và
như thế, v́ thiếu căn Không-Si, nên không thể
chứng đắc Thánh Đạo và Thánh Quả trong kiếp
hiện tại.
Chương VIII
Bát chánh đạo
(Magganga)
Bát
Chánh Đạo (Tám Yếu Tố của Con Đường) là:
1.
Chánh Kiến (sammà-ditthi) |
Tuệ |
3.Chánh Ngữ (sammà-vàcà) |
Giới |
6.Chánh Tinh Tấn
(sammà-vàyàma) |
Định |
Tất cả tám Yếu Tố của Con
Đường đều có mặt trong Tri Kiến Tịnh (lokuttara
-nànadassana -visuddhi). Trong những giai đoạn Thanh
Tịnh trước, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh
Mạng chỉ hiện diện trong Giới Tịnh (śla-visuddhi),
không có mặt trong Tâm Tịnh (citta-visuddhi) và các Thanh
Tịnh c̣n lại.
V́ lẽ ấy, trong phạm vi các Phẩm Trợ
Đạo (bodhi-pakkhiya-dhamma), Giới Tịnh (śla-visuddhi)
có bản chất "tùy thuộc nơi không luyến
ái" (viveka-nissita), v.v... đúng theo lời dạy sau
đây (Magganga Vibhanga):
"Vị ấy phát triển Chánh Ngữ tùy
thuộc nơi đặc tính không luyến ái, tùy thuộc
nơi trạng thái không tham, tùy thuộc nơi trạng thái
chấm dứt, tiến đến tột đỉnh là
buông xả. Vị ấy phát triển Chánh Nghiệp ... Chánh
Mạng tùy thuộc nơi đặc tính không luyến ái
..."
Đoạn kinh nầy không đề cập
đến Giới (śla), vốn có chiều
hướng thiên về những h́nh thức lạc thú
của kiếp sinh tồn (bhava-sampatti) và tùy thuộc
nơi ṿng quanh những kiếp tái sanh (vatta-nissita).
Giới Tịnh (śla-visuddhi) của những vị
cố t́nh không nỗ lực thành đạt những Thánh
Đạo và Thánh Quả trong kiếp sống nầy không
phải thật sự là àdibrahma-cariyaka-śla,
"giới đức nằm trong bản chất chánh
yếu của đời sống Thánh Thiện", và
như thế không thật sự là hạng bodhipakkhiya,
trợ đạo. Tuy nhiên nếu có sự cố gắng
theo chiều hướng nhằm thành tựu Niết Bàn
trong kiếp sống tới, th́ đó có thể là pàraḿ-śla,
Giới Ba-La-Mật, một thành phần của vivatta-nissita
śla, "Giới đức có chiều hướng
chấm dứt ṿng quanh những kiếp sống."
Những chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh
Mạng của Bát Chánh Đạo thuần túy nằm trong nhóm Giới
(śla-khandhà), và do đó thật sự là trạng thái
Toàn Hảo của Giới Đức. Những yếu tố
ấy cũng được gọi là ba virati-cetasikà,
ba tâm sở tiết chế (thân và khẩu).
Chánh Tư Duy (sammà-sankappa) là tâm sở
"suy tư" hay "tư tưởng khái
niệm" (vitakka cetasika). V́ đây là dấu hiệu
báo tin cho biết trước có Trí Tuệ, hay là
người dẫn đầu Trí Tuệ, nên nằm trong
nhóm Tuệ (pannàkkhandha) của Bát Chánh Đạo. Chánh
Tư Duy có ba là: những tư tưởng từ
khước, những tư tưởng không sân hận, và
những tư tưởng không hung bạo (nekkhamma
-sankappa, abyàpàda-sankappa, và avihimsà-sankappa). Cũng
giống như người kia bị cầm tù, hay bị
quân thù đốt rừng bao vây, hoặc giống như cá
nằm trong lưới, trong thùng, hay trong rọ, như chim
trong lồng, (không thể ăn ngủ), ngày đêm lúc nào
cũng chỉ ôm ấp dưỡng nuôi những ư nghĩ
t́m cách thoát thân ra khỏi những nơi hiểm nguy
ấy. Cũng như vậy, những người tận
lực vận dụng tinh tấn loại Chánh Cần (sammappadhàna)
để vượt thoát ra khỏi vô số những
"nghiệp bất thiện xưa cũ đă phát sanh
trong quá khứ" (uppanna-akusala kamma) và vô số
những "nghiệp bất thiện mới chưa phát
sanh" (anuppanna akusala kamma) chắc chắn phải
trổ sanh trong tương lai. Suy tư của
người lâm vào những hoàn cảnh tương tợ
là "Tư Tưởng Khước Từ" của Bát
Chánh Đạo (nekkhamma sankappa magganga). Đây là loại Tư
Duy (sankappa) t́m cách để thoát ra khỏi những
khổ đau của ṿng quanh những kiếp sống (vatta-dukkha).
Tư Duy liên hợp với trạng thái chuyên chú
vào tâm Từ (Mettà Jhàna) được gọi là abyàpàda
-sankappa, "vô sân tư duy", ư nghĩ không bao gồm
ḷng sân hận; nếu liên hợp với trạng thái chuyên
chú vào tâm Bi (Karunà Jhàna) th́ được gọi là avihimsà-sankappa,
"vô bạo tư duy", ư nghĩ không bao gồm ḷng tàn
ác hung bạo. Tư Duy liên hợp với những loại
tâm chuyên chú (Jhàna) c̣n lại được gọi là
"từ khước tư duy", những ư nghĩ
từ khước (nekkhammà sankappa).
Bốn Chi của Con Đường: Chánh Kiến,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định đă có
được đề cập đến trong
Chương VII, thảo luận về Thất Giác Chi.
Ajivatthamaka-śla, [1] được hành tŕ với mục đích
loại trừ "vương quốc tà kiến"
rộng lớn nằm trong luồng nghiệp (ditthi
anusaya), thuộc về nhóm Giới tại thế
của Bát Chánh Đạo (lokiya ślakkhandha magganga). Đó
cũng là giai đoạn Giới Tịnh (śla-visuddhi).
Tám phần của "Giới chấm dứt
bằng Chánh Mạng" nầy (àj́vatthamaka-śla) chia
làm hai loại: một cho hàng cư sĩ tại gia và
một cho các bậc xuất gia. Ba loại tiết chế
liên quan đến thân bất thiện nghiệp (kàya-duccarita)
và bốn liên quan đến khẩu bất thiện
nghiệp (vać-duccarita) nằm trong Giới của
người tại gia. Bát Giới và Thập Giới [2] là
phần tinh vi của những giới trên.
Đối với hàng xuất gia, Giới gồm 227
giới luật (Vinaya), liên quan đến thân
nghiệp và khẩu nghiệp. Những giới c̣n lại
được ghi chép trong Tạng Luật (Vinaya Pitaka)
là phần tinh vi của những giới trên.
Như cây trưởng thành trong đất, sáu
giai đoạn Thanh Tịnh sau cùng khởi đầu
với Tâm Tịnh phát triển trên vùng đất
đầu tiên là Giới Tịnh (śla-visuddhi) [3].
Điểm đặc biệt là Giới Tịnh không pha
lẩn với, mà củng cố vững chắc, năm
giai đoạn Thanh Tịnh (tại thế) ở
khoảng giữa. Trong trường hợp của giai
đoạn Thanh Tịnh thứ bảy, Tri Kiến Tịnh
siêu thế, Giới Tịnh sinh hoạt chung trong đó
bởi v́ nó là một, y hệt với ba thành phần
của Giới (ślakkhandha) siêu thế trong Bát Chánh
Đạo. Lư do là v́, trong trường hợp Giới
Tịnh, đối tượng của sự chú tâm khác
biệt với đối tượng của năm giai
đoạn Thanh Tịnh ở khoảng giữa; nhưng
cùng có một đối tượng và cùng sinh hoạt chung
(saha-jàta) với Thanh Tịnh siêu thế.
Đến đây chấm dứt phần giải
thích phân hạng Śla (nhóm Giới) của Bát Chánh
Đạo.
Về nhóm Định (samàdhi) của Bát Chánh
Đạo, có hai diễn tiến khác nhau. Trước tiên, là
phương cách của vị hành giả thực hành Minh
Sát thuần túy (suddha-vipassanà-yànika). Sau khi viên măn hoàn
tất Giới Tịnh và kiên cố vững chắc trong
pháp Niệm Thân, vị ấy không theo con đường
thiền Vắng Lặng (samatha) mà bước ngay vào
con đường Minh Sát thuần túy như Kiến
Tịnh, Đoạn Nghi Tịnh v.v.... Thứ nh́, là con
đường của vị hành giả thực hành
cả hai, thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát (samatha-vipassanà-yànika).
Vị ấy bắt đầu hành thiền Vắng
Lặng cho đến lúc chứng đắc các tầng
Thiền (Jhàna) như Sơ Thiền, Nhị Thiền
v.v... rồi mới khởi công hành Minh Sát, xuyên qua những
giai đoạn Kiến Tịnh, Đoạn Nghi Tịnh v.v...
Trong hai đường lối thực hành,
1. Theo pháp hành Minh Sát Thuần Túy, ba Yếu Tố
của nhóm Định trong Bát Chánh Đạo (samàdhikkhandha)
làm nhiệm vụ gom tâm Vắng Lặng và thanh lọc tâm (citta-visuddhi,
Tâm Tịnh) xuyên qua ba loại Định có tên là Định Hư
Không, Định Vô Điều Kiện và Định Không Tham.
2. Trong pháp hành thiền Vắng Lặng rồi sau
đó mới Minh Sát, ba Yếu Tố của nhóm Định thi
hành nhiệm vụ gom tâm Vắng Lặng và thanh lọc tâm
(citta-visuddhi, Tâm Tịnh), xuyên qua ba giai đoạn:
sơ khởi, hay giai đoạn chuẩn bị, cũng
gọi là Tạm Định (parikamma samàdhi), Cận
Định (upacàra-samàdhi); và sau đó, vào giai đoạn
Minh Sát, hai nhiệm vụ trên do tâm Định Hư Không v.v...
đảm trách.
Tuy nhiên, trong thời gian thực hành hai pháp
Giới Tịnh và Niệm Thân, ba Yếu Tố của nhóm
Định trong Bát Chánh Đạo thi hành nhiệm vụ Tạm
Định (khanika-samàdhi).
Đến đây chấm dứt phần giải
thích Nhóm Định
Hai yếu tố của nhóm Tuệ hoàn thành
nhiệm vụ Trí Tuệ của hai lối thực hành --
Minh Sát Thuần Túy và Minh Sát sau khi làm xong phần Vắng
Lặng -- sau khi đă vững chắc củng cố trong
giai đoạn Giới Tịnh và Niệm Thân. Điều
nầy đúng cho cả hai, những Yếu Tố tại
thế và những Yếu Tố siêu thế của Bát Chánh
Đạo.
Nhập Lưu (sotàpatti)
Giờ đây Sư (Ngài Ledi Sayadaw) sẽ
đề cập đến Đạo của tầng
Nhập Lưu, hay Tu-Đà-Huờn Đạo (sotàpatti-magga), trong Bát
Chánh Đạo. Nên nhớ rằng sách nầy chỉ nhắm
đến mức thấp nhất của các tầng Thánh,
tức "Bon-sin-san" sukkhavipassaka sotàpanna [4].
Hiện nay có vô số những chúng sanh như Bà Visàkhà,
Trưởng Giả Anàthapindika, Vua Trời Đế Thích,
Tứ Đại Thiên Vương (càtumahàràjika-deva) v.v...
đang vẫn c̣n tiếp tục hưởng thụ
hạnh phúc và tiện nghi trong ṿng quanh những kiếp
sống ở những cảnh Trời. Các Ngài là những
chúng sanh c̣n trước mặt nhiều lắm là bảy
kiếp sống trong Dục Giới (gồm những
cảnh trời thấp nhất trong Dục Giới) và
một kiếp sống trong sáu cảnh Trời Phạm
Thiên tương ứng với Tứ Thiền, hoặc
cảnh Quảng Quả Thiên (Vehapphala Brahma, cảnh
giới của chư vị Phạm Thiên hưởng
Quả rộng lớn). Số lượng những
kiếp sống trong những cảnh Trời tương
ứng với Sơ Thiền, Nhị Thiền và Tam
Thiền không nhất định.
Tại sao gọi các Ngài là bậc Nhập Lưu
(sotapanna)? Nước của năm con sông lớn và
năm trăm ḍng sông nhỏ bắt nguồn từ dảy
núi Hi Mă Lạp Sơn (Himalaya) không bao giờ chảy
ngược trở lên nguồn, mà lúc nào cũng xuôi ḍng
chảy xuống, ra tận biển cả. Do đó ta
gọi là sota (ḍng nước chảy, hay triều
lưu). Cùng thế ấy, các bậc Thánh Nhân (ariya)
không bao giờ rơi trở xuống trạng thái Phàm
Tục (puthujjana) mà luôn luôn tiến triển (vẫn
trong trạng thái Thánh Nhân, ariya) cho đến khi thành
tựu Vô Dư Niết Bàn (Anupàdisesa-Nibbàna).
Trong trường hợp người phàm (puthujjana),
mặc dầu đă tiến đạt đến
những cảnh trời cao, nhưng vẫn không có ǵ
bảo đảm sẽ không c̣n sa đọa vào
địa ngục a-tỳ (av́ci), cảnh giới
thấp nhất. Nhưng với vị Thánh Nhân (ariya)
th́ khác. Bất luận tái sanh vào hoàn cảnh nào, các Ngài không
bao giờ có thể rơi vào bốn khổ cảnh, mà luôn
luôn có chiều hướng tái sanh vào những cảnh
giới cao hơn cảnh giới hiện tại.
Người phàm tục (puthujjana), mặc dầu
đă có thể được tái sanh trong Sắc Giới (rùpa
loka) và Vô Sắc Giới (arùpa-loka) với ba căn
thiện (tihetuka brahma) [5], vẫn có thể tái sanh
trở lại vào một trong bốn khổ cảnh (duggati),
như chó như heo, làm những tạo vật
được sanh ra không có căn thiện (ahetuka) [6]
nào.
Dầu cảnh giới hoặc hoàn cảnh sinh
sống nào sẽ tái sanh vào, vị Thánh Nhân (ariya) không
bao giờ thối hóa, mà luôn luôn ngày càng tiến lên cao
hơn, cơi nầy cao hơn cơi truớc, hoàn cảnh nầy
nhiều hạnh phúc hơn hoàn cảnh truớc. Chí
đến khi tiến đến mức tột
đỉnh, hoàn toàn chấm dứt Ngũ Uẩn và
nhập Vô Dư Niết Bàn (Anupàdisesa-Nibbàna). Diễn
tiến thẳng lên của con đường mà các Ngài
trải qua được gọi là dhamma-sota, "Ḍng
suối Giáo Pháp". Con đường ấy bao gồm
Ḍng Suối Chánh Kiến (sammà-ditthi-sota), Ḍng Suối
Chánh Tư Duy (sammà sankappa-sota) v.v... đến Ḍng
Suối Chánh Định (sammà-samàdhi-sota).
"Ḍng Suối Chánh Kiến" có nghĩa là
trạng thái vững chắc thiết lập phạm vi
Chánh Kiến (sammà ditthi) rộng lớn, nơi ấy
ánh sáng của Tứ Diệu Đế sáng ngời tỏ
rạng. Phạm vi Chánh Kiến rộng lớn nầy
được thiết lập bằng cách thay thế
tầng lớp anusaya vĩ đại, khuynh
hướng tâm tánh ngủ ngầm của Thân Kiến (sakkàya-ditthi),
to lớn bao la.
Hiện trạng nầy cũng giống như
khi đêm tối chấm dứt th́ ánh sáng mặt trời
loé lên, màn đêm rũ xuống th́ ánh sáng ban ngày
được thiết lập. Cùng thế ấy
vương quốc ánh sáng của Chánh Kiến
được củng cố thiết lập xuyên qua
nhiều kiếp sống, nhiều chu kỳ thế gian, cho
đến khi thành tựu Anupàdisesa-Nibbàna, Vô Dư
Niết Bàn. ánh sáng nầy tăng trưởng dần,
mỗi kiếp sống càng trở nên tỏ rạng và kiên
cố hơn kiếp trước, kiếp nầy sang
kiếp khác. Nó cũng giống như người kia sanh ra
bị bịnh vây cá bao mù cả hai mắt, nhưng rồi
được gặp thầy giỏi, thuốc tốt,
được chữa trị đúng mức, nên phục
hồi nhăn lực. Từ lúc bịnh vây cá chấm dứt,
người ấy có thể nh́n thấy núi non, trời
đất, trăng, sao v.v... và mắt sẽ sáng như
vậy suốt đời. Cùng thế ấy, bậc Thánh
Nhập Lưu (sotàpanna ariya) thành tựu tri kiến
về ba đặc tướng (ti-lakkhana) của
kiếp sinh tồn và về Bốn Chân Lư Thâm Diệu
(Tứ Thánh Đế). Tri kiến ấy sẽ không mất. Đó
là ư nghĩa đoạn "Chi Đạo 'Chánh Kiến'
của Bát Chánh Đạo được thiết lập kiên
cố". Kinh điển dạy [7]:
Sammà-ditthassa
sammà-sankappo pahoti. [8]
"Nơi người có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy
tiến triển".
Theo lời giải thích trên, nếu Chánh Kiến
được kiên cố thiết lập th́ Chánh Tư Duy
-- bao gồm ư định và phương cách thực hành
nhằm thoát ra khỏi (nekkhamma) những hoàn cảnh
bất hạnh của đời sống và nhằm
bảo vệ người khác khỏi bị hành hung và
đau khổ -- trở thành ngày càng vững chắc và lớn
mạnh, kiếp nầy tiến triển nhiều hơn
kiếp trước, cho đến khi thành đạt
mục tiêu cuối cùng. Điều nầy cho thấy
phương cách mà Chánh Tư Duy được kiên cố
thiết lập.
Sammà-sankappassa
sammà vàcà pahoti.
Nếu ư định và
phương cách thực hành được kiên cố
thiết lập nhằm thoát ra khỏi những hoàn
cảnh bất hạnh của đời sống và
nhằm thấy người khác không bị hành hung và
đau khổ, Chánh Ngữ, những lời nói chân chánh, không
bị bốn khẩu nghiệp (vać-ducarrita) làm hoen
ố và sẽ trở thành ngày càng vững chắc. Đó là
phương cách mà Chánh Ngữ được kiên cố
thiết lập.
Sammà-vàcassa
sammà-kammanto pahoti.
Nếu Chánh Ngữ
được củng cố vững chắc, khẩu
nghiệp sẽ được trong sạch, ba loại thân
bất thiện nghiệp (kàya-duccarita) đă bị
loại trừ và Chánh Nghiệp tiến triển dần. Đó
là phương cách củng cố Chánh Nghiệp.
Sammà-kammantassa sammà-àj́vo pahoti.
Khi quan kiến, ư định,
lời nói và hành động trở nên trong sạch,
những h́nh thức sinh sống cũng trong sạch và ta
không bao giờ có thể hấp thụ lối sinh sống
thấp hèn ô nhiễm. Đó là phương cách mà Chánh Mạng
được củng cố.
Sammà-àj́vassa sammà-vàyàmo pahoti.
Khi quan kiến, ư định,
lời nói, hành động và lối sinh sống trở
thành trong sạch, ắt có loại chí lực và cố
gắng không bao giờ chấp nhận lối sinh sống
bất thiện, sai quấy lầm lạc. Đó là
phương cách mà Chánh Tinh Tấn được củng
cố thiết lập.
Sammà-vàyàmassa sammà-sati pahoti.
Cùng thế ấy, Chánh Niệm
vốn bắt nguồn từ trong những nỗ lực
trong sạch thực hành Giới, Định và Tuệ, trở
thành ngày càng củng cố vững chắc hơn, từ
kiếp nầy sang kiếp khác. Đó là phương cách mà Chánh
Niệm được kiên cố thiết lập.
Sammà-satissa sammà-samàdhi pahoti.
Cùng thế ấy, Chánh Định
vốn bắt nguồn từ trạng thái chăm chú
giữ chánh niệm trong khi thực hành Giới, Định,
Tuệ, cũng trở thành vững vàng kiên cố bền
lâu, và do đó phát triển nhiều khả năng kiểm
soát tâm. Đó là phương cách mà Chánh Định được
kiên cố thiết lập.
Trên đây là phương cách mà tám
Yếu Tố của Con Đường -- tức tám chi
của Bát Chánh Đạo (magganga), được gọi
là dhamma sota, Ḍng Suối Giáo Pháp -- kiên cố thiết
lập và tiến triển dần xuyên qua nhiều kiếp
sống và nhiều chu kỳ thế gian từ lúc thành
tựu giai đoạn Nhập Lưu (sotàpanna) cho
đến khi cuối cùng nhập Vô Dư Niết Bàn (Anupàdisesa-Nibbàna).
Mặc dầu từ khi vững
vàng Niệm Thân có những tiến bộ như đă nói
ở phần trên, nhưng hành giả vẫn chưa thành
đạt trạng thái ổn Định (niyàma,
đều đặn vững bền tiến triển) nên
vị ấy chưa đến mức trở thành bậc
Thánh Nhân (ariya). Chính "Đạo" (magga) của
bậc Nhập Lưu (sotàpatti magga, Nhập Lưu
Đạo) là khởi điểm của Ḍng Suối của
bậc Thánh (ariya-sota). Một khi tiến đến
mức Nhập Lưu Đạo th́ vị hành giả đă
bước vào phạm vi của chư vị Thánh Nhân.
Do đó có lời dạy:
Sotam àdito pajjimsu
pàpunimsù'ti sotàpannà.
"Vị ấy được gọi là Nhập Lưu
v́ lần đầu tiên bước vào, hay tiến
đến mức, Ḍng Suối của bậc Thánh Nhân."
Đến đây chấm dứt phần giải
đáp câu hỏi, "Tại sao các vị ấy
được gọi là Sotàpanna, Nhập Lưu?"
Vừa lúc tiến đến giai đoạn
trở thành Thánh Nhân vị hành giả đă vượt lên
khỏi trạng thái Phàm Nhân (puthujjana), không c̣n là
"chúng sanh trong thế gian" mà đă trở thành Siêu
Thế (lokuttara). Các Ngài không c̣n phải chịu
những khổ đau của ṿng quanh những kiếp
sống (vatta dukkha) v́ đă chứng ngộ Niết
Bàn. Từ lúc thành đạt Đạo Quả Nhập Lưu,
và xuyên qua nhiều kiếp sống c̣n lại trước
mặt, các Ngài không bao giờ rơi ngược trở
xuống. Các Ngài không thể c̣n trở lui về tầng
lớp khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm (anusaya)
của Thân Kiến (sakàya-ditthi), có nghĩa là các Ngài
không thể trở lại trạng thái Phàm Nhân (puthujjana).
Các Ngài vững chắc củng cố tầng Thánh
đầu tiên của Hữu Dư Niết Bàn (Sa-upàdisesa-Nibbàna),
tức Niết Bàn được chứng ngộ trong
kiếp sống hiện tại và, trong những kiếp
sống c̣n lại, sẽ hưởng nhiều hạnh phúc
ở cảnh người, cảnh trời hoặc
cảnh Phạm Thiên.
"Tám Chi của Con Đường" nầy
đồng khởi sanh cùng lúc đến vị Thánh Nhân,
ngay vào khoảnh khắc chứng đắc Đạo (magga)
và Quả (phala) siêu thế. Đối với hạng phàm
nhân, nghiệp thiện tại thế (lokiya-kusala-kamma),
tức ba thành phần của nhóm Giới chỉ phát sanh
liên hợp với nghiệp thiện của giới (śla-kusala-kamma).
Nhưng ba thành phần của nhóm Định (Samàdhi) và
hai thành phần của nhóm Tuệ (Pannà) phát sanh liên
hợp với nhiều loại thiện nghiệp (kusala-kamma).
Mặc dầu ba Chi Đạo của nhóm Giới
chỉ liên hợp với nghiệp thiện của
giới (śla-kusala-kamma), nó vững chắc củng
cố nơi các vị Thánh như avitikkama,
"không-thể-vi-phạm" trong suốt những
kiếp sống c̣n lại.
Đến đây chấm dứt phần giải
thích về Bát Chánh Đạo.[9]
Ghi chú:
[1] Xem chú thích, Phần Nhập Đề.
[2] Xem chú thích, Phần Nhập Đề.
[3] Bảy giai đoạn của Thanh Tịnh
Đạo là: Giới Tịnh, Tâm Tịnh, Kiến Tịnh,
Đoạn Nghi Tịnh, Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh,
Đạo Tri Kiến Tịnh và Tri Kiến Tịnh.
[4] Xem chú thích, Chương III.
[5] Danh từ tihetuka hàm ư là thức tái sanh có
đủ tất cả ba căn tạo duyên thiện (hetu),
tức Không-Tham, Không-Sân, và Không-Si.
[6] Ahetuka hàm ư là thức tái sanh không có căn
nào trong ba căn thiện.
[7] Magga Samyutta, Tạp A-Hàm Đạo, Vagga,
phẩm, 1. Sutta, bài kinh 1.
[8] Theo Bản Chú Giải, danh từ pahoti có
nghĩa vaddhati, lớn mạnh lên, tăng trưởng.
[9] Có 14 tâm sở "tịnh hảo" (sobhana
cetasika) được bao gồm trong 37 Phẩm Trợ
Đạo (Bodhipakkhiya-dhamma) là: 1. ḷng nhiệt thành (chanda,
dục, nóng ḷng muốn làm), 2. thức (citta), 3. tâm
buông xả (tatramajjhattatà = upekkhà), 4. đức
tin (saddhà), 5. trạng thái an khinh (passaddhi), 6. trí
tuệ (pannà), 7. tư duy (vitakka = sankappa), 8. tinh
tấn (v́riya), 9. chánh ngữ (sammà-vàcà), 10. chánh
nghiệp (sammà-kammanta), 11. chánh mạng (sammà-àj́va),
12. niệm (sati), 13. phỉ (ṕti), 14. nhứt
điểm tâm (ekaggatà = samàdhi).
Chương
IX
Thực hành các phẩm trợ
đạo như thế nào?
Những chúng sanh đă gặp Giáo
Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana)
trước tiên phải kiên cố vững chắc trong
Giới Tịnh (śla-visuddhi) và sau đó tận lực
cố gắng thành tựu các Phẩm Trợ Đạo (Bodhipakkhiya-dhamma,
những yếu tố của sự Giác Ngộ), nhằm
bước vào Ḍng Suối của các bậc Thánh Nhân (ariya
sota).
Giờ đây Sư vắn
tắt mô tả phương pháp thực hành các Phẩm
Trợ Đạo nầy.
Thực hành các Phẩm Trợ
Đạo (Bodhipakkhiya- Dhammà) là thực hành bảy Giai Đoạn
Thanh Lọc Tâm (satta visuddhi, Thanh Tịnh Đạo).
Riêng giai đoạn Tâm Tịnh (citta-visuddhi)
chỉ cần thiết cho người hành thiền
Vắng Lặng (samatha) [1].
Giai đoạn "Đạo Phi
Đạo Tri Kiến Tịnh" (maggà-magga-nànadassana-visuddhi)
chỉ cần thiết cho những vị có nhiều ngă
mạn (adhimànika) [2], nghĩ rằng ḿnh đă
chứng đắc những Thánh Đạo và Thánh Quả
nhưng trong thực tế chưa đắc.
Những giai đoạn Giới
Tịnh, Tâm Tịnh, Đoạn Nghi Tịnh, Đạo Tri
Kiến Tịnh và giai đoạn siêu thế Tri Kiến
Tịnh -- áp dụng cho nhiều hạng hành giả khác
nhau.
Trong năm giai đoạn Thanh
Lọc nầy, giai đoạn Giới Tịnh đă có
được giải thích trong Chương VIII, khi
đề cập đến nhóm Giới trong Bát Chánh
Đạo. Giới Tịnh là trong sạch hành tŕ "tám
giới chấm dứt bằng Chánh Mạng như giới
thứ tám", àjivatthamaka-śla [3].
Tâm Tịnh (citta-visuddhi) có
thể được thực hành qua pháp Niệm Thân (kàyagatàsati).
Trong pháp hành nầy vài vị Niệm Hơi Thở (ànàpana-sati);
và thông thường, có thể nói rằng nếu chăm chú
gom tâm vào hơi-thở-ra thở-vào bất luận lúc nào và
trong bất luận oai nghi nào, hành giả có thể củng
cố pháp Niệm Thân. Vài vị thực hành pháp Niệm
Thân xuyên qua bốn oai nghi đi, đứng, ngồi,
nằm (iriyàtha) đúng theo kinh điển (Satipatthàna Sutta,
Kinh Tứ Niệm Xứ): "Khi đi, hành giả hay
biết 'Tôi đang đi' v.v..." Những vị khác hành
pháp "Giác Tỉnh Chú Niệm" (sati-sampajanna)
những tác động của thân (Xem Satipatthàna Sutta)
; vài vị khác nữa gom tâm vào 32 phần trong thân. Năm
phần đầu là tóc, lông, móng, răng, da và pháp hành
nầy được gọi là taca-pancaka, "nhóm năm
phần da". Pháp Niệm Thân (kàyatàsati) sẽ
được kiên cố thiết lập nếu hành
giả có thể gom tâm vững chắc an trụ vào
những phần ấy như ư muốn. Cũng có thể
gom tâm hướng vào xương trong thân. Pháp Niệm Thân
cũng có thể vững chắc nếu hành giả gom tâm
an trụ vào xương sọ. Từ lúc đầu,
nếu tiến tŕnh danh và sắc (nàma-rùpa) dính liền
với thân (tức những cơ năng hay sinh hoạt
của danh và sắc và tâm chú niệm vào đó của hành
giả) có thể được rơ ràng phân tách và biện giải,
và nếu tâm niệm chuyên chú bền vững không lay
động, pháp Niệm Thân ắt được vững
chắc thiết lập. Trên đây là phương pháp
Niệm Thân, được mô tả một cách ngắn
gọn và rơ ràng.
Công tŕnh Thanh Lọc Chánh Kiến (ditthi-visuddhi,
kiến tịnh) có thể được xem là đă hoàn
măn thành tựu nếu hành giả có thể phân tách và
nhận thức rơ sáu nguyên tố (xem chú thích, chương
III). Công tŕnh "Đoạn Nghi Tịnh" (Kankhàvitarana-visuddhi)
được xem là đă viên măn thành tựu nếu hành
giả nhận ra rơ ràng những nguyên nhân của sáu nguyên
tố được đề cập ở phần trên.
Phải nhận thức rơ ràng rằng những nguyên nhân làm
khởi sanh sáu nguyên tố đất, nước, lửa,
gió và không gian (pathavi, àpo, tejo, vàyo và akàsa) là nghiệp (kamma),
thức (citta), thời tiết (utu), và thức
ăn (àhàra) [4] và nguyên nhân làm khởi sanh sáu loại
thức (citta: nhăn thức, v.v... là những cảnh
đối tượng tương ứng.
"Đạo Tri Kiến
Tịnh" (patipadà-nànadassana-visuddhi) hàm ư là nhận rơ
ba đặc tướng Vô Thường, Khổ và Vô Ngă.
Nếu nhận thức rơ ràng ba đặc tướng
ấy trong sáu nguyên tố đề cập ở trên là đă
hoàn măn công tŕnh Thanh Lọc nầy.
Giai đoạn Thanh Lọc siêu thế xuyên qua công
tŕnh Tri Kiến Tịnh (lokuttara-nànadassana-visuddhi) bao
gồm sự chứng ngộ liên quan đến bốn
Thánh Đạo (như của Nhập Lưu Đạo v.v...; magga-nàna,
Đạo Tuệ)
Phần trên đây chính xác chỉ rơ năm giai
đoạn Thanh Lọc (ở khoảng giữa).
Ghi chú:
[1] Theo sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga),
trạng thái Cận Định (upacàra-samàdhi) cũng
được bao gồm trong Tâm Tịnh (citta-visuddhi).
Chính mức định tâm nầy cần thiết cho
thiền Minh Sát. (Chủ Biên)
[2] Xem danh từ adhimànika được
giải thích trong The Wheel số 61/ 62, trang 43, chú thích số
3. (Chủ Biên)
[3] Xem chú thích, Phần Nhập Đề.
[4] Xem "Manual of Insight" (Wheel 31/ 32), trang 47.
Chương X
Di sản của giáo pháp [1]
Ba mươi bảy Yếu
Tố Cần Thiết cho sự Giác Ngộ (bodhipakkhiya-dhamma,
Phẩm Trợ Đạo) nầy, được đề
cập đến trong những chương trước,
là di sản của Đức Phật. Đó là di sản của
Giáo Pháp. Đó là Pháp Bảo vô giá và quư báu không thể
lường. Giờ đây để Sư nghiên cứu xem
Di Sản của Giáo Huấn (sàsana-dàyajja) ấy là ǵ.
"Di Sản" là tài sản sự nghiệp mà cha mẹ
truyền giao lại cho những con cái xứng đáng
thọ lănh phần gia tài (dàyàda). Danh từ nầy
cũng áp dụng cho Di Sản của Giáo Huấn (sàsana-dàyada),
vốn là phần tài sản mà Đức Phật trao truyền
(Buddha-dàyajja). Về bản chất, Di Sản có hai
loại: di sản của thế gian (àmisa) và di sản
của Giáo Pháp. Phần di sản của thế gian bao
gồm bốn vật dụng cần thiết cho một
vị tỳ khưu là vật thực thọ lănh khi đi
tŕ b́nh, y phục, chỗ ở và thuốc men. Di sản
của Giáo Pháp là ba Pháp Tu Học (sikkhà: śla, samàdhi, pannà -
Giới, Định, Tuệ), bảy Giai Đoạn Thanh
Lọc (Thanh Tịnh Đạo), và ba mươi bảy
Phẩm Trợ Đạo. Di Sản của Giáo Pháp có hai
loại: loại Giáo Pháp tại thế (lokiya) và
loại Giáo Pháp siêu thế (lokuttara). Giáo Pháp tại
thế bao gồm ba pháp Tu Học trên ở tầng lớp
tại thế, sáu Thanh Tịnh tại thế và các Phẩm
Trợ Đạo, khi c̣n liên hợp với những Thanh Tịnh
tại thế. Di Sản Giáo Pháp siêu thế bao gồm ba
pháp Tu Học ở mức độ siêu thế, giai
đoạn Thanh Tịnh thứ bảy, và những Phẩm
Trợ Đạo siêu thế. Di Sản Giáo Pháp tại thế
có thể phân làm hai loại:
1. Loại di sản tùy thuộc
nơi Ṿng Quanh những Kiếp Sống (vatta-nissita),
và
2. Loại di sản có khuynh hướng chấm dứt Ṿng
Quanh những Kiếp Sống (vivatta-nissita);
hoặc có thể phân làm hai
loại:
1.Di
sản Giáo Pháp ổn định (niyata),
2.Di sản Giáo Pháp bất ổn định (aniyata).
Nếu công tŕnh thực hành ba Pháp
Tu Học (Giới v.v...) có khuynh hướng nhắm
đến những địa vị cao sang trong thế
gian, như làm Thầy của nhà vua hay làm quân sư của
một nước, hoặc nhắm đến danh
vọng, quyền thế, đến tài sản sự
nghiệp, đến kiếp sống làm người trong
một gia tộc quư phái, hoặc tái sanh vào cảnh trời
-- đó là "Di Sản Giáo Pháp tùy thuộc nơi ṿng quanh
những kiếp sống".
Ṿng quanh những kiếp sống
có ba h́nh thức: Ṿng Quanh Ô Nhiễm (kilesa-vatta), Ṿng Quanh
của Nghiệp (kamma-vatta), và Ṿng Quanh của Quả
(vipàka-vatta). Vivatta là chấm dứt ba Ṿng Quanh
những kiếp sống ấy, tức Niết Bàn. Pháp hành
Giới, Định, Tuệ có khuynh hướng chấm
dứt các Ṿng Quanh những kiếp sống ấy
được gọi là "Di Sản Giáo Pháp có chiều
hướng chấm dứt Ṿng Quanh những kiếp
Sống" (vivatta-nissita-dhammadàyajja). Về lối
phân loại "ổn định" (niyata) và
"bất ổn định" (aniyata), phạm vi
rộng lớn của "những khuynh hướng tâm
tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp" (anusaya)
vốn thiên về Thân Kiến (sakkàya-ditthi-anusaya) mà
người thế gian (puthujjana) dính mắc trong
đó cũng giống như biển lửa bao la và sâu
thẩm. Giới, Định, Tuệ mà người thế
gian thực hành có thể ví như vài giọt mưa rơi
xuống đại dương lửa đỏ ấy.
Những lời nói thường được nghe như
"Tôi trong sạch giữ giới (śla), Tôi có
giới, Tôi thực hành thiền Định (samàdhi), Tôi
hiểu biết, Tôi sáng suốt, Tôi có trí tuệ, Tôi đă
thấy Danh và Sắc" là những tuyên ngôn về
Giới, Định, Tuệ c̣n xoay vần quanh quẩn
"Thân Kiến", c̣n dính liền với cái "Ta",
và như thế tựa hồ như những giọt
mưa rơi xuống đại dương lửa đỏ
rộng lớn bao la. Cũng như nhiệt độ
của biển lửa sẽ nhanh chóng làm biến tan
những giọt mưa, cùng thế ấy, lănh vực
rộng lớn của vương quốc Thân Kiến
sẽ thu hút công tŕnh Giới, Định, Tuệ của
người thế gian (puthujjana) và nhanh chóng làm
biến tan, bởi v́ nó là "bất ổn
định" (aniyata). Mặc dầu người
thế gian có thể "có" Giới, Định, Tuệ
nhưng những cái "có" ấy vẫn tạm bợ
nhất thời, bất ổn định (tadanga).
Trong trường hợp của
những vị Thánh Nhập Lưu (sotàpanna), Giới
tại thế của các Ngài, tức "Tám Giới
chấm dứt với Chánh Mạng" (lokiya-aj́vatthamaka-śla)
[2]; Định tại thế của các Ngài vững chắc
hướng về các Hồng Ân của Tam Bảo; và
Tuệ tại thế của các Ngài, tức tuệ giác
nhận thức Tứ Diệu Đế -- tất cả
đều ở tầm mức ổn định (niyata).
Nó giống như những giọt mưa rơi xuống ao
hồ mênh mông và không bao giờ tan biến dầu phải
trải qua nhiều kiếp sống. Điều nầy cho
thấy bản chất bất ổn định của di
sản Giáo Pháp tại thế (lokiya dhamma heritage).
Trạng thái Giới, Định, Tuệ siêu thế; giai
đoạn Thanh Tịnh (visuddhi-magga) thứ bảy;
và 37 Phẩm Trợ Đạo (bodhipakkhiya dhamma) liên
hợp với tám loại tâm siêu thế, là vivattasita-nissita
(không chấm dứt) và ổn định. Trong
trường hợp các bậc Thánh Nhân, Giới, Định,
Tuệ tại thế của các Ngài cũng tiến
đạt đến mức siêu thế, trở nên
"ổn định" khi các Ngài trở thành Thánh Nhân.
Bên trong các Ngài không c̣n có thể c̣n trạng thái dusśla
(phạm giới), asamàhita (tâm không an trụ, tức
loạn động), dupannà (không sáng suốt) hay andhabàla
(si mê)... Những người thiếu Đức Tin (saddhà)
và không có ḷng nhiệt thành (chanda) không bao giờ có ư
nghĩ hay quan niệm rằng ḿnh có thể đạt thành
những tầm mức Thanh Tịnh cao thượng hơn
trong chính kiếp sống hiện tại. V́ thiếu
hạnh Tinh Tấn (viriya) họ không cố gắng
tiết chế, không sẵn ḷng chịu thiếu thốn
trong sự thỏa măn dục vọng. Họ gạt bỏ
cố gắng, xem như không thể làm. V́ ư chí suy kém, tâm
họ không thể an trụ vào những loại công tŕnh tu
tập tương tợ. Mỗi khi nghe đến
những lư thuyết hay những tư tưởng khác nhau
th́ họ nhanh chóng thay đổi ư nghĩ. V́ thiếu
hiểu biết và kém trí tuệ, họ gạt bỏ
những công tŕnh tu tập, xem như đă vượt ra
ngoài khả năng của họ. V́ lẽ ấy Đức
Phật khuyến khích tất cả mọi chúng sanh nên
tăng cường những Như ư Túc (Idhipàda,
tức nền tảng của sự thành công) c̣n yếu kém
của ḿnh như ḷng nhiệt thành (Dục Như ư Túc,
chanda) v.v... Chỉ c̣n những Tư Duy và những Dục
Như ư Túc mới mẻ phát sanh. Chỉ những vị có
một yếu tố nào trong Tứ Như ư Túc (Iddhipàda)
làm nền tảng mới có thể hưởng thọ
đầy đủ di sản của Đức Phật.
Những người khác, không có Như ư Túc nào, chỉ
được cơ hội thọ hưởng vài lợi
ích nông cạn mà không hưởng phần ṇng cốt tinh hoa
của di sản. Vài người cũng không được
cơ hội thọ hưởng phần lợi ích nông
cạn v́ đă hoang phí phần di sản của họ và
như thế họ tự tách rời ra khỏi xa di
sản của Đức Phật và của Phật Giáo. Di
sản của Giáo Huấn có thể được phân làm
hai loại:
1. những di sản ổn
định hay bền vững thường c̣n (niyata),
và
2. những di sản bất ổn định hay không
bền vững thường c̣n (aniyata).
Những người không bao
giờ hiểu biết đặc tướng vô
thường và vô ngă bên trong ḿnh được xem là
những thừa kế "bất ổn định".
Những người ấy có thể là đệ tử
hay thừa kế của Đức Phật ngày hôm nay và ngày mai
có thể là đệ tử và thừa kế của
một vị đạo sư khác. Họ có thể khinh
miệt và gây tổn hại đến Giáo Huấn của Đức
Phật. Chí đến ngày nay, trong thế gian cũng có
những người thay đổi niềm tin, từ
Phật Giáo chuyển sang tôn giáo khác. Họ khinh rẻ và
hại ngầm Giáo Huấn. Sau khi họ chết, ta có
thể tưởng tượng, họ có thể dễ
dàng thay đổi niềm tin như thế nào. Ta có thể
là đệ tử của Đức Phật trong tháng nầy
và đệ tử của một đạo sư khác trong
tháng tới. Năm nay ta có thể là đệ tử
của Đức Phật và năm tới có thể là
đệ tử của một đạo sư khác. Ta có
thể là đệ tử của Đức Phật trong
kiếp sống nầy, và trong kiếp sống tới là
đệ tử của một đạo sư khác. V́
lẽ ấy những người được gọi
là Puthujana (người thế gian, tức chưa
phải là Thánh Nhân) được gọi như vậy v́
họ ngưỡng mộ và tôn kính nhiều vị
đạo sư khác nhau. Trong quá khứ vô tận của
ṿng luân hồi (samsàra) người thế gian không bao
giờ bền bỉ giữ vững niềm tin nơi
một vị đạo sư nào mà họ chú nguyện
sẽ nương tựa vào. Cơ hội mà họ
được đến gần một vị Phật và
xin quy y, tức nương tựa nơi Ngài, quả
thật hiếm hoi. Đôi khi họ quy y với một vị
Phạm Thiên, đôi khi với trời Đế Thích ,
những khi khác với các vị trời khác nhau, lắm lúc
họ quy y với các ngôi sao, các v́ tinh tú, quỷ thần và
thiên lôi, và họ làm như thế v́ tin tưởng
rằng vị mà họ nương tựa vào có quyền
lực vô hạn, là những bậc toàn tri toàn năng. Các
vị đạo sư giả danh như thế thật
rất nhiều trên thế gian. Trong khi người thế
gian thênh thang trôi giạt tới lui quanh quẩn trong ṿng luân
hồi đầy những lúc dính mắc vào Thân Kiến,
họ c̣n tiếp tục thay đổi đạo sư.
Khủng khiếp thay, đáng ghê sợ và đáng chán
nản thay, trạng thái làm người thế gian! (puthujana,
người phàm tại thế). Mỗi khi người
thế gian thay đổi đạo sư và nơi
nương tựa ắt có sự thay đổi niềm
tin nơi giáo lư và những nguyên tắc đạo
đức lănh đạo mà họ phải phục tùng tùy
thuộc. Đôi khi người thế gian chấp nhận
giới luật trong sạch (adhiśla) của một
vị Phật, nhưng lắm lúc họ cũng thực
hành những đạo lư của nhiều vị
đạo sư khác.
Trong vấn đề quan kiến
cũng vậy, những kiếp sống mà họ chấp
nhận Chánh Kiến thật vô cùng hiếm hoi, nhưng vô
số những kiếp khác họ tùy thuộc phục tùng
theo những quan kiến sai lầm. Trong số những
lầm lạc và rối loạn nhiều không thể
kể xiết mà người thế gian phải
vướng mắc vào, hoàn cảnh t́m đến
nương tựa nơi những đạo sư giả
danh là lầm lạc và rối loạn quan trọng
nhất, v́ nó gây nhiều tổn hại cực kỳ
lớn lao. Đó là v́ sự kiện t́m nương tựa
nơi một đạo sư giả danh dẫn
đến những nguyên tắc đạo lư và thực
hành sai lầm, và do đó không tạo được cơ
hội quư giá tái sanh vào cảnh người (manussatta-dullabha),
giống như cội cây chỉ trổ sanh những trái ác
hại bất thiện, tức tạo nhân trổ quả
tái sanh vào những khổ cảnh, thay v́ giống như
cội cây hạnh phúc, trổ sanh hoa lành quả thiện,
đưa đến tái sanh vào những cảnh giới an
nhàn.
Trên đây là con đường
tương lai của di sản Giáo Huấn bất ổn
định. Nhưng những vị đă nhận thấy
bên trong ḿnh các đặc tướng vô thường (anicca)
và vô ngă (anattà), đă thoát ra khỏi lănh vực của
Thân Kiến. Các Ngài trở thành những vị thừa
kế ổn định của Giáo Huấn. "ổn
định" (niyata) nơi đây có nghĩa là trong
suốt những kiếp vị lai trong ṿng luân hồi các
Ngài không c̣n hướng về ư nghĩ t́m nương
tựa nơi vị thầy giả danh nào khác. Các Ngài
thật sự là con và thật sự là thừa kế
của Đức Phật trong suốt những kiếp
sống tương lai tiếp theo. Các Ngài là những thành
viên của gia đ́nh "Bon-sin-san".[3] Quan kiến
của các Ngài về những phẩm hạnh vô song của
Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo ngày càng sáng
tỏ và rơ ràng từ kiếp nầy đến kiếp
kế. Tất cả di sản của Giáo Pháp, tức ba
phân hạng của Con Đường (Giới, Định,
Tuệ), bảy giai đoạn Thanh Tịnh và ba mươi
bảy Phẩm Trợ Đạo sẽ phồn thịnh, phát
huy và tăng trưởng thêm trong tâm các Ngài. Các Ngài là
những vị chắc chắn sẽ tiến đến Anupàdisesa-Nibbàna,
Vô Dư Niết Bàn, hoàn toàn chấm dứt mọi ô
nhiễm và không c̣n Ngũ Uẩn.
Phần trên đây chỉ rơ con
đường thẳng tiến không sai lệch của di
sản Giáo Huấn (Sàsana) ổn định.
Có người tốt và
đạo đức mà không cố gắng trong những
kiếp quá khứ v́ họ không muốn trở thành
thừa kế của những di sản Giáo Huấn
xấu. Những vị ấy không thực hành Giới,
Định, và Tuệ v́ họ không muốn trở thành những
thừa kế tạm thời, bất ổn định.
Họ không thực hành bởi v́ họ muốn trở thành
thừa kế của di sản ổn định.
Xem xét lại những sự
kiện trên, và thận trọng suy tư rằng Đức
Phật không chấp nhận di sản Giáo Huấn xấu,
những ai hiện nay đă trở thành đệ tử của
Đức Phật phải nghiêm nhặt không tự cho phép ḿnh
trở thành những thừa kế xấu hoặc
những thừa kế bất ổn định. Ta
phải tận lực cố gắng trở thành thừa
kế của một di sản Giáo Huấn tốt
đẹp, vốn là ba mươi bảy Phẩm Trợ
Đạo. Ta phải cố gắng trở thành những
thừa kế ổn định.
Đối với những vị thiếu kém trí
tuệ, chỉ nên khuyến khích họ làm những
điều lợi ích như thực hành công tác từ thiện,
tạo phước báu. Nhưng đối với những
vị có trí tuệ, nếu muốn trở thành những
thừa kế ổn định hoặc trong kiếp
sống nầy hoặc trong kiếp kế, phải
vững chắc tự thiết lập kiên cố trong Àj́vatthamaka-śla
[4], phải vững vàng kiên cố trong pháp Niệm Thân (kàyagata
sati) và tận lực cố gắng (tối thiểu là
ba tiếng đồng hồ trong một ngày) để
chứng ngộ ba Đặc Tướng của kiếp sinh
tồn trong năm uẩn hợp thành "cá nhân".
Nếu thấy được bất luận một
đặc tướng nào trong ba đặc tướng,
vị ấy đă trở thành niyata, thừa kế ổn định
và đă tiến đến mức "Bon sin san" --
Nhập Lưu.
-Hết-
Ghi chú:
[1] Chương nầy đă được thâu
ngắn gọn (Chủ Biên BPS)
[2] Xem chú thích Phần Nhập Đề.
[3] Xem chú thích Chương III.
[4] Xem chú thích Phần Nhập Đề.
-ooOoo-