Mười Vị Đệ
Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả A NA LUẬT
(Aniruddha - Anurauddha)
(Mắt trời thấy suốt, không ǵ chướng
ngại)
1.- TUỔI
THƠ KHÔNG LO LẮNG:
Trong 16 vị A La
Hán được ghi trong kinh A Di Đà, có một vị tên
là A Nậu Lâu Đà, đó chính là tôn giả A Na Luật
vậy.
A Na Luật đă
được sinh ra trong vương tộc, vốn là em
chú bác ruột của Phật. Sau khi vua Tịnh Phạn
(Suddhodana, phụ hoàng của đức Phật) thăng
hà, người lên ngôi kế vị là đại
tướng Ma Ha Nam (Mahanama). Ông này chính là anh ruột
của tôn giả A Na Luật. (Ma Ha Nam là cháu kêu vua
Tịnh Phạn bằng bác ruột. Có thuyết cho
rằng, ông Ma Ha Nam này với t́ kheo Ma Ha Nam, một trong
năm vị đệ tử A La Hán đầu tiên của
đức Phật, là một người. Theo đó, sau khi
vua Tịnh Phạn băng, v́ xét thấy cả Nan Đà và
La Hầu La không có khả năng kế vị, nên
đức Phật đă cho phép Ma Ha Nam hoàn tục
để kế thừa trị v́ vương quốc Thích
Ca. Thuyết này có lẽ không đúng. Ma Ha Nam ở đây
với A Na Luật là hai anh em ruột. Gia đ́nh chỉ cho
phép một trong hai người đi tu, cho nên A Na Luật
đă đi tu th́ Ma Ha Nam phải ở nhàn để
quản lí việc nhà. Ông là một cư sĩ thuần
thành, thường cúng dường cơm áo và thuốc men
cho tăng chúng. T́ kheo Ma Ha Nam trong nhóm Kiều Trần
Như là một người khác, c̣n có tên là Ma Ha Nam Câu
Lị - Mahanamakoliya - Chú thích của người dịch).
Từ thuở
ấu thơ, A Na Luật đă là một cậu bé hết
sức chân thật, nhưng cũng rất thông minh, mẫn
tiệp và hoạt bát; đối với âm nhạc, ca múa
th́ lại càng tỏ rơ là có thiên tài. Lúc bảy, tám tuổi,
cậu đă từng cao giọng ca hát, cũng như
từng biểu diễn nhiều tṛ vui nho nhỏ một
cách rất tự nhiên trước mọi người; cho
nên ai cũng yêu mến cậu. Suốt ngày cậu chỉ
quanh quẩn bên cạnh các cung nữ hầu cận
hoặc các vương tử cùng trang lứa khác, hết
ăn uống lại nô đùa, nô đùa xong lại ăn
uống. Tṛ chơi thích thú nhất của cậu là đánh
cuộc ăn thua. Trong cung lúc nào cũng sẵn bánh kẹo.
Mỗi lần chơi thua ai th́ cậu lấy bánh chung cho
người đó. Có ngày cậu thua đến năm, sáu
lần, và cứ phải làm nũng để xin mẹ cho
bánh.
Một hôm, khi
cậu bị thua đến lần thứ tư, chạy
đến xin bánh mẹ th́ bà bảo: “Đă hết
rồi!”, nhưng v́ t́nh t́nh c̣n quá chơn chất,
cậu không hiểu câu “Đă hết rồi”, có ư nghĩa
ǵ, bèn chẩu mơ lên nũng nịu:”Th́ mẹ cho con cái bánh
‘đă hết rồi’ ấy đi!” Bà mẹ chỉ
biết bật cười, đưa cái đĩa
trống không cho cậu thấy, để cậu biết
là bánh ngày hôm ấy đă hết. Nhưng thật là ḱ
lạ, không biết do phước báo ǵ của A Na
Luật, khi bà mẹ vừa mở cái nắp đậy ra
th́ trong đĩa lại có đầy bánh. Cậu mừng
lắm. Thế là hôm ấy cậu đă có được
rất nhiều cái bánh “đă hết rồi”, tha hồ mà
chung cho chúng bạn.
Từ sau khi
sự việc lạ lùng này xảy ra, mẹ của A Na
Luật không c̣n coi con ḿnh là một đứa bé tầm
thường nữa. Bà thấy rằng, con ḿnh chắc
phải có một lai lịch bất phàm, trong tương
lai thế nào cũng có nhiều phước báo.
A Na Luật tuy
rất thông minh, nhưng v́ được nuôi nấng quá
kĩ càng, suốt ngày cứ quanh quẩn trong cung
điện, cho nên măi đến tuổi mười lăm
mà cậu vẫn không biết được một chút ǵ
về cái thế giới của xă hội ở bên ngoài
vương cung. Một hôm, A Na Luật, Bạt Đề (Bhaddiya)
và Kiếp Tân Na (Kalpina - Kapphina), nhân lúc cùng chơi đùa
với nhau, họ đố nhau rằng: “Gạo từ
đâu mà có?” Kiếp Tân Na trả lời trước:
- Gạo từ
trong cái chậu vo gạo mà có. Chính mắt tôi đă một
lần trông thấy cung nữ vo gạo.
Bạt Đề
xua tay cho rằng Kiếp Tân Na nói không đúng, và bảo:
- Gạo có từ
trong nồi. Chính mắt tôi đă thấy cung nữ xới
cơm ra từ cái nồi.
A Na Luật,
liền chê cả hai người, nói với vẻ
đầy hiểu biết và tự tin:
- Gạo đă
từ trong cái bát vàng mà ra.
Mỗi lần tôi
ăn cơm, chính cung nữ đă lấy cơm cho tôi
từ trong cái bát bằng vàng.
Đấy!
Đại khái là kiến thức về xă hội của
các vương tử, vương tôn ấu trĩ
đến như thế! Các vương tử,
vương tôn con này không hề biết ǵ về các
điều thường thức của đời
sống xă hội, nhưng những hưởng thụ
vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà ở th́
sang quí tột bậc; mọi thứ đều
được dâng đến tận tay, không bao giờ
phải lo nghĩ ǵ cả.
Kiến thức
của các cậu bé vương tộc ấy nông cạn
như thế là v́ sao? Nguyên v́ lúc trước, thái tử
Tất Tạt Đa, sau khi dạo chơi bốn cửa thành,
trông thấy các cảnh khổ của sinh già bệnh
chết rồi than thở chán chường, đến
nỗi đă bỏ cả việc thừa kế
để đi xuất gia học đạo; từ
đó, vương cung ra luật lệ, nghiêm cấm các
vương tử, vương tôn không được phép
ra ngoài thành du ngoạn, cứ phải sống kín cổng cao
tường trong cung vi; cho nên dù có thông minh đĩnh
ngộ, các cậu bé ấy cũng không có chút hiểu
biết nào về thế giới bên ngoài.
2.-
NÓNG L̉NG MUỐN XUẤT GIA:
Vài năm sau khi
thành đạo, đức Phật về cố
hương Ca T́ La Vệ để thăm hoàng tộc và
giáo hóa chúng sinh. Sức cảm hóa của thật mạnh
mẽ, cho nên chẳng bao lâu, đă có rất nhiều thanh
niên trong hoàng tộc xin xuất gia theo Phật. Trước
hết là thái tử Nan Đà (Nanda, người sẽ
thừa kế ngôi vua của vua Tịnh Phạn), rồi
kế tiếp là hoàng tôn La Hầu La (Rahula), và sau nữa là
các thanh niên khác của hoàng tộc.
Lúc bấy giờ
vương tử A Na Luật đă trưởng thành. Chàng
không c̣n là một cậu bé “không biết ǵ” của tuổi
ấu thơ nữa, mà đă trở nên là một thanh niên
chững chạc, nghi hiểu đường
đường, có được những hiểu
biết chín chắn về cuộc sống thế gian. Phong
trào xuất gia của các thanh niên trong hoàng tộc đă làm
cho tâm hồn chàng bị chấn động. Chàng cũng
lập chí xuất gia, bèn nói anh là Ma Ha Nam:
- Anh ạ! Vừa
rồi Phật về thăm hoàng cung, đă có nhiều anh
em trong ḍng họ Thích Ca theo Phật xuất gia. Em nghĩ,
làm một vị sa môn, đem pháp cam lồ của Phật
truyền bá bốn phương, th́ cuộc sống ấy
có ư nghĩa biết bao! Thái tử Nan Đà đă bỏ
người vợ sắp cưới vô cùng xinh đẹp
là Tôn Đà Lị để đi xuất gia; vương
tôn La Hầu La tuổi nhỏ như vậy mà cũng
biết theo Phật tu học. Nếu hai anh em ḿnh không có
một người đi xuất gia th́ khó coi lắm ư anh
thế nào?
Ma Ha Na lúc bấy
giờ đă là một tướng quân anh dũng của
triều đ́nh vua Tịnh Phạn, nghe A Na Luật nói
thế th́ trả lời:
- Em nói rất
hợp ư anh. Chính anh cũng muốn gặp em để bàn
chuyện này. Trong hai anh em ḿnh, nhất định phải
có một người đi xuất gia. Vậy th́ sự
hiếu dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già xin nhờ
em gánh vác, để cho anh được yên tâm xuất gia
theo Phật tu học nhé!
A Na Luật lắc
đầu lia lịa:
- Anh đi xuất
gia không được đâu! Quốc gia đang rất
cần những người như anh. Em th́ lại khác. Vơ
học em thua kém anh rất xa. Vả lại, hiện giờ
em rất nhàm chán nếp sống vương giả và
chỉ thích nếp sống thanh tịnh của tăng
đoàn. Xin anh thương, để cho em được
xuất gia.
Thấy ư chí xuất
gia của em ḿnh quá mạnh, Ma Ha Nam đành chiều theo,
để cho A Na Luật đi xuất gia. Nhưng lúc
đó Phật đă qui định, những người trẻ
tuổi c̣n cha mẹ, muốn đi xuất gia phải có
sự chấp thuận của cha mẹ; cho nên A Na Luật
cũng phải xin phép cha mẹ. Nhưng v́ ḷng thương
con quá nặng, đă ba lần chàng xin phép đều bị
cha mẹ từ chối cả ba. Cuối cùng, v́ sợ
chàng làm liều, mẹ chàng đành phương tiện
bảo:
- Con hăy đến
rủ vương tử Bạt Đề, nếu nó
cũng thích xuất gia th́ mẹ sẽ cho con cùng đi
với nó. Nếu nó không chịu th́ con đừng có hi
vọng ǵ nữa.
Sở dĩ bào
bảo thế là v́ bà nghĩ, việc Bạt Đề
đi xuất gia là một việc không thể nào xảy ra
được. Số là, sau khi cả Nan Đà và La Hầu
La đều theo Phật xuất gia th́ vua Tịnh Phạn
đă chọn Bạt Đề lập làm thái tử,
sẽ thừa kế ngôi vị quốc vương sau này
khi nhà vua thăng hà. Như vậy th́ chắc chắn
Bạt Đề không thẻ nào đi xuất gia được!
Nhưng A Na Luật nào để ư đến điều
đó. Khi nghe mẹ bảo thế th́ mừng lắm, bèn
chạy ngay đến vương phủ của Bạt
Đề, bày tỏ ư chí của ḿnh, đồng thời
thuyết phục Bạt Đề cùng đi xuất gia.
Nói xong, chàng cứ ngồi đó chờ đợi Bạt
Đề trả lời.
Trái lại với A
Na Luật, Bạt Đề cảm thấy việc
xuất gia thật khó thực hiện vô cùng. Làm sao chàng có
thể bỏ được bao nhiêu dục lạc và vinh hoa
phú quí của thế gian để đi xuất gia làm sa
môn! Nhưng đối với một người bạn
chí thân và đáng quí mến như A Na Luật th́ từ
chối cũng không đành. Sau một hồi lâu suy
nghĩ, chàng miễn cưỡng nói:
- A Na Luật!
Một khi đă xuất gia làm sa môn th́ không c̣n có thể luyến
ái dục lạc ở thế gian. Chúng ta tuổi c̣n
rất trẻ, làm sao đủ nghị lực chịu
đựng điều đó! Thôi th́ bạn hăy gắng
đợi thêm bảy năm nữa đi, để cho tôi
tận hưởng hoan lạc rồi chúng ḿnh sẽ cùng
nhau đi xuất gia.
Tuy biết Bạt
Đề có ư chối từ, nhưng A Na Luật vẫn
cố gắng thuyết phục bạn bằng cách
trưng ra nhiều lí lẽ để chứng minh nếp
sống xuất gia cũng rất sung sướng, rất
ích lợi. Chàng nói năng khéo léo đến nỗi, từ
bảy năm Bạt Đề giảm xuống c̣n một
năm; từ một năm giảm xuống c̣n một
tháng; rồi từ một tháng giảm xuống chỉ c̣n
bảy ngày! Hai người bạn thân thiết đồng
ư với nhau là bảy ngày nữa th́ cả hai cùng di
xuất gia. Lúc bấy giờ A Na Luật mới chịu
vui vẻ chào bạn trở về nhà.
Thời hạn
bảy ngày đă qua. Hôm ấy, A Na Luật và Bạt
Đề cũng rủ thêm A Nan (Ananda), Đề Bà
Đạt Đa (Devadatta), Kiếp Tân Na, Bà Sa (Vaspa - Vappa) và
Nan Đề (Nandi), cả thảy bảy vị
vương tử cùng nhau hân hoan rời nhà ra đi. (Có
sách nói, trong bảy vị vương tử th́ Nan Đà,
đă xuất gia ngay khi đức Phật c̣n ở Ca T́ La
Vệ, cho nên lần đi này chỉ có sáu người là A
Na Luật, Bạt Đề, Đề Bà Đạt
Đa, A Nan, Bà Cữu - Bhagu, và Kim T́ La - Kimbila - Chú thích
của người dịch). Họ lại c̣n dẫn
theo chàng thanh niên làm nghề thợ cạo tên là Ưu Ba Li
(Upali) cùng đi xuất gia với họ.
Họ dơi theo
bước chân hành hóa của Phật và đi thẳng
đến đó. Khi đến rừng A Nậu (Anupiya)
thuộc ấp Di Na, họ cởi bỏ y phục
vương tử, nhờ Ưu Ba Li cạo sạch tóc,
tự mặc áo ca sa, rồi cùng đến ra mắt
Phật, Nhưng Phật đă không chấp nhập cho
họ gia nhập vào tăng đoàn ngay lúc đó, mà bảo họ
ở riêng trong một pḥng trống, tĩnh tọa quán
tưởng bảy ngày để quên hẳn cái thân
phận vương tử tôn quí của ḿnh đi, bấy
giờ họ mới chính thức được Phật
cho lễ xuất gia.
3.-
CỰ TUYỆT LỜI CẦU HÔN CỦA MỘT THIẾU
NỮ:
Sau khi xuất gia, A
Na Luật chỉ chuyên việc học kinh nghe pháp, sống
đời đạm bạc, luôn luôn vui vẻ thực hành
các điều Phật dạy. Trong ḷng vị t́ kheo trẻ
tuổi ấy lúc nào cũng đầy ắp một
niềm pháp lạc. A Na Luật cho rằng, việc
Phật chấp thuận cho ḿnh xuất gia là một ân
đức rất lớn lao, cho nên dù chưa chứng
quả thánh, tôn giả cũng muốn tham gia công tác
hoằng pháp để báo đền ân đức của
Phật, Đối với những đệ tử có nhiệt
tâm trong việc hoằng pháp lợi sanh như vậy,
Phật rất hoan hỉ và luôn luôn khuyến khích; v́ do công
tác hoằng pháp lợi sinh mà đức tin nơi họ
được trưởng dưỡng, mà đức tin
càng được nâng cao, vững chắc, th́ sự khai
ngộ, chứng quả mới dễ đạt thành.
Tôn giả A Na
Luật có nước da vàng, có chiếc mũi giống
như mỏ chim anh vũ, có cái nghi biểu trang nghiêm,
một phong thái đẹp đẽ, đoan chính. Do
vậy, trên đường hoằng hóa, đă một
lần tôn giả bị một thiếu nữ theo
đuổi. Hôm ấy tôn giả từ tu viện Ḱ Viên
định đi về các thôn xóm trong nước Kiều
Tát La để giáo hóa. Rủi thay, trên suốt dọc
đường không một nơi nào có am cốc tự
viện ǵ cả. Không có cách nào khác, tôn giả đành t́m
đến đến nhà dân chúng để xin tá túc qua
đêm. Đến một thôn trang hoang dă kia, nhà cửa không
nhiều, tôn giả vào một ngôi nhà xin ngủ nhờ. Ngôi
nhà này lớn lắm, rộng thênh thang, nhưng oái ăm
thay, hôm đó lại không có ai ở nhà, ngoại trừ
một cô gái trẻ. Thật là một điều ngoài ư
muốn! A Na Luật do dự. Một vị t́ kheo ở
trong một căn nhà với chỉ một cô gái, nên hay
không nên? V́ lúc bấy giờ, trong giáo chế của
Phật, không có điều nào đề cập đến
điểm này. Đă vậy, lúc đó trời bỗng nhiên
mây đen vần vũ, hứa hẹn một cơn giông
gió dữ dằn sắp đổ ập xuống trong giây
lát, tôn giả không c̣n chọn lựa nào khác, đành ở
lại đó.
Một lát sau,
lại có một cụ già vào xin tá túc, nhưng cô gái lại
không cho vào. Cô gái đối xử với người già
như thế, làm cho tôn giả rất lấy làm bất
nhẫn. Trong khi đó th́ cô đối đăi với tôn
giả thật là ân cần, hết bưng trà nước
lại hỏi han chuyện tṛ, nhưng tôn giả chỉ
một mực ngồi im lặng, nhiếp tâm quán
tưởng niệm Tam Bảo, trông cho mau sáng để lên
đường ...
Đến nửa
đêm, ánh sáng của ngọn đèn dầu đă bắt
đầu yếu ớt. Chợt trong vùng ánh sáng chập
chờn ấy, bóng dáng cô gái từng bước ẻo
lả tiến đến trước mặt A Na Luật.
Với giọng nói ngọt ngào, nàng thỏ thẻ:
- Chàng quả là
một vị sa môn! Em biết rằng, có ư tưởng
không phải đối với một vị sa môn là
tội lỗi lớn, nhưng từ lúc em trông thấy
chàng th́ em yêu chàng ngay. Em muốn đè nén t́nh yêu ấy
xuống mà không thể nào làm được. Xin chàng hăy tin
em. Em không phải là loại gái trăng hoa mất nết.
Đă có nhiều vị công tử tài danh đến đây
cầu hôn mà em không chịu ai hết. Vậy mà hôm nay nh́n
thấy dung mạo thanh tú và cử chỉ đoan chính
của chàng, em liền cảm thấy yêu thương
rạo rực. Hiện tại em thấy không có ǵ xấu
hổ mà xin tự nguyện hiến thân cho chàng. Xin chàng
từ nay hăy ở luôn tại đây vói em, cha mẹ em
chắc chắn sẽ rất vui mừng.
A Na Luật vốn
là một thanh niên anh tú, lại là một vương
tử, xuất thân, nhưng đối với t́nh yêu trái
gái th́ chàng hầu những không có kinh nghiệm ǵ,
đứng trước sự tỏ t́nh của các cô th́
rất nhút nhát. Khi chưa xuất gia, v́ nổi tiếng là
vương tử đẹp trai, tôn giả đă
được không thiếu ǵ các thiếu nữ trong hoàng
tộc bu quanh để cầu hôn, nhưng tôn giả
đă sớm biết rằng dục t́nh chỉ là khổ
đau chứ không phải là niềm vui chân thật; traí
lại, sự tu hành an tịnh mới chính là niềm vui
chân thật. Trong giờ phút hiện tại này, khi lửa
dục đă dâng cao trong người con gái th́ không dễ
dàng ǵ mà dập tắt được. Biết vậy, A Na
Luật chỉ ngồi nhắm nghiền đôi mắt,
tỏ ư không thèm quan tâm tới nàng, như vậy th́ hi
vọng nàng tự biết xấu hổ mà bỏ đi.
Nhưng khốn nỗi, cô gái lại hiểu nhầm thâm ư
của tôn giả. Cô nghĩ rằng, v́ cô chỉ nói
suông nên tôn giả không vui ḷng; bởi vậy, cô liền
tới sát hơn và nắm lấy hai tay tôn giả! Nhưng
tôn giả vẫn ngồi sừng sững như núi cao, uy
nghiêm bất động. Thấy vậy, cô gái lại
tấn công mạnh bạo hơn, ôm chặt lấy tôn
giả! Không nhịn được nữa, tôn giả
liền mở mắt ra, nghiêm nghị mắng:
- Cô nương! Sao
cô không biết xấu hổ! Những người đoan
chính đâu có cử chỉ suồng sả như thế!
Huống chi tôi là một người đă xuất gia làm t́
kheo, cô đối với tôi như vậy thật là quá vô
lễ! Cô nên biết, dục t́nh ở thế gian chính là
nguồn gốc của khổ đau, sinh tử. Tất
cả những thị phi, phiền lụy ở thế
gian đều do dục t́nh mà gây ra. Nếu biết
được như vậy, giờ đây xin cô hăy
ngồi xuống, tự quán sát tâm niệm ḿnh, và cố
gắng dập tắt ngọn lửa dục đang
hực cháy trong ḷng ḿnh đi!
Cô gái như bừng
tỉnh! Lời lẽ nghiêm khắc của A Na Luật
đă làm cho cô thực sự thấy hổ thẹn. Cô cúi
đầu thật thấp để ăn năn tội
lỗi. Sau cùng, cô khẩn thiết xin tôn giả
hướng dẫn cho cô qui y Tam Bảo và cô trở thành
một vị nữ cư sĩ của giáo đoàn. Từ
lần đó trở về sau, A Na Luật không bao giờ
c̣n dám xin ngủ lại đêm ở nhà dân chúng nữa.
4.-
ỐC NẰM TRONG VỎ CHỈ THÍCH NGỦ:
Trực diện
với sự cám dỗ mạnh bạo của nữ
sắc mà không hề bị loạn động,
điều đó chứng tỏ cái tâm đạo của A
Na Luật sáng rỡ, kiên cố biết chừng nào!
Vậy mà có một lần, v́ cái tật mê ngủ mà tôn
giả đă bị Phật quở tránh nặng nề.
Hôm ấy, trong
một thời giảng kinh của Phật, v́ quá mệt
mỏi và buồn ngủ, tôn giả đă ngồi ngủ
gục trong pháp hội. Phật nh́n xuống trông thấy
liền quở:
- Ôi, thầy A Na
Luật! Sao mà mê ngủ như vậy! Rồi cũng
giống như ốc nằm trong vỏ, ngủ vùi một
giấc cả ngàn năm, đến cả một danh hiệu
của Phật cũng nghe thấy được!
Một vị
ngồi bên cạnh phải lay măi, tôn giả mới
tỉnh ngủ. Phật lại hỏi:
- A Na Luật!
Thầy v́ sợ phép nước hay trộm cướp mà
đi xuất gia phải không?
Tôn giả liền
đứng dậy thưa:
- Bạch Thế
Tôn!, không phải như vậy!
- Vậy th́ v́ lí do ǵ
mà thầy đi xuất gia?
- Bạch Thế Tôn,
v́ con muốn được giải thoát khỏi những
ràng buộc, những khổ đau của sinh già bịnh
chết.
- Tất cả
đại chúng đều khen ngợi thầy có phẩm
hạnh thanh cao, bị nữ sắc cám dỗ mà giới
thể không hề hoen ố; thầy cho như thế đă
là đầy đủ rồi phải không? Nếu không th́
tại sao trong khi Như Lai nói pháp mà thầy vẫn
ngủ?
Tôn giả sợ quá,
vội vă qú ngay xuống, chắp tay thưa một cách
cương quyết:
- Bạch Thế Tôn!
Cúi xin Thế Tôn từ bi tha thứ cho cái tội
lười biếng ngu si của con. Từ nay cho
đến suốt đời, con nguyện sẽ không bao
giờ ngủ gục nữa.
Thấy tôn giả
thành tâm hối lỗi, Phật rất hoan hỉ và khuyên
bảo tôn giả nên cố gắng tu tập. Nhưng
cũng từ đó, tôn giả đă lập hạnh “không
ngủ”! Suốt ngày, suốt đêm, tôn giả chỉ
cố công tu tập, không giờ phút nào chịu ngủ
nghỉ. Một ngày, rồi hai ngày ... tôn giả cứ
cố chịu đựng như thế, cho đến
một hôm th́ hai mắt của tôn giả sưng vù!
Khi được
tin này, Phật lo lắng lắm, bèn đến khuyên
bảo:
- Này A Na Luật!
Trong việc tu hành, sự bất cập cố nhiên là không
được, nhưng sự thái qua th́ cũng không phải
là điều tốt. Thầy nên bỏ cái cách tu ấy
đi!
- Bạch Thế Tôn!
Nhưng con đă có lời nguyện kiên quyết với
Thế Tôn trong pháp hội.
- Thầy không nên câu
nệ điều đó. Chính cặp mắt của
thầy mới thật là quan trọng.
Tôn giả vẫn
không chịu. Phật phải bảo tiếp:
- A Na Luật!
Tất cả chúng sinh đều phải cần thức
ăn để sống. Con mắt cũng phải có
thức ăn mới sống; thức ăn đó là
giấc ngủ. Vậy thầy không nên nghĩ ngợi ǵ
khác mà bây giờ nên ngủ đi! Thầy phải biết
rằng, chính niết bàn cũng vẫn cần có thức
ăn!
- Thức ăn
của niết bàn là ǵ, bạch Thế Tôn!
- Thức ăn
của niết bàn là sự không buông lung. Phải không buông
lung th́ mới đạt tới cảnh giới niết
bàn.
Tuy A Na Luật
rất cảm kích đối với ḷng ưa ái của
Phật, nhưng lại không muốn làm ngược
lại lời nguyện của ḿnh, nên vẫn nhất
định không chịu ngủ nghỉ. Thấy cặp
mắt của tôn giả càng lúc càng trở nên trầm
trọng, Phật cho người mời y sĩ Ḱ Bà (Jivaka)
đến chữa trị. Ḱ Bà khuyên tôn giả nên ngủ
nghỉ trở lại b́nh thường th́ cặp mắt
sẽ lành, nhưng tôn giả cũng không chịu. Chẳng
bao lâu sau th́ cặp mắt của tôn giả bị mù!
5.-
PHẬT GIÚP VÁ ÁO:
Sau khi bị mù
mắt, cuộc sống của A Na Luật trong tăng
đoàn thật là khó khăn, bất tiện, nhất là
đối với việc khất thực và may vá. Dù sao,
trong tăng đoàn đă có lệ, quí vị t́ kheo mạnh
khỏe, mỗi khi đi khất thực về th́ chia
thức ăn cho quí vị t́ kheo bịnh hoạn không đi
khất thực được. Cho nên về sự ăn
uống, tôn giả đă có quí vị khác giúp đỡ,
khỏi phải lo lắng ǵ cả. Trái lại, vị
bị mù ḷa, không c̣n trông thấy ngoại cảnh th́
đỡ phải bị ngoại cảnh làm cho tâm loạn
động; điều đó càng giúp cho tôn giả tinh
thục hơn, chuyên nhất hơn trong sự tu hành. Tuy
thế, về y phục, đối với tôn giả
vẫn c̣n là một trở ngại lớn.
Áo của tôn giả
đă rách, muốn vá nhưng không biết làm thế nào
để vá, cho đến khi cả ba chiếc áo
đều rách hết mà tôn giả vẫn đành chịu.
Một hôm, tôn giả A Nan, nhân đi ngang qua chỗ ngụ
của tôn giả, thấy thế liền nhắc:
- Sư huynh A Na
Luật! Áo của sư huynh không vá không được.
Đức Thế Tôn thường dạy, y phục
của t́ kheo, mới cũ không thành vấn đề,
nhưng phải luôn luôn lành lặn và sạch sẽ.
- Sư huynh A Nan a!
Tôi cũng đă thử vá mấy chiếc áo rách này,
nhưng v́ mù ḷa, cứ cố xâu chỉ mà không thể nào
xâu được. Vậy nếu sư huynh có th́ giờ,
xin xâu chỉ giúp tôi!
Tôn giả A Nan
rất hoan hỉ, hứa sẽ trở lại ngay
để giúp tôn giả. Nhưng khi Phật trông thấy A
Nan th́ đă đoán biết được sự việc.
Ngài hỏi:
- A Nan! Thầy
muốn t́m người giúp thầy A Na Luật vá áo
phải không! Sao thầy không nhờ Như Lai giúp cho?
Tôn giả A Nan
giật ḿnh, vội thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Thế Tôn là bậc chí tôn chí quí, c̣n đây chỉ là
việc nhỏ nhặt của chúng con, chúng con đâu dám làm
phiền đến Thế Tôn!
- Thôi thầy
đừng nói thêm ǵ nữa, Như Lai muốn tự ḿnh
giúp cho A Na Luật. Như Lai sẽ cùng với thầy
đi đến đó.
Ḷng từ ái
của Phật đă làm cho A Nan và quí vị đứng
quanh đó rất cảm động.
Khi đến
nơi, Phật bảo:
- A Na Luật!
Thầy hăy lấy kim chỉ ra, Như Lai sẽ giúp
thầy vá áo!
Nghe tiếng
của Phật, A Na Luật vô cùng sửng sốt. Trong
đôi mắt mù ấy người ta trông thấy có
những giọt nước mắt chảy ra v́ quá xúc
động. Tôn giả chỉ biết im lặng mà không nói
được nên lời ... Và chỉ trong ngày ấy,
Phật đă giúp A Na Luật vá xong ba chiếc áo.
6.-
NGUYÊN NHÂN ĐỌA LẠC CỦA PHÁI NỮ:
A Na Luật tuy
mắt đă bị mù, nhưng tâm trí th́ vẫn rất sáng
suốt. Mặc dù vậy, đối với mọi sinh
hoạt của đời sống, một người không
thấy đường như thế th́ cũng có lắm
điều không như ư. Riêng Phật th́ thương xót tôn
giả vô cùng. Từ sau khi giúp tôn giả vá áo. Phật
thường ngày dạy cho tôn giả tu tập phép
thiền định gọi là “Kim Cang chiếu sáng”, và
chẳng bao lâu th́ tôn giả chứng được thiên
nhăn thông! Kết quả đó đă làm cho tôn giả vô cùng
hoan hỉ, và Phật cũng chia sẽ niềm hoan hỉ
ấy với tôn giả.
Dĩ nhiên là có nhờ
vào oai lực từ bi của Phật, nhưng cũng chính
là do sự quyết tâm, tŕ chí và nổ lực của riêng
ḿnh, cho nên tôn giả mới đạt được
kết quả cao quí như thế. Bởi vậy tôn
giả đă được mọi người trong
tăng đoàn hết sức ái mộ và kính trọng.
Từ đó, những công việc thường ngày như
vá áo, rửa bát, v. v... đă không c̣n làm cho tôn giả bối
rối nữa. Với thiên nhăn thông này, tôn giả có thể
trông thấy bất cứ ở đâu, dù xa, dù gần, dù
trong, dù ngoài ... Những ǵ mọi người không thể
trông thấy được, tôn giả đều có
thể thấy. Trong kinh A Di Đà, danh hiệu của
tôn giả được sáp vào hàng thánh chúng (tức là A
Nậu Lâu Đà), để chứng minh rằng, v́ nhờ
có thiên nhăn thông mà tôn giả có thể thấy được
thế giới Cực Lạc, làm cho vững chắc thêm
ḷng tin nơi chúng sinh về cơi Tịnh Độ của
Phật A Di Đà.
Không những
thấy được thế giới Cực Lạc, mà
với thiên nhăn thông, tôn giả c̣n thấy cả mọi
sự việc nơi chốn địa ngục. Một
ngày nọ, nhân thấy trong địa ngục có quá
nhiều phụ nữ bị đọa lạc, tôn giả
bèn thỉnh ư Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Hôm nay con thấy có nhiều phụ nữ bị
đọa vào địa ngục. Theo con nghĩ,
người đàn bà thường nhân từ hơn
người đàn ông, và họ tín phụng Phật pháp
cũng hết sức dễ dàng. Vậy th́ tại sao
họ lại đọa lac vào địa ngục nhiều
như thế?
- A Na Luật!
Đối với giáo pháp của Như Lai, người
đàn bà tín phụng hết sức dễ dàng, đó là
sự thật; nhưng người đàn bà tạo các
tội nghiệp cũng hết sức dễ dàng, và đó
cũng là sự thật! Nơi người đàn bà, ḷng
tham lam, ghen ghét và dục vọng rất nặng nề,
hơn hẳn người đàn ông, nên rất dễ gây
nên lỗi lầm, và đó là nguyên nhân của sự
đọa lạc.
Tôn giả A Na
Luật đă thành tựu quả thánh, lại chứng
được thiên nhăn thông, cho nên đă trở thành
một trong các vị đệ tử cao cấp của
Phật. Mặc dù vậy, trong một lần đàm
đạo cùng trưởng lăo Xá Lợi Phất, tôn
giả vẫn bị trưởng lăo Xá Lợi Phất
quở trách một cách thẳng thắn. Câu chuyện
như sau:
Hôm đó, tôn
giả hỏi trưởng lăo Xá Lợi Phất:
- Thưa sư
huynh! Với thiên nhăn thanh tịnh, tôi có thể trông thấy
khắp cả ba ngàn thế giới. Tôi luôn luôn tinh tấn,
sống trong chánh niệm không bao giờ quên lăng. Hiện
tại tôi cảm thấy như thân thể tôi đang vân du
thanh thoát trong cơi đất trời vắng lặng. Tâm tôi
đă xa ĺa mọi sự chấp trước, không c̣n
bị lung lạc. Thưa sư huynh, có phải như
thế là tôi đă dứt trừ mọi phiền năo và
được giải thoát rồi không?
Với tư cách
là vị thượng thủ cao cấp nhất của
tăng đoàn, trưởng lăo Xá Lợi Phất đáp
lời tôn giả:
- Sư huynh A Na
Luật! Vừa rồi sư huynh bảo là sư huynh
đă chứng được thiên nhăn thông và thấy rơ
cả ba ngàn thế giới, đó là tâm ngă mạn, sư
huynh bảo là sư huynh sống trong chánh niệm không bao
giờ quên lăng, đó là tâm cuồng vọng, sư huynh
bảo là sư huynh đă xa ĺa mọi sự chấp
trước, không c̣n bị lung lạc, đó là tâm giao
động. Theo chỗ tôi hiểu về những lời
dạy của đức Thế Tôn, chúng ta phải
diệt trừ được tâm ngă mạn, tâm cuồng
vọng, và tâm giao động th́ mới không c̣n phiền năo
và được giải thoát!
7.-
NIỀM AN LẠC NƠI NÚI RỪNG TĨNH MỊCH:
Lúc bấy giờ
Phật đang của trú tại Câu Thiểm Di (Kausambi -
Kosambi). Một hôm nọ, một cuộc tranh chấp mănh
liệt bỗng xảy ra trong đại chúng. Phật đă
đem câu chuyện về đức nhẫn nhục
của vua Trường Thọ kể cho đại chúng
nghe, hầu chấm dứt cuộc tranh luận. Phật
bảo: “Dùng oán hận để diệt oán hận th́
oán hận không bao giờ có thể diệt được.
Chỉ có dùng đức từ bi và ḷng nhẫn nhục
mới có thể tiêu diệt được ḷ lửa oán
hận mà thôi”.
Tuy lời khuyên
bảo của Phật đă có hiệu quả với
phần đông đại chúng, nhưng một số ít người
vẫn bướng bỉnh, đă không chịu nghe lời
Phật, lại c̣n tiếp tục làm cho cuộc tranh
cấp càng gay gắt thêm. Thấy vậy, Phật bỗng
nhớ tới con người rất mực khiêm cung,
nhường nhịn, là A Na Luật, lúc ấy đang hành
đạo tại rừng Ba Lị Da, nước Bạt
Ḱ. Phật liền một ḿnh đi đến đó
để thăm A Na Luật.
Tại rừng Ba
Lị Da, ngoài tôn giả A Na Luật ra c̣n có hai vị khác
cùng tu là Bạt Đề và Kiếp Tân Na. Cả ba vị
vốn là anh em họ với nhau. Lúc c̣n tại gia họ
rất thương mến nhau, và sau khi xuất gia làng càng
thương mến nhau hơn, cùng giao ước với
nhau là chỉ một ḷng y chỉ nơi Phật và nhất
thiết đều tuân theo lời Phật dạy
để tu hành. Cả ba vị đều đă chứng
quả thánh. (Danh sách ba vị này, ngoài A Na Luật ra, hai
vị c̣n lại đă có nhiều sách nói khác nhau: có chỗ
th́ Bà Cữu và Nan Đề; có chỗ th́ Kim T́ La và Nan
Đề. - Chú thích của người dịch).
Cuộc sống của họ tại đây thật
tịch tĩnh, ḥa thuận và an lạc. Hàng ngày, buổi
sáng mọi người đều vào làng khất thực.
Ai khất thực xong về trước th́ tự
động trải chỗ ngồi cho cả ba người,
rồi đi lấy nước uống, nước
rửa cùng khăn lau để sẵn. Khi ăn xong,
thức ăn c̣n dư lại th́ đem để chỗ
mát và trống trải hoặc trong nước sạch.
Như vậy, người đi khất thực về
sau, nếu thiếu thức ăn th́ có thể dùng thức
ăn c̣n lại ấy của người trước.
Mọi việc dọn dẹp xong xuôi, vị ấy rửa
tay chân, chỉnh đốn y áo, rồi về chỗ
của ḿnh để thiền tọa. Người đi
khất thực về sau, cũng cứ như thế mà
hành tŕ, Buổi thiền tọa có thể kéo dài tới
chiều. Ai xuất thiền trước th́ cũng cứ
tự động đi kiểm soát xem, việc ǵ đáng
làm th́ làm, như quét dọn, lấy nước chẳng
hạn. Việc ǵ nhắm làm một ḿnh không nổi th́
nhờ hai vị kia cùng giúp. Tất cả mọi việc
đều được làm trong yên lặng. Họ nói
năng rất ít. Cứ năm ngày th́ họ họp một
lần để chia sẽ với nhau về kinh nghiệm
tu tập hoặc trù liệu các chương tŕnh sinh
hoạt mới. Cứ thế, họ sống với nhau
thật ḥa thuận và an lạc trong khu rừng u tĩnh
ấy.
Khi Phật vừa
đến phía ngoài khu rừng th́ người giữ
rừng liền chận Phật lại. Ông ta từ
trước đến giờ chưa từng trông thấy
Phật, nên không biết. Ông thưa:
- Xin ngài đừng
vào rừng, v́ trong ấy có ba vị thánh tăng đang tu
hành.
Phật mỉm
cười bảo:
- Xin ông vui ḷng vào báo
với ba vị ấy là có người đến thăm.
Chắc chắn là ba vị ấy sẽ rất vui vẻ
đón tiếp tôi.
Người giữ
rừng liền vào trong thông báo. Ba người nh́n ra th́
biết ngay là Phật quang lâm, nên rất hân hoan,
đồng ra b́a rừng nghênh đón. A Na Luật th́
tiếp lấy y bát của Phật; Bạt Đề th́ lo
sửa soạn chỗ ngồi; c̣n Kiếp Tân Na th́ đi
lấy nước rửa chân cho Phật. Phật hỏi
thăm về nếp sống cũng như sự tiến
triển tu tập của họ. Ba vị đều
cứ như thật tŕnh bày. Nghe họ nói cũng như
nh́n thấy nếp sống chung của họ, Phật rất
vừa ḷng. Ngài khen ngợi:
- Quí thầy cùng
thờ một thầy, cùng tu một đạo,
đồng tâm nhất trí, đang sống chung với nhau
trong một nếp sống an lạc, ḥa hợp với nhau
như nước với sữa. Nếp sống tốt
đẹp đó của quí thầy thật ít ai có thể
so sánh được!
Nhân đó Phật bèn
kể lại lịch tŕnh tu hành của ḿnh trong những
tiền kiếp xa xưa để khuyến khích thêm ba
vị. Từ một nơi đầy tranh chấp đến
đây và chứng kiến được một nếp
sống ḥa thuận tốt đẹp của ba vị
tại đây, Phật rất lấy cảm kích và hoan
hỉ vô cùng. Trong khi đó, A Na Luật và hai bạn
đồng tu, được Phật đến tận
nơi xa xôi hẻo lánh này để thăm hỏi, cũng
cảm động vô cùng, ḷng dâng lên một niềm vui khó
tả. (Chính tại khu rừng này, lấy ba vị thánh
tăng trên làm đối tượng, đức Phật
đă ban bố pháp chế “Lục ḥa” nhằm xây dựng
một nếp sống ḥa hợp, an lạc trong tăng
chúng. - Chú thích của người dịch).
8.-
TRỘM CƯỚP QUI Y TAM BẢO:
Nhưng không phải
tôn giả A Na Luật chỉ biết ẩn ḿnh măi măi
nơi chốn núi cao rừng rậm. Tôn giả
thường nghĩ: “Sỡ dĩ ḿnh có được
niềm pháp lạc như ngày nay là đều do ân
điển của đức Thế Tôn. Muốn báo đáp
ân điển đó, ḿnh phải ra sức hoằng pháp
lợi sinh. Những nơi nào chưa có người
đến giáo hóa th́ ḿnh hăy đến ...” Con
người trông bề ngoài có vẻ rất lạnh lùng
ấy, thực ra, trong ḷng rất là nhiệt t́nh. Bởi
vậy, từ cung vua, hoặc phủ đệ của các
vị quí tộc, cho đến những nơi núi rừng,
làng quê hẻo lánh, không chỗ nào là không in dấu
bước chân hoằng hóa của tôn giả.
Tôn giả rất hay
đi thăm những người bị bệnh. Ở
nước Chiêm Ba (Campa) có một người tên là Ma Na
Đề Na, bị bệnh nặng, chỉ nghe tôn giả
thuyết pháp, rũ bỏ âu lo phiền muộn, liền
khỏi bệnh. Nhiều trường hợp tương
tợ như vậy, đối với các người
bệnh, tôn giả chỉ cần nói pháp, an ủi là
bệnh thuyên giảm. Bởi vậy, tất cả
những người đang bị bệnh, biết
được có tôn giả tới đều rất vui
mừng. Không những có một phương pháp chữa
bệnh rất đặc biệt, tôn giả c̣n có cách khéo léo
riêng để chuyển hóa tâm tính của dân trộm
cướp.
Trong một
đoạn trước chúng ta đă biết, có một hôm
tôn giả bị lỡ đường, phải vào một
ngôi nhà vắng bên đường xin tá túc qua đêm. Đến
nửa đêm th́ tôn giả bị cô gái chủ nhà trêu
ghẹo; và từ đó tôn giả nguyện không bao giờ
c̣n dám ban đêm vào nhà dân gian xin ngủ nhờ nữa.
Lần này, tôn giả cũng đang đi hành hóa ở
một thôn trang nọ th́ trời tối. Tôn giả bèn ra
khu rừng ở bên ngoài làng để tĩnh tọa
chờ sáng. Ánh trăng tỏa chiếu mông lung, bóng cây
lờ mờ huyền ảo. Gió thổi nhè nhẹ.
Thỉnh thoảng một v́ sao băng vụt qua khoảng
trời không ...
Bấy giờ
đêm đă về khuya, không gian hoàn toàn vắng lặng.
Bỗng chập chờn một đám đông bóng
người, từ xa đang di động dần về
phía tôn giả. Tôn giả muốn ho lên một tiếng,
nhưng đám người đă dừng lại phía
trước tôn giả không xa lắm. Tôn giả dùng cặp
mắt thần để quan sát th́ thấy rơ ràng đó là
bọn người trộm cướp. Họ dừng
lại đó để chia nhau những của cải
vừa ăn trộm được. Tôn giả bèn buông
một tiếng thở dài thật lớn. Bọn trộm
biết là có người trông thấy, tức th́ vũ
lộng binh khí sáng ngời. Một người trong bọn
xẵng giọng:
- Ai đó, Hăy ra
đây cho bọn tao thấy mặt, đồ khốn
kiếp! Không th́ bọn tao giết chết bây giờ! Tôn
giả nói thật lớn:
- Các người
muốn giết ta, cứ việc đến! Các
ngươi giết ta th́ tức khắc sẽ có
người giết các ngươi!
Bọn trộm nghe
thế th́ hoảng kinh, ngó nh́n giáo giác, chẳng biết nên
làm thế nào. Tên thủ lănh liền lên tiếng:
- Ông bạn là ai!
Đang đêm lại muốn phá hoại công việc
tốt của chúng tôi!
A Na Luật nghiêm
giọng trang nghiêm đáp:
- Tôi là một
thầy tu, đang tĩnh tọa tại đây. Nếu
bảo rằng tôi thấy các ông đang làm việc quấy
th́ đúng, nhưng bảo rằng tôi phá hoại việc tốt
của các ông th́ không đúng!
- Ông muốn tố
cáo chúng tôi với quan phủ phải không?
- Tôi không có ư tố
cáo các ông với quan phủ. Tôi chỉ muốn nói với
các ông điều này: Hành vi sai quấy của các ông, quan
phủ có thể sẽ không bao giờ biết
được, nhưng luật nhân quả báo ứng th́
sẽ không tha thứ cho các ông đâu! Tôi v́ nghĩ
đến cái tương lai buồn thảm đang
chờ đợi các ông mà cảm thương các ông vô cùng!
Lời nói của tôn
giả quả đă làm lay động được ḷng
trắc ẩn của đám người trộm
cướp. Trong phút chốc họ dứt bỏ hẳn
tâm hung ác; và tính lương thiện, giờ đây
được cơ hội phát hiện. Họ thành tâm sám
hối mọi lỗi lầm đă qua. Nghe theo lời
chỉ dạy của tôn giả, trước hết, ngay
sáng hôm sau, họ đem tất cả đồ vật
đă lấy trộm trong đêm trước, hoàn trả lại
cho các khổ chủ; sau đó, nhờ sự giới
thiệu của tôn giả, họ được
đến yết kiến Phật để xin qui y.
Từ đó, họ quyết chí thay đổi hoàn toàn
từ tâm ư, nói năng cho đến mọi hành vi cử
chỉ, trở thành những người lương
thiện trong xă hội.
9.-
TU TẬP TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA CÁC BẬC
ĐẠI NHÂN:
Tôn giả A Na
Luật, một mặt cần cù trong việc hoằng pháp
lợi sinh, một mặt vẫn tinh tấn trong công phu tu
học. Một hôm, trong lúc thiền tọa tại một
làng nọ thuộc nước Chi Đề (Cedi), tôn
giả quán niệm rằng: “Không phải do tham dục mà
đạt được Đạo, mà chính là do tâm
biết đủ (tri túc); không phải ờ nơi ồn
ào náo nhiệt mà t́m được Đạo, mà chính là
ở nơi vắng lặng tịch mịch; muốn
thấy được Đạo cần phải siêng
năng, thường xuyên có chánh niệm, lại c̣n
phải đa văn và rèn luyện trí tuệ”.
Bấy giờ
Phật đang ngự tại một khu vườn ở
nước Bà Ḱ Dũ. Trong lúc A Na Luật quán niệm
những điều như trên th́ Phật thấy rơ được
tâm ư ấy của tôn giả, bèn đến tận nơi
để khen ngợi và khích lệ. Lại được
Phật quang lâm thăm hỏi, tôn giả xúc động vô
cùng. Nhân đó tôn giả đem tư tưởng của
ḿnh tŕnh bày lên, xin Phật ấn chứng, và thưa hỏi
thêm:
- Bạch Thế Tôn!
Theo tinh thần “Sáu nguyên tắc sống chung ḥa hợp”
(Lục ḥa), mỗi cá nhân trong tăng đoàn phải quên
đi những ǵ riêng tư, phải quên đi cái bản ngă
nhỏ mọn của ḿnh; đối với chúng sinh th́
phải tuyệt đối dùng đức từ bi và ḷng
nhân ái để đối xử; những điều
đó chúng con phải hiểu biết và phải thực
hành trọn vẹn. Nhưng, bạch Thế Tôn các tín
đồ tại gia th́ rất đông, và các vị
đệ tử xuất gia của Thế Tôn thường
xuyên gần gũi với xă hội để hoằng pháp
lợi sinh cũng rất đông; đối với
những vị này, muốn cầu được giác
ngộ và chứng nhập niết bàn th́ làm thế nào, xin
Thế Tôn từ bi khai thị.
- Thầy A Na
Luật! Câu hỏi của thầy thật hữu ích!
Những điều thầy đề cập tới
đúng là những điều cần thiết của
những người muốn tu học theo hạnh
nguyện bồ tát. Thầy A Na Luật! Có tám điều
giác ngộ của các bậc đại nhân mà bất
cứ là đệ tử của Như Lai, bất luận
ngày đêm, đều phải tinh tấn hành tŕ:
- Điều thứ
nhất: Phải thường xuyên quán chiếu để
thấy được những tính cách vô thường,
giả tạm, đau khổ, không thanh tịnh, không có
tự ngă của thế gian. Phải quyết chí xa ĺa sinh
tử th́ được giác ngộ.
- Điều thứ
hai: Phải thường xuyên quán chiếu để
thấy được tâm tham dục và bám chặt thế
gian chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Phải
sống một cuộc sống thiểu dục, vô vi, th́
thân tâm sẽ được tự tại.
- Điều thứ
ba: Phải thường xuyên quán chiếu tâm ḿnh để
thấy rằng, suốt ngày nó chỉ một mực lo tham
cầu và tạo tội lỗi, không biết nhàm chán.
Phải biết an vui trong nếp sống đạm
bạc, biết đủ, để có thể hoàn thành
sự nghiệp trí tuệ.
- Điều thứ
tư: Phải siêng năng làm các việc lành, không từ
chối bất cứ việc ǵ làm lợi ích cho
người, diệt trừ phiền năo, hàng phục các ma
chướng; có thế th́ mới mong vượt thoát
được ngục tù của năm ấm và ba cơi.
- Điều thứ
năm: Phải biết rơ rằng, sự ngu si thật là
đáng sợ. Cho nên, đối với tất cả
mọi ngành học thuật đều phải để
tâm nghiên cứu và học hỏi; rồi lại phải
phát tâm đem những điều đă học hỏi mà
giáo hóa chúng sinh, khiến cho mọi loài đều
được an vui.
- Điều thứ
sáu: Phải thấy rơ rằng, v́ nghèo khổ mà
người ta sinh nhiều oán hận. Người tu
học theo hạnh bồ tát phải biết giúp đỡ
họ về mặt vật chất cũng như an ủi
họ về mặt tinh thần, dù ai xử tệ với
ḿnh cũng không nên khởi niệm oán hận.
- Điều thứ
bảy: Dù phải sống ở trong thế gian cũng
không bao giờ để cho năm thứ dục vọng
của thế gian làm chủ ḿnh. Dù là người xuất
gia hay tại gia, không bao giờ để bị nhiễm ô
bởi các thứ dục lạc của thế gian.
Nhất mực phải sống cuộc đời cao
thượng.
- Điều thứ
tám: Không nên cầu sự an lạc cho riêng bản thân ḿnh.
Phải phát tâm đại thừa, cứu độ
tất cả chúng sinh xa ĺa đau khổ, cùng
được an lạc.
Nhân lời thưa
hỏi của tôn giả A Na Luật mà Phật khai thị
tám điều tu tập của hạnh bồ tát. Rất
nhiều người đă nương theo đó mà tu tập,
cải thiện được đời sống, làm cho
thân tâm được tự tại an lạc.
10.-
TUỔI GIÀ:
Trong cuộc
đời tu học và hành đạo của tôn giả A Na
Luật chắc chắn là có nhiều sự tích huy hoàng, và
ḱ vĩ, nhưng rất tiếc là đă không c̣n chứng
liệu ǵ lưu lại để có thể truy cứu
được. Chúng ta chỉ biết được ràng,
tôn giả là một trong các vị đệ tử lớn
của Phật, địa vị ngang hàng với các tôn
giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v... Tôn
giả viên tịch tại đâu, vào lúc nào, cũng không
biết được; có điều chắc chắn rằng,
trong giờ phút Phật nhập niết bàn ở rừng
Câu Thi Na th́ tôn giả cùng với tôn giả A Nan đều
có mặt và luôn luôn túc trực bên cạnh Ngài. Trong đêm
Rằm tháng Hai năm ấy, ánh trăng sáng tỏ chiếu
khắp trời không, trong rừng cây Sa la, giữa cái không
khí trang nghiêm, vắng lặng và đầy buồn
thương, Phật bấy giờ đă 80 tuổi,
đối trước đông đúc đệ tử
ngồi vây chung quanh, đang dạy những lời
cuối cùng về việc giữ giới, nhẫn
nhục, siêng năng, giữ ǵn tâm ư, v.v... Sau hết Ngài
nói:
- Này quí thầy!
Đối với những pháp môn Như Lai đă dạy,
quí thầy hăy ghi nhớ lấy, đừng để cho
quên mất! Như Lai cũng như ông thầy thuốc, chẩn
bệnh và cho thuốc, c̣n uống thuốc hay không là do
người bệnh; Như Lai cũng như người
chỉ đường, chỉ rơ con đường
đúng, c̣n đi hay không đi th́ không phải là do lỗi
của người chỉ đường. Này quí thầy!
Những giáo pháp về Bốn sự thật, Mười
hai nhân duyên v.v... mà Như Lai đă đạy, đều là
những chân lí mà Như Lai đă chứng ngộ, là cây
đèn sáng của thế gian, là chiếc thuyền từ
trên biển khổ. Những người đă hiểu rơ
và tin tưởng vào chúng th́ chúng chính là cánh cửa
đưa họ vào đường giải thoát. Giờ
đây Như Lai sắp nhập niết bàn, đối
với các giáo pháp ấy, nếu ai c̣n chỗ nào nghi ngờ
th́ hăy nên bày tỏ ra ngay để Như Lai giảng
giải lại.
Phật bảo
đến ba lần như vậy, đại chúng vẫn
ngồi yên lặng, chứng tỏ tất cả
đều không có điều ǵ nghi ngờ. Sau khi quán sát tâm
ư của đại chúng, tôn giả A Na Luật thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Tất cả chúng con không có điều ǵ nghi ngờ
về các giáo pháp Bốn sự thật, Mười hai nhân
duyên v.v... Đó là chân lí của vũ trụ nhân sinh, Trên
thế gian này, mặt trời có thể trở thành
lạnh, mặt trăng có thể trở thành nóng, núi
Tuyết có thể trở thành biển lớn, cơi
đất có thể trở thành g̣ hoang, nhưng giáo pháp
của Thế Tôn đă dạy th́ không ǵ có thể làm cho
thay đổ́ được!
Sau khi Phật đă
nhập niết bàn, trong ḱ kết tập kinh điển
trong hang núi Ḱ Xà Quật (Gijihakuta) của 500 vị A La Hán,
chắc chắn là có mặt tôn giả A Na Luật. (Trong
chương nói về tôn giả Đại Ca Diếp, tác
giả nói rằng, ḱ kết tập kinh điển lần
đầu tiên này đă được tổ chức
tại hang núi Tất Bát La nằm ở phía Đông Nam thành
Vương Xá, khác với núi Ḱ Xà Quật được
tác giả nói ở đây, nằm ở phía Đông Bắc
thành Vương Xá. Phật Quang Đại Từ
Điển - do tác giả làm chủ biên - cũng nói hang
Tất Bát La là nơi kết tập kinh điển lần
đầu tiên. Hang Tất Bát La, cũng gọi là hang
Thất Diệp - Sapta Parnaguha, một động đá
nằm trong núi T́ Bà La (Vebraha), là một trong năm tu
viện ở vùng Vương Xá - Chú thích của
người dịch) Nhưng dấu vết về sau
đó của tôn giả th́ hoàn toàn không được
lưu truyền. Thật là đáng tiếc!
Tôn giả A Na
Luật là người có chí khí kiên cường, chỉ v́
cái bệnh mê ngủ mà thành ra mù ḷa. Dù vậy, với
sự tinh tấn không ngừng, từ chỗ bị mù ḷa
tôn giả lại chứng được thiên nhăn thông, tu
hành và hoằng hóa một cách an tường tự tại,
được mọi người đều xưng tán,
thật không hổ là một bậc thượng thủ
của giáo đoàn!