Mười Vị Đệ
Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả A NAN
(Ananda)
(Vị thượng thủ nghe nhiều nhớ kĩ
nhất)
1.- NHÂN DUYÊN
XUẤT GIA:
Khi cầm bút
viết về cuộc đời tôn giả A Nan, tự
nhiên tôi nhớ đến lời của đức Bồ
Tát Văn Thù (Manjusri) khen ngợi tôn giả:
“Dung mạo sáng đẹp như trăng trung thu,
Đôi mắt cười hiền như sen mới nở,
Phật pháp bao la như biển cả,
Đều chảy hết vào tâm A Nan".
Trong tất cả
các đệ tử của Phật, A Nan là vị có
tướng mạo trang nghiêm nhất, có trí nhớ mạnh
mẽ nhất. Với một cuộc đời phi thường,
tôn giả đă có một ảnh hưởng thật sâu
rộng, không những đối với giáo đoàn
thời ấy, mà ngay cả với thời đại ngày
nay.
A Nan cũng như
La Hầu La (Rahula), đều xuất gia từ lúc c̣n
nhỏ. Thật khó có thể khảo chứng để
biết đích xác A Nan xuất gia lúc mấy tuổi,
nhưng cứ theo truyền thuyết th́ trong số bảy
vị vương tử ḍng Thích ca đi xuất gia
đầu tiên, như A Na Luật, Bạt Đề v.v...
th́ A Nan là vị nhỏ tuổi nhất có mặt trong
đó. (Theo Đường Xưa Mây Trắng của
thiền sư Nhất Hạnh, danh sách bảy vị đó
là Nan Đà [Nanda], A Na Luật, Bạt Đề, Đề
Bà Đạt Đa [Devadatta], A Nan, Kim T́ La [Kimbila] và Bà
Cữu [Bhagu]; lúc đó A Nan được 18 tuổi - Chú
thích của người dịch).
A Nan là con của
thân vương Bạch Phạn (Suklodana - Sukkodana), và là em
ruột của vị đệ tử phản nghịch
nguy hiểm nhất của Phật; đại đức
Đề Bà Đạt Đa, A Nan xuất gia khi tuổi
c̣n nhỏ, chính đó là niềm hi vọng của Phật.
Khi Phật trở về quê hương giáo hóa, Bạch
Phạn vương sợ rằng A Nan có thể chịu
ảnh hưởng tư tưởng xuất thế
của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không bao lâu, ông
bèn đem A Nan sang thành T́ Xá Li (Vesali) để A Nan không c̣n
cơ hội gặp Phật. Sau đó Phật cũng sang
T́ Xá Li, th́ ông lại tức khắc đem A Nan trở
lại Ca T́ La Vệ (Kapilavathu).
Nói đến
thiện duyên của A Nan th́ thật là ḱ diệu! Trong
số các vị vương tử th́ Phật hi vọng
nhất là có được A Nan đi xuất gia. Lần
đầu tiên trông thấy A Nan, Phật đă nghĩ ngay
rằng, nếu A Nan đi xuất gia th́ về sau có
thể làm cho Phật pháp hưng thịnh và truyền măi
đến ngàn sau. Các bậc vĩ nhân trong lúc sinh tiền,
một trong các việc tối quan trọng và khẩn
yếu phải làm là t́m người xứng đáng
để kế thừa sự nghiệp của ḿnh. T́m
được người rồi th́ lo rèn luyện, gây
dựng người ấy tiến lên măi. Sau khi thành
đạo không bao lâu, Phật đă để ư và chọn
được A Nan. Bởi vậy, ở T́ Xá Li, khi
biết Bạch Phạn vương đem A Nan về
lại Ca T́ La Vệ, Phật cũng tức khắc quay
về và ngự ngay trong căn pḥng sát vách với pḥng
của A Nan. V́ cửa của hai căn pḥng sát liền nhau,
nên A Nan rất dễ trông thấy Phật, và khi vừa
trông thấy Phật, bất giác một niềm yêu kính dâng tràn,
A Nan liền phục lạy xuống đất, rồi
cầm quạt đứng hầu. Điều này cho chúng
ta thấy, dù A Nan tuổi hăy c̣n nhỏ, mhưng trong con tim
ngây thơ trong trắng ấy, một niềm kính
trọng, một ḷng tin tưởng tuyệt đối
nơi bậc Đại Giác đă bừng nở một
cách hồn nhiên. Do đó, khi cơ duyên đến, A Nan
đă không ngần ngừ theo các vương tử Bạt
Đề v.v... cùng theo Phật cạo tóc xuất gia, ḥa
nhập dễ dàng vào đời sống tăng đoàn.
2.-
GIÚP CHO NỮ GIỚI ĐƯỢC XUẤT GIA:
Sống với
giáo đoàn, càng lớn lên, bản tính ôn nhu và hiền
từ của A Nan ngày càng tỏ rơ. Đối với quí
vị t́ kheo ni, tôn giả luôn luôn để tâm lo lắng;
đối với các tín nữ, tôn giả lúc nào cũng giúp
cho họ được an lạc. Giáo đoàn là một
nơi nghiêm cẩn, lạnh lùng, nhưng sự có mặt
của A Nan, một người vừa đẹp trai
vừa giàu t́nh cảm, đă như mặt trời xuất
hiện giữa ngày đông giá lạnh, làm ấm áp biết
bao con tim nữ giới! Đă thế, dung mạo của
tôn giả làm cho ai trông thấy cũng sinh ḷng cảm
mến, cho nên tôn giả là người được phái
nữ ở cả trong và ngoài giáo đoàn sùng kính nhất.
Nếu không có tôn
giả A Nan th́ nữ giới có được phép xuất
gia và lập nên chúng t́ kheo ni trong giáo đoàn hay không,
điều đó khó mà nói chắc được. Tại
v́, thực tế là, việc nữ giới được
Phật cho phép xuất gia là hoàn toàn nhờ vào công sức
của tôn giả.
Nguyên v́, Phật
thành đạo được năm năm th́ vua Tịnh
Phạn tạ thế. Di mẫu của Phật là thái
hậu Kiều Đàm Di (Gautami - Gotami, em ruột của
cố thái hậu Ma Da - Mahamaya) đă suy nghĩ rất
nhiều và rất lấy làm cảm khái về
trường hợp các vương tử ḍng họ Thích Ca
như Bạt Đề, A Na Luật, A Nan, Nan Đà v.v... và
cả vương tôn La Hầu La nữa, đều đă
được theo Phật xuất gia từ trước.
Niệm lành bỗng chốc phát sinh, bà cũng xin Phật
cho phép bà được đi xuất gia. Khi bà vừa
ngỏ lời lần thứ nhất, Phật liền từ
chối ngay. Bà thỉnh cầu lần thứ nh́, rồi
thứ ba, Phật đều dứt khoát không chấp
thuận. Sau đó, v́ không muốn để bà phải kèo
nài lôi thôi. Phật đă dẫn tăng chúng sang hành hóa
ở thành phố kế cận là T́ Xá Li, và ngụ tại
tu viện Na Ma Đề Ni. (Lúc đó Phật và tăng
chúng vừa tổ chức xong tang lễ của vua Tịnh
Phạn và đang giáo hóa tại kinh thành Ca T́ La Vệ - Chú
thích của người dịch).
Dù bị Phật
từ chối đến ba phen, nhưng bà vẫn không
nản chí. Bà đă tập hợp được năm
trăm phi tần và cung nữ thuộc ḍng họ Thích Ca có
cùng chí hướng với bà. Họ cạo tóc, cùng kéo nhau
đi bộ đến thành T́ Xá Li. Đường từ
Ca T́ La Vệ đến T́ Xá Li dài hơn hai ngh́n dặm.
Những người cung nữ đă quen sống trong thâm
cung, chỉ cần lên gác xuống lầu một lúc cũng
đă thấy mệt nhọc, thế mà giờ đây quí bà
tự biến ḿnh thành t́ kheo ni, với ba y một bát,
đi chân tràn suốt hơn hai mươi ngày
đường! Sự việc đó đă làm kinh hoàng
những người ở hai bên đường. Ḷng
đầy hiếu ḱ, họ kéo nhau ra đường
để coi tận mắt đoàn ni cô hoa nhường
nguyệt thẹn. Nhiều người cảm mến quí
bà đến nỗi đă mang thật nhiều lương
thực theo quí bà cho đến tận tu viện Na Ma
Đề Ni.
Khi quí bà
đến tu viện th́ trời đă hoàng hôn. V́ không quen
đi bộ như vậy, nên tất cả đều
cảm thấy quá mệt mỏi, thở không ra hơi, h́nh
dung tiều tụy. Họ không dám vào thẳng trong tu
viện mà cứ lẩn quẩn ở ngoài cổng.
Nhưng thật may mắn, vừa lúc đó th́ A Nan từ
trong đi ra. Trông thấy thái hậu và đoàn cung nữ
đều mặc áo cà sa, ḿnh dính đầy bụi,
mặt tràn nước mắt, vốn người giàu t́nh
cảm, tôn giả xúc động kêu lên sửng sốt:
- Lệnh bà cùng quí
công nương làm sao vậy?
Thái hậu
Kiều Đàm Di đáp:
- Chúng tôi v́ cầu
đạo, nguyện bỏ gia đ́nh nhà cửa, từ xa
đến đây xin được xuất gia. Nếu
đức Thế Tôn lại từ chối th́ chúng tôi
nguyện chết tại đây chứ không trở về
nữa!
Lời lẽ chí
thành của thái hậu làm tôn giả thêm xúc động. Tôn
giả an ủi quí bà:
- Xin lệnh bà cùng
quí công nương yên tâm. Trông thấy t́nh cảnh này
của quí bà, tôi cũng rất ái ngại. Xin quí bà
đứng chờ ở đây. Tôi sẽ vào tŕnh ngay lên
đức Thế Tôn và xin Người chấp thuận
lời cầu xin của quí bà.
Tôn giả liền
trở vào, đem tâm nguyện cùng t́nh cảnh của thái
hậu và năm trăm cung nhân tŕnh lên Phật, đồng
thời cầu xin Ngài thương xót mà chấp thuận
cho họ được xuất gia. Nhưng Ngài vẫn
không chấp thuận:
- Này A Nan! Như
Lai hiểu và thương họ lắm chứ, nhưng v́
sự trường tồn của chánh pháp, thầy hăy ra
nói với họ rằng Như Lai từ chối lời thỉnh
cầu của họ.
Tôn giả không
nỡ ra từ chối với họ, vẫn cố nài
nỉ Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nếu người nào khác th́ con đă ra từ chối
rồi, nhưng đây là bà di mẫu của Thế Tôn,
nếu nhất định không chấp thuận th́ hậu
quả thê thảm sẽ xảy ra; v́ bà đă quyết tâm
rằng, nếu Thế Tôn từ chối lần này nữa
th́ bà và tất cả cung nữ đi theo đều
nguyện chết tại chỗ chứ không chịu
trở về!
- Này A Nan! Trong
tăng đoàn thật không nên chấp nhận cho nữ
giới xuất gia.
V́ vận
động cho nữ giới mà tôn giả đă hết
sức biện bạch:
- Bạch Thế
Tôn! Không lẽ trong Phật pháp lại có sự phân biệt
nam nữ sao?
- Này A Nan! Ở
trong Phật pháp, tất cả chúng sinh đều b́nh
đẳng, cơi trời hay cơi người đều
giống nhau, cũng không phân biệt nam nữ. Nữ
giới cũng có quyền tin tưởng như nam
giới, tu học như nam giới, chứng quả
như nam giới, nhưng không nhất định phải
xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế chứ
không phải là vấn đề b́nh đẳng nam nữ.
Nếu nữ giới xuất gia th́ cũng giống như
trong đám ruộng tốt mà mọc lên cỏ dại, lúa
thu hoạch sẽ không được bao nhiêu.
Phật là
người thấy xa biết rộng, lời nói của
Ngài tất nhiên mang ư nghĩa sâu xa. Đứng về
mặt nhân bản th́ đương nhiên nữ giới
phải được phép xuất gia, nhưng đứng
về mặt pháp lí th́ nam nữ cùng tu học chung một
chỗ vẫn là điều bất ổn. Lí trí và t́nh
cảm là hai con đường đối nghịch,
để rồi có người v́ t́nh cảm mà từ
bỏ con đường tu tập; đó là một lẽ
khiến cho Phật không chấp thuận cho nữ giới
xuất gia. Mặt khác, cũng có thể v́ tâm tính nữ
giới nặng về ham chuộng hư danh và kiêu căng
ngă mạn hơn nam giới mà Phật không muốn cho
họ xuất gia để ngầm ư răn dạy.
Nhưng dù có thế nào, A Nan cũng không dám làm điều
ǵ trái ngược với ư chỉ của Phật, mà
chỉ dùng lời lẽ thiết tha để khẩn
cầu. Tôn giả vừa đảnh lễ Phật,
vừa thưa trong nước mắt:
- Bạch Thế
Tôn! Thế Tôn có thể nh́n quí bà chết mà không đưa
bàn tay từ bi ra cứu vớt sao!
Phật biết
rằng, trên thế gian này, nhiều lúc cũng không thể
làm cho chu toàn giữa pháp lí và t́nh cảm được.
Phật cũng thấy rơ rằng, v́ sự tương quan
tương duyên mà trên thế gian này không thể có một
pháp nào tuyệt đối trong sạch, thường c̣n và
không hư hoại. Bởi vậy, sau một phút im lặng
quán chiếu, Phật bảo A Nan:
- Thôi vậy,
chẳng c̣n cách nào khác hơn, thầy hăy ra mời họ
vào!
Lệnh của
đức Phật vừa ban ra, A Nan hân hoan không tả,
lập tức ra ngoài báo tin. Thái hậu cùng đoàn cung
nữ vừa nghe tin cũng vui mừng đến chảy
nước mắt. Họ vào ra mắt Phật. Thấy
họ bằng thái độ nghiêm nghị hơn lúc b́nh
thường, Phật chấp thuận cho họ xuất
gia làm t́ kheo ni, với điều kiện là họ phải
tuân giữ “Tám Phép Ḥa Kính” đối với chúng t́
kheo.
Do sự ủng
hộ nhiệt t́nh của tôn giả A Nan mà rốt cục
chúng t́ kheo ni đă được thành lập. Ni
trưởng Kiều Đàm Di đă tỏ ra vô cùng cảm
kích ân đức của tôn giả. Bà thành khẩn bộc
bạch với tôn giả niềm hoan hỉ của bà:
- Bạch
Đại Đức! Chúng tôi xin vâng lời đức
Thế Tôn, nguyện tuân giữ “Tám Phép Ḥa Kính”, bởi v́,
có tám phép này, chúng tôi cũng giống như người
đẹp mà có được y trang lộng lẫy!
Cho nên biết,
sở dĩ tăng đoàn ngày nay cho phép nữ giới
xuất gia, đó là công lao ngày xưa của tôn giả A
Nan. Này quí vị tín nữ, hăy cảm tạ ân đức
của tôn giả đi!
Cũng v́ công
đức đó mà tôn giả có duyên đặc biệt
đối với nữ giới: Tôn giả là người
được nữ giới tôn kính nhất.
3.-
NẠN MA ĐĂNG GIÀ:
Tuổi trẻ
đẹp trai như A Nan cũng là nguyên do gây ra nhiều
chuyện rắc rối. Một ngày nọ, A Nan ôm bát vào
thành Xá Vệ khất thực. Trên đường về
tôn giả thấy khát nước. Nhân đi ngang một cái
giếng, tôn giả thấy một cô gái ḍng hạ tiện
đang đứng kéo nước, liền ghé vào nói:
- Thưa cô! Xin cô
vui ḷng cho tôi gáo nước!
Cô gái quay lại
nh́n, thấy một vị t́ kheo trẻ tuổi,
tướng mạo uy nghiêm, liền nhận ra đó là tôn
giả A Nan. Cô nh́n lại trang phục của ḿnh th́ tự
lấy làm xấu hổ. Cô nói:
- Bạch
Đại Đức! Không phải con tiếc ǵ một ít
nước, nhưng sự thật là con vốn thuộc
ḍng hạ tiện, nên không có tư cách để cúng
dường Đại Đức.
- Thưa cô! Tôi là
kẻ tu hành. Trong tâm tôi không bao giờ có niệm phân
biệt về sang hèn, trên dưới.
Cô gái nghe nói thế
th́ ḷng rất vui, liền dâng nước cúng dường.
Tôn giả uống xong, nói lời cám ơn, rồi lặng
lẽ bước đi, nhưng cũng trong lúc ấy,
mối t́nh đầu bỗng như vùa chớm nở trong
ḷng cô thiếu nữ! Bất giác nàng đưa mắt
đắm đuối nh́n theo bóng dáng xa dần của A
Nan. Ôi, cái dáng vẻ của con nhà vua chúa trông cao sang quí phái
như thế kia! Giọng nói nhỏ nhẹ, êm ái như
thế kia! Tất cả như một nét bút vừa vẽ
đậm lên trái tim trong trắng của nàng, không làm sao xóa
nḥa được. Nàng mơ màng mong ước: “Giá ḿnh
được gả cho người ấy th́ hạnh phúc
biết chừng nào!”
Nàng về nhà mà tâm
trí cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, cơm nước
không màng, việc nhà biếng nhác, suốt ngày chỉ
nằm để tưởng nhớ bâng khuâng. Bị mẹ
cật vấn, lúc đầu nàng không chịu nói. Nhưng
hỏi đến lần thứ ba th́ nàng xin mẹ
phải mời cho được tôn giả A Nan về nhà,
v́ nàng tin rằng, thế nào tôn giả cũng chịu làm
chồng nàng. Bà mẹ cảm thấy việc này vô cùng khó
khăn, - một người đă xuất gia làm t́ kheo, mà
lại là người thuộc ḍng vua chúa, th́ làm sao có
thể làm rể nhà này được! Nhưng v́ ḷng bà quá
thương con, không làm cũng không được! Bà bèn
nhờ một vị “thầy pháp” giỏi ma thuật giúp
cho một câu thần chú. Cứ chờ đến khi A Nan
đi khất thực qua nhà th́ liền đọc thần
chú, làm cho tâm trí tôn giả mê loạn.
Thần chú có linh
nghiệm hay không th́ không biết, nhưng sự thật là
A Nan đă bị mê hoặc v́ cô thiếu nữa này Khi tôn
giả đi ngang qua nhà nàng th́ nàng đứng trước
nhà nh́n tôn giả mỉm cười, rồi vẫy tay
mời gọi. Tôn giả như mê như tỉnh,
bước thẳng vào nhà thiếu nữ. Nàng vừa
mừng, vừa thẹn, cứ cuống cả lên, chưa
biết phải làm ǵ. Giữa lúc đó th́ tôn giả
bừng tỉnh, tự biết ḿnh là t́ kheo, đă thọ
đại giới. Tôn giả nghĩ ngay đến
Phật, Nhờ oai lực của Phật gia hộ, trí
tuệ tôn giả sáng hẳn lên, và như là Phật đang
cho nổi một luồng gió mạnh để bảo
hộ và đưa tôn giả trở về tu viện Ḱ
Viên.
Ngày hôm sau, với tâm
trí hoàn toàn định tĩnh, tôn giả lại ôm bát vào
thành khất thực. Nhưng thật lạ lùng, hôm nay cô
thiếu nữ kia lại mặc áo mới, đeo tràng hoa,
đứng sẵn bên đường tự lúc nào
để chờ tôn giả! Khi tôn giả vừa đi
tới th́ nàng liền bám sát theo sau, như con thiêu thân bu theo
ngọn đèn, không rời nửa bước. Tôn giả
quưnh quáng, nhất thời chưa biết làm cách nào, bèn quay
về tu viện tŕnh sự việc lên Phật. Phật
bảo tôn giả đi gọi thiếu nữ đến
gặp Ngài, v́ Ngài muốn nói chuyện thẳng với nàng.
Tôn giả vừa ra đến cổng th́ đă thấy
nàng đứng đợi ngay ở đó. Tôn giả
hỏi:
- Sao cô theo tôi hoài
vậy?
- Thầy thật là
một anh chàng ngốc mới hỏi một câu hỏi
như vậy!
- Phật cần
gặp cô. Mời cô hăy theo tôi!
Nghe nói đến
Phật, nàng cảm thấy lo sợ. Nhưng v́ quyết
phải chiếm được A Nan nên nàng cố mạnh
dạn lên, theo A Nan vào yết kién Phật, Phật hỏi:
- A Nan là một
người tu hành. Muốn được làm vợ A Nan
th́ trước hết cũng phải đi tu một
năm, con có bằng ḷng không?
Nàng ngạc nhiên quá,
đâu có dè Phật lại hiền từ đến
độ đó! Nàng nghĩ, chuyện này quá dễ,
chẳng qua chỉ làphương tiện để thành
toàn cho ḿnh mà thôi. Cho nên nàng chịu liền:
- Bạch Thế Tôn!
Con bằng ḷng!
Theo pháp chế
của ta th́ việc xuất gia của con phải
được cha mẹ chấp thuận. Vậy con có
thể mời cha mẹ đến đây để
chứng kiến việc xuất gia của con hay không?
Nàng lại nghĩ,
Phật không chút ǵ làm khó ḿnh. Điều kiện của
Người thật quá dễ thực hiện. Nàng bèn
chạy một mạch về nhà mời mẹ cùng lên tu
viện. Trước mặt Phật, mẹ nàng rất hoan
hỉ, muốn con gái bà đi tu một năm cũng
chẳng sao, miễn là sau đó được làm vợ A
Nan th́ thôi.
Với niềm vui
sẽ cùng A Nan thành chồng vợ, nàng vô cùng hân hoan
được cạo tóc, mặc áo cà sa để trở
thành t́ kheo ni. Ni cô mới mẻ này rất siêng nghe Phật
nói pháp, rất tinh tấn trong việc tu tập. Cô hoàn toàn
ḥa nhập vào nếp sống sinh hoạt tu học cùng
với bao sư tỉ, sư muội khác trong ni chúng.
Từ đó, tâm si t́nh đầy dục vọng của cô
mỗi ngày lắng xuống dần. Không đầy nửa
năm từ ngày xuất gia, một hôm chợt nhớ
lại hành vi đầy ái dục của ḿnh ngày
trước, cô cảm thấy hổ thẹn vô cùng!
Phật thường nhắc nhở, năm thứ dục
vọng đều là pháp bất tịnh, là nguồn
gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân v́ không
hiểu biết nên tự gieo ḿnh vào lửa để
bị chết cháy! Loài tằm không hiểu biết nên
cứ nhả tơ để trói lấy ḿnh! Nếu không
vướng mắc vào năm thứ dục vọng kia th́ tâm
ư sẽ được thanh tịnh, cuộc sống
sẽ được tự tại an vui.
Một hôm, trong lúc
tâm ư đă trở nên thật tĩnh lặng, cô chiêm
nghiệm lại và thấy rơ tư tưởng luyến ái
của ḿnh đối với tôn giả A Nan là hoàn toàn
lầm lỗi, bèn đi t́m Phật để tỏ ḷng sám
hối:
- Bạch Thế Tôn!
Con thấy là con vừa tỉnh một cơn mộng. Không
ngờ là ngày trước con lại ngu si dại dột
đến mức đó. Con nay đă chứng thánh quả,
c̣n vượt cả tôn giả A Nan. Con vô cùng cảm kích ân
đức của Thế Tôn, v́ lũ chúng sinh ngu si chúng con
mà Thế Tôn phải nhọc ḷng và đă dùng biết bao
phương tiện để hóa độ. Từ nay con
nguyện suốt đời làm t́ kheo ni, nguyện theo gót
Thế Tôn mà làm sứ giả của chân lí.
Sự giáo hóa khéo léo
của Phật cuối cùng đă chuyển hóa
được tâm tham dục của cô thiếu nữ, làm
cho cô tỉnh ngộ và trở về với bầu
trời trong sáng, trở thành một vị t́ kheo ni mẫu
mực. Người ta thường gọi cô là con gái
của ḍng họ Ma Đăng Già (Matangi). Đó là cô gái
đầu tiên thuộc ḍng hạ tiện đă
được Phật chấp thuận cho xuất gia.
Với chế độ giai cấp khắt khe của xă
hội Ấn Độ thời ấy, khi sự việc
này được truyền ra ngoài, rất nhiều
người phê b́nh, phản đối, nhưng Phật
vẫn chủ trương của ḿnh là tất cả
mọi người đều b́nh đẳng; như
trăm sông chảy vào biển cả, tất cả mọi
người thuộc mọi ḍng giống, khi đă xuất
gia th́ đều cùng một họ Thích Ca. Con gái của ḍng
Ma Đăng Già, v́ yêu mến dung mạo đẹp
đẽ của tôn giả A Nan mà đă chuyển họa
thành phúc. Đó là một câu chuyện đẹp đă
được lưu truyền và nhắc nhở trong
tăng đoàn từ mấy ngh́n năm!
4.-
THUYẾT PHÁP CHO T̀ KHEO NI:
Vừa đẹp
trai lại vừa giàu t́nh cảm, tôn giả A Nan không
những đă làm cho các cô gái thế tục mê mệt theo
đuổi, mà cả đến một số các ni cô
cũng động tâm luyến mộ. Đối với ni
chúng, tôn giả luôn luôn hết ḷng giúp đỡ; thêm vào
đó, tôn giả lại rất có duyên, cho nên đă
được các ni cô đặc biệt mến mộ.
Chẳng hạn, một lần nọ, tôn giả và tôn
giả Đại Ca Diếp cùng đi hành hóa. Khi tới
một ni viện, tôn giả đă được các ni cô
mời lên pháp tọa trước, rồi sau đó mới
mời đến tôn giả Đại Ca Diếp; mặc
dù về tuổi đời, tuổi đạo, giới
hạnh, tôn giả đều kém thua tôn giả Đại
Ca Diếp, nhưng các cô không cần để ư đến
những điều đó.
Trong đời
sống xuất gia, tâm lí mỗi người giống
như một băi chiến trường, ở đó, lí trí
và t́nh cảm luôn luôn giao chiến với nhau thật mănh liệt.
Nếu lí trí thắng th́ hành giả thành Phật, thành
Tổ; nếu t́nh cảm thắng th́ vẫn là phàm phu
tục tử, nhưng nói cho cùng, nếu bảo những
người đă xuất gia phải giống như cây
khô, tro nguội, hoàn toàn không của có một tí t́nh cảm
nào, th́ cũng là điều khó có thể có được.
Trong ni viện
gần tu viện Ḱ Viên, có một ni cô trẻ tuổi
đang tu học. Thấy A Nan có phong thái nhu ḥa văn nhă, cô
đă ngày đêm ôm ấp ưu tư. Nhưng khổ
nỗi, như cổ ngữ Trung Hoa có nói: “Nam nữ
thọ thọ bất thân”, huống chi kia là chốn
tăng viện nghiêm cẩn, ngăn cách! Cho nên, dù cô có
thương trộm nhớ thầm tôn giả đi
nữa th́ cũng không có cách ǵ vượt qua phạm vi
giới cấm; cùng lắm th́ cũng chỉ cố nh́n
trộm được vài cái mà thôi, c̣n muốn ǵ khác th́
hoàn toàn vô vọng. Cho đến một hôm, cô bị
bệnh. Cô nhờ người sang nhắn riêng với tôn
giả: “Thưa thầy, con đang bệnh nặng,
sợ khó qua khỏi, xin thầy từ bi ghé sang thăm con
một lần”. Lời yêu cầu thật đáng
thương đó đă làm cho tôn giả cảm
động. Sáng hôm sau, trước khi vào thành khất
thực, tôn giả tiện đường ghé vào thăm
cô. Lúc tôn giả bước vào, cô đang nằm trên
giường, áo chăn xốc xếch. Cô đă nh́n tôn
giả một cách say đắm bằng cặp mắt
đầy t́nh tứ. Nh́n thấy thái độ ấy, tôn
giả bỗng hiểu rơ tâm ư cô, cho nên không nói không
rằng, tôn giả quay lưng bỏ đi. Thấy
vậy, cô cũng hiểu ra rằng, tôn giả bỏ
đi mà không nói một lời là tại v́ tôn giả không
bằng ḷng về hành vi vừa rồi của ḿnh. Cô thật
thấy hổ thẹn, bèn ngồi bật dậy, lấy
áo mặc vào đàng hoàng, rồi trải tọa cụ ra,
chạy theo năn nỉ tôn giả trở lại, mời
ngồi xuống tọa cụ. Sau khi ngồi xuống, tôn
giả khai thị:
- Sư cô!
Người tu hành không nên dùng các thứ dơ dáy để
nuôi dưỡng thân mạng, không nên dùng sự kiêu mạng
để nuôi dưỡng tâm tính, không nên chứa chấp
những ư tưởng ái dục. Trong lúc bện hoạn,
sư cô nên để thân tâm nghỉ ngơi trong trạng
thái tĩnh lặng, hoàn toàn không có ǵ để mong cầu,
th́ bệnh sẽ rất chóng khỏi.
Nhưng dường
như lúc này cô đă quên mất ḿnh là người xuất
gia, vẫn cúi đầu mà nói trong nghẹn ngào:
- Không phải là con
không hiểu những điều thầy dạy. Không có
cơm ăn, áo mặc, con có thể chịu đựng
được, chỉ có t́nh yêu đối với thầy,
dù con đă rất cố gắng, nhưng không làm sao
chế ngự được. Làm người, v́
để giữ ǵn thân mạng và an ổn tâm hồn, làm
sao mà không có điều mong cầu thưa thầy!
- Không phải
vậy đâu, sư cô! Tất nhiên là chúng ta cần cơm
ăn, áo mặc, và chỗ ở để giữ ǵn thân
mạng, nhưng giữ ǵn thân mạng là để tu tập.
Có tu tập th́ tâm ư mới an ổn. Quên việc tu tập
mà chỉ mong cấu các thứ dục lạc giả
dối để nuôi dưỡng thân tâm là điều vô
cùng lầm lẫn. Người đi buôn bơm dầu
mỡ vào xe là để làm cho xe chạy dễ dàng, chứ
không có ư tưởng đắm trước ǵ đối
với những thứ dầu mỡ đó; người
bị ghẻ chóc th́ xức dầu lên da để trị
ghẻ, tuyệt nhiên không phải v́ trang sức thân thể
hay muốn chuyện vui. Cũng vậy, chúng ta muốn nuôi
thân, an tâm, th́ phải chặt đứt niệm ái dục,
đánh tan những ư tưởng ham vui, chuyển hóa tâm
hữu lậu. Hăy t́m đến với đạo chân
thật mà đừng để bị mê hoặc bởi
những pháp hư huyễn, vô thường.
Do đang yêu mà cô
chăm chú nghe. Nhờ chăm chú nghe mà cô thấy
được chỗ sâu xa, rồi tâm như bị
chấn động, tức khắc dứt được
niệm ái dục, và được pháp nhăn thanh tịnh.
5.-
BỊ DÈM PHA V̀ CHIA BÁNH:
V́ cứ phải
dính líu đến những vấn đề liên quan tới
nữ giới mà A Nan thường phải chuốc lấy
những điều phiền phức, như bị ganh
ghét, bị phê b́nh. Chính đức Phật cũng nhiều
khi rất khổ tâm v́ những chuyện ấy dù biết
rằng tôn giả luôn luôn đối xử với nữ
giới bằng một tâm niệm thuần khiết. Tôn
giả không bao giờ đi t́m các cô, tôn giả không bao
giờ có tâm niệm luyến ái; cứ xem lại câu
chuyện tôn giả giáo hóa cho vị t́ kheo ni trẻ
tuổi ở trên th́ đủ rơ.
Thực ra, trong
đời sống thế tục, trai gái yêu thương
nhau không phải là tội lỗi, nhưng trong đời
sống tăng đoàn th́ bất cứ hành vi nào có dính dáng
tới nữ giới, đều bị coi là hành vi không
trong sạch. Dù quí thấy có đối với nữ
giới bằng một ư niệm thuần chính th́ cũng
bị coi là không được trong sáng.
Một hôm, lúc
Phật đang trú tại thành Xá Vệ, có một vị thí
chủ nấu thật nhiều bánh nếp đem
đến cúng dường. Phật bảo A Nan đem bánh
chia cho đại chúng. Sau khi chia xong, số bánh c̣n lại
vẫn rất nhiều. Phật bảo tôn giả đem
chỗ bánh c̣n lại ấy chia cho những người
nghèo khổ ở trong thành. Tôn giả vâng mệnh, đi
mời hết đám dân nghèo đến, tính ra cũng có
tới vài ngh́n người. Tôn giả xem chừng số
người và số bánh th́ có thể mỗi người
cũng được một cái. Tôn giả bèn theo thứ
tự bắt đầu phân phát bánh. Khi đến lượt
một cô gái vô cùng xinh đẹp thuộc giáo phái Lơa H́nh th́
tôn giả bốc trúng một cặp bánh dính nhau, không tách ra
được. Chẳng biết làm sao, tôn giả đưa
nguyên cặp bánh ấy cho cô gái. Đó là một việc
hết t́nh cờ, và tôn giả rất vô tâm, nhưng
tức khắc nó đă trở thành đầu đề
dèm pha cho những kẻ vẫn quen xấu miệng và
đầy ác ư. Họ riễu cợt: “Đại
đức A Nan đẹp trai kia đă chia cho cô gái diễm
lệ nọ những hai cái bánh, chắc là giữa họ
đă có t́nh ư ǵ với nhau rồi!” Nghe được
những lời đàm tiếu kia, tôn giả cảm
thấy không vui. Con người thật đáng sợ,
thật chẳng biết cư xử ra sao mới
được! Làm người tu hành đă là điều
khó, mà nhiều người trong xă hội, v́ cho
rằng tu hành th́ phải nhẫn nhục, cho nên họ
cứ thích chọc ghẹo, trêu cợt, quấy phá, cốt
làm cho tổn thương tâm đạo của
người tu hành!
Đức
Phật thường nhắc nhở các đệ tử
nên tránh mọi trường hợp có thể làm cho
người ta dèm pha, nhất là về vấn đề
trai gái. Chẳng cần biết công phu tu tập của ḿnh
cao thấp thế nào, chỉ cần có người chê
cười ḿnh có liên hệ nọ kia với nữ
giới, là ḿnh không dám ngẩng mặt nh́n ai
được! Thực ra, đối với những
vị tu hành chưa chứng quả thánh mà bảo hoàn toàn
không bị nữ sắc mê hoặc th́ cũng thật khó.
Dù biết vậy, khi mọi người đă quyết tâm
tu tập th́ đối với ái dục phải luôn luôn
đề cao cảnh giác, quyết chí đề pḥng cho
thật cẩn thận mới được. Tôn giả A
Nan thường bị nhiều khổ năo do nữ giới
mang đến, cho nên một hôm, nhân tĩnh tọa ở
một nơi vắng lặng, tôn giả đă quán
niệm: “Con người do ái dục mà sinh ra. Hằng
ngày họ sống trong biển sóng ái dục cuồn
cuộn mà không biết chán. Người ta một mặt
th́ vui thích thụ hưởng ái dục! một mặt
lại cười chê người khác theo đuổi ái
dục! Ái dụ luôn luôn đem đến cho người
đời bao nhiêu khổ năo và tranh chấp; cho nên
đức Thế Tôn thường quở trách về tâm
luyến ái, thật là chí lí!”.
Từ
trước đến giờ tôn giả chưa từng có
những ư nghĩ như thế. Hôm nay, nhân v́ chuyện chia
bánh cho một cô gái mà bị mang tiếng, cho nên tôn giả
mới thấy thấm thiá t́nh đời. Bởi vậy,
khi hoàng hôn xuống, tôn giả rời chỗ ngồi,
sửa áo ngay ngắn, về chỗ Phật ngự, đem
hết những ư nghĩ vừa qua tŕnh lên. Phật chú ư
lắng nghe, nhân đó kể cho tôn giả nghe một câu
chuyện tiền thân của Ngài như sau:
- Này A Nan! Thầy
nói rất đúng, người đời mê đắm
trong biển ái dục mà không bao giờ biết nhàm chán. Ngày
xưa có một vị quốc vương tên gọi
Đỉnh Sinh. Ông đem tinh thần chánh pháp để
trị dân, không dùng h́nh phạt mà bao nhiêu kẻ xấu
đều hướng thiện, nhưng v́ không thỏa măn
với cương thổ hạn hẹp của
nước ḿnh, ông đă đi chinh phục các nước
khác Ông đến đâu cũng được mọi
người qui thuận và ca tụng là một vị
quốc vương nhân đức. Vậy là ông đă
toại nguyện trong việc chinh phục. Ông lại
được các nước dâng cho vô số gái
đẹp, tha hồ chọn lựa. Thế là ông bị đám
gái đẹp vây quanh. Ḷng dục của ông dâng lên cuồn
cuộn, bao nhiêu gái đẹp hầu hạ ngày đêm
vẫn chưa vừa ḷng, ông c̣n giết vua nước khác
để đoạt lấy hoàng hậu. Nhân v́ tham dục
quá độ, cuối cùng ông bị dân chúng óan ghét và nổi
loạn, vương triều sụp đổ, và ông đă
phải trải qua những ngày cuối cùng của cuộc
đời thật thê thảm! Thầy A Nan! Nếu không
ngăn được tâm ái dục th́ phải chuốc
lấy sự bại hoại như thế đó. Vua
Đỉnh Sinh ngày xưa là tiền thân của Như Lai.
6.-
LÀM THỊ GIẢ CỦA PHẬT:
Từ lâu Phật
đă thấy rơ A Nan là người có thể nối
truyền chánh pháp. Bởi vậy, khi thấy tôn giả
bị nạn về nữ giới quá nhiều, Phật
muốn tôn giả phải làm thị giả cho ḿnh
để tôn giả có thể tự giữ ḿnh và chuyên tâm
tu tập.
Lúc bấy giờ
là 22 năm sau ngày thành đạo, Phật đă 53 tuổi.
Lúc ấy Ngài đang trú tại tu viện trúc Lâm và tôn
giả A Nan được chọn làm thị giả
thường xuyên cho Ngài. (Theo Đường Xưa Mây
Trắng của thiền sư Nhất Hạnh th́ tôn
giả A Nan được chọn làm thị giả
thường xuyên cho đức Phật vào năm thứ 20
sau ngày Phật thành đạo; lúc đó Phật 55 tuổi.
Tôn giả đă được chọn trong một
buổi họp của quí vị trưởng lăo tại
giảng đường Lộc Mẫu ở gần tu
viện Ḱ Viên, thành Xá Vệ; chứ không phải ở tu
viện Trúc Lâm, thành Vương Xá. - Chú thích của
người dịch). trước đó, sau khi Phật
thành đạo không lâu, đă từng có quí vị
đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên hầu hạ Phật; sau đó th́ có đại
đức Ca Ba La, nhưng từ 20 năm trở lại
đây th́ Phật không có một vị thị giả
thường xuyên nào, mà việc hầu hạ Phật
đều do chư tăng thay phiên nhau.
Nhân v́, gần
về già, Phật cần có một vị thị giả
thường xuyên luôn ở bên cạnh. Cho nên một hôm
chư vị t́ kheo đă hội họp lại để
đề cử một vị đứng ra lănh trách
nhiệm này. Trong buổi họp, các vị đệ
tử thượng thủ của Phật đă có mặt
đông đủ. Trong số các vị ấy, Kiều Trần
Như (Kaundinya - Kondana) là người đầu tiên
đứng lên xin nhận làm thị giả cho Phật. Tôn
giả Kiều Trần Như nguyên là một trong những
người bạn đồng tu khổ hạnh với
Phật khi xưa. Tôn giả cũng là vị t́ kheo
đầu tiên của tăng đoàn. Dù tuổi tác có cao
hơn Phật, tôn giả vẫn nguyện đem hết
cuộc đời c̣n lại để hầu hạ
Phật, nhưng Phật không chấp thuận, v́ Ngài
thấy tôn giả đă già, chỉ mong tôn giả tự lo
mọi việc cho ḿnh cũng đă là quí lắm rồi. Sau
đó, một số quí vị khác cũng xung phong lănh trách
nhiệm, nhưng Phật đều khuyên họ nên đi
hành hóa các nơi th́ tốt hơn. Lúc ấy, Mục
Kiền Liên hiểu được ư tứ của
Phật, bèn cùng Xá Lợi Phất khích lệ A Nan rằng:
- Su huynh A Nan! Ư
của đức Thế Tôn là muốn sư huynh làm
thị giả cho Người. Ví như vào buổi sáng, khi
ṭa nhà mở cánh cửa phía Đông th́ ánh sáng sẽ
chiếu thẳng vào bức vách phía Tây. Sư huynh tuổi
c̣n trẻ, tâm ư minh mẫn, thông minh, nhu ḥa, chúng tôi hi
vọng sư huynh nhận làm thị giả cho đức
Thế Tôn.
A Nan thấy trách
nhiệm nặng nề nên không dám nhận; nhưng v́ hai vị
tôn túc khuyên bảo măi, cuối cùng tôn giả đă nhận
lời với ba điều kiện: 1) Tôn giả sẽ
không mặc y phục của Phật, bất luận cũ
mới; 2) Nếu có vị thí chủ nào thỉnh Phật
thụ trai, tôn giả sẽ không đi cùng với Ngài; 3)
Nếu không phải lúc đến gặp Phật th́ tôn giả
không đến. Ngoài ba điều kiện ấy ra, tôn
giả nguyện tuân theo ư chỉ của đại chúng
để hầu hạ Phật. (Theo Đường
Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh
th́ tôn giả A Nan đă xin Phật chấp nhận
đến 8 điều kiện: 1) Phật đừng cho tôn
giả những y áo mà thí chủ đă cúng dường Ngài;
2) Phật đừng cho tôn giả những thức ăn
mà thí chủ đă cúng dường Ngài; 3) Phật
đừng cho tôn giả ở cùng một tịnh thất
với Ngài; 4) Phật đừng cho tôn giả đi theo
khi thí chủ thỉnh Ngài thọ trai; 5) Xin Phật cùng
đi với tôn giả khi tôn giả được thí
chủ mời thọ trai; 6) Phật cho phép tôn giả
được quyền tiến dẫn hay từ chối
những người muốn tham kiến Ngài; 7) Phật cho
phép tôn giả hỏi lại những điều ǵ Ngài nói
mà tôn giả chưa hiểu; 8) Xin Phật lập lại
đại ư những bài pháp thoại mà v́ bất
đắc dĩ tôn giả đă không được nghe. -
Chú thích của người dịch). Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên đem ư nguyện của A Nan tŕnh lên
Phật. Ngài hoan hỉ chấp thuận và khen ngợi:
- A Nan là một
vị t́ kheo có phẩm cách. Những điều kiện
của thầy ấy đưa ra đều nhằm tránh
miệng tiếng dèm pha; v́ người ta có thể cho
rằng, thầy ấy v́ muốn có áo mặc nên chịu
hầu hạ Như Lai; v́ muốn có thức ăn ngon nên
chịu hầu hạ Như Lai ... Thầy ấy
đề pḥng như thế rất phải!
Từ đó tôn
giả làm thị giả thường xuyên cho Phật. Lúc
đó tôn giả khoảng trên 20 tuổi. (Theo các niên
đại đă được chính thức công nhận
về tiểu sử đức Phật, tính ra, tôn giả
A Nan được chọn làm thị giả thường
xuyên cho Phật lúc 35 tuổi, và đă hầu hạ
Phật cả thảy 25 năm. - Chú thích của
người dịch). Trong suốt 27 năm hầu
hạ Phật, mỗi hành vi cử chỉ, tôn giả
đều tuân theo lời chỉ dạy của Phật.
Ngài đi hành hoá nơi nào, tôn giả cũng luôn luôn theo sau.
V́ nhân duyên đó, Phật pháp rộng như biển cả
đều chảy hết vào tâm của tôn giả, và
cũng do được hằng ngày ở bên Phật mà
những khổ nạn về nữ giới ngày càng
bớt đi, tôn giả nghiễm nhiên trở thành cái
gạch nối giữa Phật và chư vị t́ kheo.
Sống trong
tăng đoàn, tôn giả luôn luôn tu tập các đức
tính tàm quí, khiêm nhường và cung kính. Rất đông các tín
chúng v́ quen biết tôn giả mà được bước
vào đường đạo. Tuy trước kia từng
bị nhiều phiền phức, v́ nữ giới
đến nỗi bị miệng tiếng đàm tiếu,
nhưng từ ngày gánh vác trách niệm quan trọng th́ tôn
giả đă tu dưỡng rất chín chắn.
7.-
T̀NH BẠN TRONG ĐẠO NGOÀI ĐỜI:
Đă làm thị
giả cho Phật, dù chưa chứng quả thánh, tôn
giả vẫn được tăng đoàn kính trọng
và xem ngang hàng với các vị thượng thủ. Tính t́nh
của tôn giả vốn rất nhu ḥa, khiến cho bất
cứ ai tiếp xúc với tôn giả đều cảm
thấy mát mẻ như đang đứng trước gió
xuân. Đối với người, tôn giả không bao giờ
khoe cái sở trường của ḿnh và chê cái sở
đoản của người. Tôn giả hết ḷng giúp
đỡ người, lúc nào cũng nói tới những
điều tốt đẹp của người và tránh
đề cập tới những chuyện không tốt. Có
những khi đàm luận Phật pháp với ngoại
đạo th́ tôn giả chỉ tŕnh bày cho họ thấy
những điều chân chính của Phật pháp mà không
hề đă kích những điều sai trái của
ngoại đạo. Tôn giả giống như mặt
trời ấm áp của mùa xuân, từ từ làm tan đi
băng tuyết.
Khi trú tại tu
viện Trúc Lâm, tôn giả đă từng khiến cho
ngoại đạo Câu Ca Na không dám đem những vấn
đề của ông ta đến vấn nạn tăng
đoàn. Tại công viên Cù Sư La, tôn giả đă cảm
hóa được ngoại đạo Chiên Đà, làm cho ông
ta phát tâm hoan hỉ quay về với Phật pháp. Tôn
giả không hề sử dụng thuật hùng biện
để tranh luận thao thao bất tuyệt với
người, nhưng xem những thí dụ trên th́
đủ thấy tiếng tăm của tôn giả
lừng lẫy trong giới ngoại đạo như
thế nào!
Tôn giả
được rất nhiều người, ở trong
tăng đoàn cũng như ở ngoài thế tục, thích
kết làm bạn. Tôn giả biết nghe người nói, mà
cũng biết nói cho người nghe. Bởi vậy
Phật đă từng nói, chỉ cần trông thấy h́nh
dáng và tư thái của một người th́ A Nan có
thể biết ngay tính t́nh của người ấy.
Đối với người thế tục, tôn giả
thương mến bảo hộ như mẹ hiền
đối với con cái; đối với các bậc
trưởng lăo trong tăng đoàn, tôn giả dịu dàng
dễ thương như em gái đối với các anh
chị.
Tôn giả có
một người bạn cố tri, thân thiết, tên là
Lư Di, sống tại thành Ba Bà. Một hôm Phật
dẫn chúng tăng đến đó hành hóa. Toàn thể
bộ tộc Ma La ở trong thành nghe tin đều vui mừng
hớn hở nghênh đón. Họ bảo nhau, nếu ai không
chịu đón tiếp Phật và tăng đoàn th́ phải
bị phạt một trăm lượng vàng. Lư Di
vốn chưa từng có ḷng tin đối với Phật
pháp, cho nên, ngoài người bạn quí của ông là A Nan ra,
ông không kính trọng bất cứ một vị xuất gia
nào, kể cả Phật. Tuy nhiên, trong đám đông dân
chúng đi đón tiếp Phật ngày hôm đó cũng có
mặt ông. Tôn giả thấy thế th́ ngạc nhiên vô cùng;
hỏi, th́ ông cho biết chỉ v́ sợ bị phạt
một trăm lượng vàng mà ông bất đắc
dĩ phải nghênh đón Phật! Tôn giả nghe thế th́
chưng hửng, tuy vậy, vẫn tiếp chuyện ông
một cách đậm t́nh như thuở trước. Sau
đó, nhân lúc nghỉ ngơi, tôn giả thưa chuyện với
Phật về trường hợp ông bạn Lư Di
của ḿnh. Phật cũng nghĩ như tôn giả là
Lư Di rất đáng thương, và bảo tôn giả t́m
cách khéo léo đưa ông ta đến gặp Ngài. Sau
cuộc gặp gỡ với Phật, Lư Di thấy tâm
ḿnh sáng tỏ ra, liền phát tâm qui y Tam Bảo và thọ tŕ
năm giới. Từ đó ông thường đem cúng
dường Phật những thứ cần thiết
như y phục, cơm nước, thuốc men, chăn
chiếu v.v... Riêng A Nan, từ ngày Lư Di qui y, tôn giả
đối với ông ta càng quí mến hơn nữa, v́ ngoài
t́nh bạn cố tri ra, bây giờ ông lại cùng tôn giả
đi chung một con đường, thờ chung một
thầy, bởi vậy, tôn giả đă coi ông như
người một nhà.
Một hôm v́
thiếu áo mặc. Không may, khi tôn giả đến nơi
th́ Lư Di đă đi vắng, nhưng, đă đến
chẳng lẽ lại về không! Tôn giả bèn rất
tự nhiên, bảo vợ Lư Di đem rương
quần áo của chồng ra, tự tiện chọn
lấy một chiếc áo đem về. Khi Lư Di về
đến nhà, nghe vợ thuật chuyện lại, ông
đă chạy ngay lên tu viện hỏi tôn giả:
- Con có nhiều áo
vải tốt lắm, sao thầy không chọn lấy
một chiếc mà lại lấy chiếc áo xấu như
thế?
Tôn giả trả
lời:
- Tôi không cần
đến đến vải tốt. Tôi chỉ cốt dùng
nó làm chiếc khăn tắm cúng dường cho một
vị thượng tọa giùm cho đạo hữu mà thôi.
Hai người
đối xử với nhau thân mật như thế
đó! Nhưng trong chúng có một số vị lại cho
rằng hành động này của tôn giả là không thận
trọng. Tuy nhiên, Phật đă không quở trách ǵ về
chuyện ấy.
Thầy thị
giả A Nan, tuy không có tính hoạt bát, cấp tiến
như hai tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,
nhưng cũng không quá bảo thủ như tôn giả
Đại Ca Diếp, mà v́ tính t́nh ôn nhu cho nên ở hầu
hết mọi trường hợp đều giữ
mức trung dung. Đại đức Quật Đa, v́ tâm
vướng ái dục mà muốn hoàn tục. Tôn giả
đă giúp Phật trong việc khuyến hóa vị này
trở lại đời sống tu hành. Và cũng nhờ
sự cổ lệ, giúp sức của tôn giả mà
đại đức Quật Đa đă tu tập một
cách tinh tấn cho đến khi chứng được
quả thánh. Tôn giả đă từng đứng ra ḥa
giải nhiều chuyện tranh chấp trong tăng đoàn,
khiến cho những vị tính t́nh cố chấp, ưa gây
sự nhất cũng phải tương nhượng. Tôn
giả đă từng thảo luận với tôn giả Xá
Lợi Phất về các vấn đề như “sự
tịch diệt”, “sáu sự xúc chạm” v.v... tại tu
viện Ḱ Viên; cùng đàm luận với Bạt Đà La
về nhiều loại vấn đề khác tại thành Ba
Liên Phất (Pataliputra - Pataliputta); đă từng nói pháp cho
chư tăng ở nước Câu Diệm Di (Kosambi) nghe
về những yếu điểm của sự tu tập.
Tại tu viện Đông Viên (Purvarama), tôn giả đă
từng thay mặt Phật nói pháp thoại theo lời
thỉnh cầu của chư vị t́ kheo. Tôn giả
cũng thường ca ngợi ḷng từ hiếu của
tôn giả Mục Kiền Liên và biệt tài nói pháp của
tôn giả Phú Lâu Na ... Như thế đó, tôn giả
đối với tất cả mọi người, t́nh
đời nghĩa đạo rất tṛn đầy,
đủ để chứng tỏ tấm chân t́nh cũng
như nhiệm vụ của một vị đệ
tử lớn của Phật.
8.-
NỔI KHỔ TÂM LỚN NHẤT:
Người đă
gây ra cho A Nan nổi khổ tâm và sợ sệt lớn
nhất trong đời lại chính là anh ruột của tôn
giả, t́ kheo Đề Bà Đạt Đa. Ông vốn là
một trong bảy vương tử đầu tiên
thuộc ḍng Thích Ca đi xuất gia. Có thể ông đă
xuất gia v́ ham vui bè bạn chứ không phải v́ ḷng chân
thành, bởi vậy sau khi xuất gia, ông đă không chuyên tâm
tu hành, mà chỉ khoe khoang những điều ḱ dị
để ḷe người và ôm ấp ư tưởng cầu
chứng thần thông.
Tuy là anh em
ruột, nhưng tính t́nh của Đề Bà Đạt
Đa và A Nan hoàn toàn khác biệt nhau. Tâm tính của
Đề Bà Đạt Đa vốn không chính trực, mà
cũng không biết an phận. Đă nhiều lần
Phật khuyên ông hoàn tục, thà làm một cư sĩ
tại gia để hộ tŕ đạo pháp c̣n hơn là
sống trong tăng đoàn mà gây rối ren, phiền
luỵ, nhưng ông nhất định không nghe. Ông xin
Phật dạy cho ông về thần thông, nhưng Phật
bảo ông cần phải thanh lọc thân tâm chứ không nên
ham có thần thông, v́ thần thông không thay thế
được cho đức hạnh. Ông lại không nghe
lời khuyên này của Phật, cho nên đă đến
nhờ hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên dạy thần thông cho ḿnh. Hai vị tôn giả này
biết ông tính t́nh bất chính, nên cũng từ chối
dạy thần thông mà chỉ dạy cho ông quán niệm
về những nguyên lí “khổ, không, vô thường, vô ngă”
mà thôi. Do đó, ḷng thù nghịch của ông đối
với Phật mỗi ngày một lớn. Ông nghĩ,
chỉ c̣n cách giết Phật đi th́ mối hận trong
tâm ông mới giải tỏa được; hơn thế
nữa, ông lại c̣n có thể thay Phật làm giáo chủ
của giáo đoàn!
Một ngày kia, khi
ông đang ngoạn cảnh trên đỉnh núi Ḱ Xà Quật
th́ bỗng thấy Phật cùng tôn giả A Nan đi ngang
dưới chân núi. Thật là cơ hội ngh́n năm khó
gặp! Ông bèn xô một tảng đá thật lớn cho
lăn xuống để hại Phật. Tuy có thấy
người em ruột của ông đang đi sau Phật,
nhưng ông vẫn dửng dưng, không chút động tâm
v́ t́nh máu mủ. Phật thấy tảng đá đang
lăn xuống nhưng không né tránh, c̣n tôn giả th́ vội
vàng chạy ra xa, nhưng tảng đá chưa chạm
người đức Phật th́ đă dừng lại!
Tôn giả chạy lại hỏi rối rít:
- Thế Tôn có sao
không? Chác cũng lại là ông anh của con là Đề Bà
Đạt Đa muốn ám hại Thế Tôn nữa
đây! Cảnh vừa rồi thật nguy hiểm cho
Thế Tôn quá, làm con sợ hết hồn!
Phật an nhiên
trả lời:
- A Nan ạ! Dùng
bạo lực hoặc âm mưu hiểm ác để
hại Như Lai th́ không bao giờ hại được!
Trước đây Đề Bà Đạt Đa đă
từng cho lén hành thích Như Lai; sau đó lại thả voi
say để hại Như Lai; và bây giờ th́ xô đá
để giết Như Lai; thầy đừng lo
lắng, ai tạo nghiệp th́ chịu quả báo. Không có ǵ
là nguy hiểm đối với Như Lai, nhưng nguy
hiểm thực sự là đối với thầy,
phải không A Nan, thầy xem vừa rồi thầy làm ǵ
vậy?
Định
lực của tôn giả thật không thể b́ kịp
với Phật! Việc vừa rồi làm cho tôn giả
tự thấy xấu hổ, bèn mỉm cười
thưa:
- Lúc năy v́ sợ
quá mà con đă mất tự chủ!
Phật cũng
mỉm cười, vỗ về tôn giả, rồi
thầy tṛ tiếp tục bước đi ...
Sau khi sự
việc này xảy ra không lâu, một hôm tôn giả theo
Phật đi hành hóa. Đang trên đường, bỗng
thấy Đề Bà Đạt Đa dẫn một
đoàn người từ đàng trước đi
lại, Phật liền tránh mặt, rẽ vào một con
đường nhỏ mà đi. Tuy là người ôn ḥa,
nhưng trong trường hợp này tôn giả cũng
cảm thấy không bằng ḷng, nên bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Sao Thế Tôn lại lẩn tránh Đề Bà
Đạt Đa! Sư huynh con là đệ tử
của Thế Tôn, có thể nào Thế Tôn lại sư
huynh con!
Biết ḷng tôn
giả đang bất b́nh, Phật an ủi:
- A Nan! Không
phải Như Lai sợ ông ấy, mà chỉ v́ không muốn
chạm mặt với ông ta đó thôi. Tâm tính ông ta hiện
chứa đầy những tư tưởng hung ác, cho nên
tránh gặp mặt ông ta th́ vẫn hơn; vả lại,
đâu nhất thiết chúng ta phải chạm trán với
người ḷng dạ đen tối, phải không A Nan?
Ở thời
buổi này, những trường hợp thầy phải
nhường đường cho học tṛ giống như
trường hợp Phật và Đề Bà Đạt Đa
thuở xưa cũng không phải là ít vậy!
Một hôm khác,
Đề Bà Đạt Đa lại đến quấy
nhiễu đạo tràng của Phật. Lúc đó đang
tĩnh tọa trong tịnh thất, bên ngoài, ông đứng
trước đại chúng nói thật lớn:
- Tất cả
những vị tin theo tôi th́ hăy đứng sang bên này!
Cả đại
chúng không ai buồn nh́n đến ông ta. Ông quắc mắt
nh́n về phía A Nan, giọng trách cứ:
- A Nan! Mi là em
ruột ta mà cũng không theo ta sao?!
Dù vẫn rất ḥa
nhă, nhưng tôn giả cũng đă bực bội lắm
rồi, đă không thể nhịn được nữa
rồi, bèn nói thẳng:
- Hôm nay thật là may
mắn cho sư huynh lắm đấy! Nếu có hai vị
tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở
tại đây th́ hai vị ấy không để cho sư
huynh buông lung như vậy đâu. Đức Thế Tôn
đang tĩnh tọa, xin sư huynh không nên làm huyên náo.
Sư huynh hung ác như vậy tất sau sẽ gánh lấy
quả báo xấu xa. Em thật là lo buồn cho sư huynh!
Đề Bà
Đạt Đa giận tái mặt, cơ hồ muốn
đánh tôn giả, nhưng khi ông nh́n thấy người em
ḿnh xưa nay chưa bao giờ tức giận đến
thế, bất giác tay ông chùn lại, rồi không nói không
rằng, bỏ đi một mạch.
Không bao lâu, quả
báo nhăn tiền đă đến với Đề Bà
Đạt Đa, và ông đă phải chết một cách vô
cùng thảm thiết. Riêng tôn giả A Nan, khi nghĩ
đến ḿnh có một người anh như vậy, ḷng
thấy đau buồn khôn tả!
9.-
MỘNG VÀ NHỮNG DỰ ĐOÁN:
Trong 27 năm làm
thị giả cho đức Thế Tôn, tôn giả A Nan
đă tỏ ra có khả năng quán xuyến mọi công
việc. Từ quí vị t́ kheo, t́ kheo ni, cho đến các
tín đồ tại gia, ai muốn tham bái Phật, tôn
giả đều sắp đặt giờ giấc thích
hợp. Quí vị, ti kheo từ các địa phương
xa xôi về thăm Phật, trong khi chờ được
diện kiến, họ đều tỏ ra rất vui
vẻ được đàm đạo cùng tôn giả;
đó cũng chỉ v́ cách đối xử luôn luôn thân thiết
của tôn giả dành cho mọi người. Quí vị t́
kheo ni rất thích được nghe tôn giả chỉ
bảo. Mỗi khi nghe tôn giả nói: “Này quí sư tỉ,
sư muội, hăy giữ ǵn giới luật một cách
cẩn trọng đó nghe!” là họ răm rắp vui
vẻ tuân hành. Các tín đồ tại gia nam nữ cũng
rất thích nghe tôn giả nói pháp. Tôn giả thường
dạy họ tôn kính Tam Bảo, thọ tŕ năm giới,
phụng dưỡng cha mẹ, cúng dường chúng
tăng.
Ngày tháng qua mau, theo
Phật đi hành hóa các nơi, mới đó mà tôn giả
đă hơn 50 tuổi! Một hôm, Phật đang nói pháp
cho vua Ba Tư Nặc tại thành Xá Vệ, th́ trông thấy
sắc diện A Nan lộ rơ nét ưu sầu một cách
khác thường. Phật hỏi nguyên do th́ tôn giả
bạch rằng, trong một đêm kia tôn giả nằm
mộng thấy bảy sự việc lạ lùng chưa
từng có, khiến cho tâm thần cứ bị hoảng
hốt. Phật lại hỏi:
- Bảy sự
việc ǵ thế?
- Bạch Thế Tôn!
Đầu tiên con thấy lửa phát cháy dữ dội,
thiêu đốt khắp cả sông biển; ngọn lửa
bốc cao đến tận trời xanh!
Nghe thế, Phật
xúc động mạnh. Ngài giải thích:
- Này A Nan! Đáng
lẽ Như Lai không nói chuyện mộng mị, nhưng rơ
ràng là giấc mộng của thầy quả thật là
bất tường. Sông biển đều bị thiêu đốt
là điềm báo trước rằng, tăng đoàn trong
đời vị lai, người thánh thiện th́ rất
ít, mà phần lờn là những phần tử xấu.
Những hạng này, tuy được hưởng sự
cúng dường đầy đủ nhưng vẫn
thường xuyên khởi xướng các vụ tranh
chấp với nhau, giống như mặt nước
đang trong xanh bỗng bừng dậy lửa dữ. A Nan,
c̣n việc thứ hai?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy mặt trời rơi xuống, cơi Ta Bà này
hoàn toàn tối đen, cả trăng sao cũng đều
biến mất!
- Này A Nan! Không c̣n
bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn, và các
vị đệ tử lớn của Như Lai cũng
lần lượt sắp nhập niết bàn! A Nan, c̣n việc
thứ ba?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy các vị t́ kheo không mặc áo cà sa do Thế
Tôn chế định. Hàng tăng chúng xuất gia th́ bị
vùi dập trong hầm hố, c̣n hàng cư sĩ tại gia
th́ dẫm lên đầu họ mà đi!
Phật thở dài
thật nhẹ, rồi giảng giải:
- Này A Nan!
Điều này ám chỉ rằng, trong đời vị lai,
rất nhiều các vị t́ kheo mở đạo tràng
diễn thuyết kinh điển, nhưng chỉ nói suông
ở cửa miệng mà không chịu hành tŕ tu tập.
Họ ganh tị nhau và t́m cách hại nhau, không sợ nhân
quả, cuối cùng phải chịu đọa lạc.
Trong khi đó th́ hàng bạch y cư sĩ thừa cơ lên
mặt, khinh miệt Tăng Bảo hễ đến chùa
viện là phỉ báng tăng chúng, phá hoại chùa tháp! A Nan,
c̣n việc thứ tư?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy quí vị t́ kheo y áo tả tơi và cứ
lẩn quẩn trong chốn chông gai.
- Này A Nan! Việc
đó nói lên rằng, trong đời vị lai sẽ có
hạng t́ kheo bỏ pháp y không mặc bỏ giới pháp
để theo thế tục hưởng lạc, vợ con
đùm đề, thật là bất hạnh cho Phật pháp!
A Nan, c̣n việc thứ năm?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy nơi rừng rậm bỗng xuất
hiện một bầy heo rừng cùng ào tới đào
gốc bốc rễ một cây chiên đàn to lớn xanh
tươi.
- Này an! Trong
đời vị lai sẽ có hạng t́ kheo chỉ lo tính
toán việc sinh kế v́ lợi dưỡng mà đem
cả Phật ra bán buôn. A Nan, c̣n việc thứ sáu?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy con voi mẹ bỏ mặc đàn voi con. Trong
khi đó, một con sư tử chết đi chưa
được bao lâu th́ ḍi bọ từ trong thân thể nó
sinh ra, rồi ḍi bọ ấy trở lại ăn thịt
nó.
- Này A Nan! Trong
đời vị lai sẽ có hạng trưởng lăo trong
tăng chúng chỉ biết lo cho lợi dưỡng riêng
tư, đối với hàng hậu sinh th́ bỏ mặc, không
lưu tâm d́u dắt, cũng như con voi mẹ bỏ
mặc đàn con, c̣n những loài dọ bọ sinh ra từ
thân thể sư tử rồi trở lại ăn
thịt sư tử là ám chỉ rằng, sẽ không có hàng
ngoại đạo nào có thể hủy hoại
được Phật pháp, mà chỉ có chính những hàng
đệ tử xuất gia cũng như tại gia
của Phật mới tụ hủy hoại Phật pháp mà
thôi. A Nan, c̣n việc thứ bảy?
- Bạch Thế
Tôn! Con thấy đầu con đội núi Tu Di, nhưng con
không cảm thấy nặng chút nào.
Nét mặt như
đượm chút ngậm ngùi, Phật dạy:
- Này A Nan! C̣n ba
tháng nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn. Sau đó,
toàn thể tăng đoàn, quần chúng và chư thiên sẽ
tín nhiệm và yêu cầu thầy kết tập kinh
điển.
Lời giải
thích của Phật về bảy sự việc lạ lùng
trong giấc mộng của tôn giả A Nan được
coi là những dự đoán của Ngài về t́nh trạng
suy đồi của đạo pháp trong đời vị
lai. Riêng về điều “ḍi bọ trong thân thể
sư tử trở lại ăn thịt sư tử”
đă là một lời dạy chí t́nh nhưng thật chua
xót dành cho tất cả Phật giáo đồ cả
tăng lẫn tục ngày nay. Nếu chúng ta biết hổ
thẹn th́ hăy cố gắng làm sao cho những lời
dự đoán trên kia không trở thành sự thật;
được vậy, Phật sẽ hoan hỉ biết
bao nhiêu!
10.-THỈNH
GIÁO LẦN CUỐI TRƯỚC GIỜ PHÚT PHẬT NHẬP
NIẾT BÀN:
Bốn mươi
chín năm sau ngày thành đạo, từ chỗ động
trở về chỗ tĩnh, tại thành Câu Thi Na (Kusinagara
- Kusinara), cách thành Ca T́ La Vệ hơn ba mươi dặm,
trong rừng cây Sa la, đức Thế Tôn tuyên bố
nhập niết bàn. Giống như mặt trời lúc
sắp lặn phát ra thứ ánh sáng đẹp đẽ
rạng ngời, trước giờ phút nhập niết
bàn, kim thân Phật cũng phát tỏa hào quang rực rỡ
khác với ngày thường. Tôn giả A Nan vẫn phục
thị bên cạnh Phật với tâm thành thầm cảm ân
đức dạy dỗ của Ngài từ bấy lâu nay, mà
giờ đây phước đức cũng như trí
tuệ của tôn giả đă đến chỗ thành
thục.
Tôn giả đă
sửa soạn xong chỗ nằm cho Phật. Ngài nằm
xuống trong tư thế cát tường, đầu
hướng về phương bắc, mặt
hướng về phương tây.
Mặt trời
lặn dần, màn đêm từ từ buông xuống bao
phủ khắp thế gian. Mùa này không phải là mùa hoa
nở của cây Sa la, nhưng hoa Sa la đang nở rộ
khắp khu rừng! Và hoa đang rơi rải rác chung quanh
Phật. Tôn giả qú sát bên Ngài, thưa thật nhỏ:
- Bạch Thế
Tôn! Từ nay về sau, đối với nữ giới,
chúng con nên có thái độ như thế nào? Xin Thế Tôn
dạy cho chúng con một lần nữa.
Phật nh́n
khắp lượt các vị đệ tử đang qú
chung quanh rồi dạy:
- Này A Nan!
Người đă có quyết tâm cởi bỏ phiền năo
để tiến bước trên đường giác
ngộ th́ không bao giờ để cho h́nh bóng người
đàn bà ngự trị trong tâm ḿnh. Riêng về thầy, tuy
bây giờ tuổi cũng đă sắp về già, nhưng
nếu thầy đừng nh́n tới đàn bà th́ vẫn
tốt hơn. Trong trường hợp bất khả
kháng, không thể không nh́n được, nếu thấy
một bà già th́ thầy nên xem bà ấy là mẹ ḿnh; nếu
là một thiếu phụ lớn hơn ḿnh chút ít th́ xem
đó là chị ḿnh; nếu là một thiếu nữ
trẻ hơn ḿnh th́ xem đó là em ḿnh ... A Nan, thầy hăy
nhớ kĩ những lời Như Lai vừa nói!
Dạy những
lời trên xong, Phật lại dặn ḍ tỉ mỉ các
việc về trà t́, xây tháp v.v... Tôn giả vốn
người đa cảm, nên khi những lời giáo
huấn ấy th́ nghĩ ngay rằng, đây chính là
những lời dạy sau cùng của Phật, bất giác
ḷng đau quặn thắt, nước mát chảy
đầm đ́a, rồi không dám qú bên cạnh Phật
nữa, trốn ra đứng ở một góc vắng, khóc
sướt mướt ... Tôn giả nghĩ, Phật
sắp nhập niết bàn rồi, những huynh đệ
khác đều đă khai ngộ mà chỉ riêng ḿnh th́
vẫn c̣n tối tăm, rồi đây ḿnh sẽ trông
cậy vào ai để được khai ngộ! Tôn
giả lại nghĩ, từ đây đâu c̣n bậc ân
sư để được hầu hạ! Càng nghĩ
đến những điều ấy, tôn giả càng
thấy đau đớn như đứt từng khúc
ruột!
Phật nh́n
lại không thấy A Nan đâu, liền sai người
đi t́m. Tôn giả trở lại qú chỗ cũ,
Phật an ủi:
- A Nan! Thầy
không nên đau buồn nữa! Có hội họp th́ có chia li,
có lúc phồn vinh th́ cũng có lúc suy tàn, không phải Như
Lai đă từng nói với thầy như thế sao!
Thế gian là vô thường có sinh th́ nhất định
phải có tử, đem sửa lại một chiếc xe
hư để dùng th́ đâu phải là biện pháp lâu
bền! Cái xác thân hữu vi này sẽ hoại diệt,
nhưng pháp tính Như Lai sẽ bảo hộ quí thầy. A
Nan! Thầy hầu hạ Như Lai đă rất lâu,
rất siêng năng và chịu khó. Thầy đối
với Như Lai hoàn toàn không có điều ǵ sơ
suất. Như Lai đem mọi công được
để đền đáp cho thầy. Thầy hăy tinh
tấn lên, không bao lâu nữa thầy sẽ cởi bỏ
được mọi sự trói buộc của phiền
năo và chứng ngộ đạo giải thoát.
Tôn giả lại
xúc động, nhưng phải cố nén tiếng khóc.
Phật nh́n khắp đại chúng nói:
- Này quí thầy!
Trong bao nhiêu năm qua, đại đức A Nan đă thân
cận và săn sóc Như Lai hết ḷng. Đại
đức là người nhu ḥa, hiền lành, nghe pháp không
bao giờ quên. Công đức của đại đức
sẽ sáng rỡ măi ở thế gian!
Tôn giả lại
phải lấy tay che mặt khóc, và một lần nữa,
bỏ trốn ra ngoài. Hôm ấy là ngày trăng tṛn của
trung tuần tháng Hai. Ánh sáng trăng trong mát, bàng bạc
chiếu tỏa khắp rừng Sa la. Tâm đức
tịch tịnh, cao vọi của Phật cũng thấm
đượm toàn thể mọi người có mặt.
Đă không có cách ǵ giúp giữ được bầu không
khí nghiêm tịnh lúc đó, v́ mọi người trong
đại chúng, ai cũng khóc lóc bi thương; vả
chăng, dù quí vị đă là các bậc thánh chứng
đạo đi nữa, cũng làm sao thoát khỏi t́nh
người trong giờ phút ấy!
Đại chúng
cứ khóc măi không thôi, nhưng họ cũng bảo nhau,
nước mắt th́ làm được ǵ trong lúc này!
Tại sao không cùng nhau hội ư để xin Phật
chỉ giáp cho những vấn đề có liên quan
đến sự trường tồn của chánh pháp, há
chẳng tốt hơn ư! Họ lại ra ngoài t́m A Nan
vào, và cử tôn giả làm đại diện cho đại
chúng để xin tham vấn Phật những vấn
đề như sau: 1) Sau khi đức Thế Tôn
nhập diệt, đại chúng sẽ tôn ai làm thầy? 2)
Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại
chúng sẽ lấy ǵ để an trụ? 3) Sau khi
đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng
sẽ đối xử với kẻ ác như thế nào?
4) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, khi
đại chúng kết tập kinh điển, muốn cho
mọi người tin tưởng th́ phải làm sao?
Vẫn với vẻ
mặt từ ái như thường ngày, Phật dạy:
- Này A Nan! Thầy
và đại chúng hăy nhớ kĩ! Quí thầy hăy lấy
giới luật làm Thầy, hăy y vào bốn đối
tượng quán niệm (tứ niệm xứ) mà an trú; gặp
kẻ ác th́ hăy tránh xa; khi kết tập kinh điển, hăy
bắt đầu mỗi câu kinh bằng câu “Tôi nghe
như thế này”. Quí thầy nên đúng như pháp mà tu
tập, v́ đó là chính là pháp thân thường tại
của Như Lai!
Âm thanh của
Phật nghe uy nghiêm làm sao! Nghe tiếng nói ấy, mọi
người đều thấy chấn động,
lại đau xót buồn thương! Và Phật nhập
niết bàn ngay khi đó! ...
Đẹ tử
Phật ở mười phương nghe tin Phật
nhập niết bàn, đều gọi nhau tụ hội
về. Tôn giả A Nan nghĩ lại lúc đức Thế
Tôn c̣n tại thề, giới nữ lưu rất ít có
cơ hội được diện kiến tham bái Ngài, nên
giờ đây tôn giả dành ưu tiên cho quí vị t́ kheo ni
và nữ cư sĩ được vào lạy Phật
trước. Thế đủ thấy, lúc nào tôn giả
cũng tỏ ḷng ưu ái và cảm thông đối với
nữ giới!
11.- THAM DỰ
ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN:
Phật nhập
niết bàn rồi, A Nan cảm thấy ḿnh như
đứa con dại vừa mất mẹ hiền! Sau khi
lễ ti hoàn măn, tôn giả một ḿnh trở về tu
viện để tưởng niệm bậc Ân Sư.
Trong những ngày qua phải chịu bao lao nhọc, giờ
đây thân thể mệt mỏi, tôn giả bèn đóng
cửa pḥng để tĩnh tâm. Mỗi ngày tôn giả
chỉ uống một ít sữa, không ăn một thức
ăn ǵ, không nói một lời nào, liên tiếp ba ngày như
vậy. Sau đó, tôn giả hướng về
phương Nam, đi về thành Vương Xá để
tham dự đại hội kết tập kinh điển
sẽ được khai mạc vào đầu mùa an cư
- Ngày Rằm tháng Tư sắp tới. Tuy chưa chứng
ngộ, nhưng giáo pháp của Phật, tôn giả đă
giữ một địa vị vô cùng trọng yếu. V́
vậy, tôn giả không thể không quên ḿnh v́ đạo
pháp; hơn nữa, chuyến đi này cũng là cơ
hội để tôn giả đền đáp pháp thân
huệ mạng cho đức Ân Sư.
Trên
đường đi về Vương Xá, tôn giả
đă ghé lại thành phố T́ Xá Li. Một số vị t́
kheo từng đi theo tôn giả, tới đây th́ bị
thất lạc, rồi mỗi người tự ḿnh
đi riêng. V́ chuyện này, khi về đến thành
Vương Xá, tôn giả đă bị tôn giả Đại
Ca Diếp quở trách và đă im lặng chịu lỗi,
không dám nói nửa lời.
Tưởng
cũng nên nhắc lại, khi A Nan đến T́ Xá Li th́
đă hơn một tháng sau ngày Phật nhập diệt. V́
tôn giả là vị cao đệ thường xuyên ở bên
cạnh Phật, cho nên bất cứ ai đă từng sùng
kính Phật th́ giờ đây, một cách tự nhiên, họ
đều kéo đến tu viện và quây quần chung quanh
tôn giả. Ngày nào họ cũng tụ tập ở tu
viện để xin tôn giả nói pháp, bất kể là ban
ngày hay ban đêm. Tôn giả không có cách ǵ từ chối,
đành phải chiều ư mà phương tiện khai
thị cho họ. Thường trú tại tu viện lúc
ấy, có một vị đại đức đă
chứng quả, tên là Bạt Xà Phất, v́ số tín
đồ đến với A Nan quá đông, họ đi
lại, nói năng lớn tiếng, ồn ào, phá tan cái không
khí an tịnh của tu viện, đă làm trở ngại cho
các buổi tham thiền của đại đức. Ông
thầm trách tôn giả không lo tự sách tấn để
chứng quả, cho nên đă làm thi kệ để
nhắc nhở tôn giả. Bị trách cứ, nhưng
vốn tâm tính ôn ḥa và hay nhường nhịn, hơn
nữa, tự biết phận ḿnh chỉ là một kẻ
chưa chứng ngộ, cho nên tôn giả chỉ im lặng,
không dám biện bác điều ǵ. Ngày an cư tại
Vương Xá đă gần kề. Trách nhiệm đọc
tụng kinh điển cũng to lớn lắm và ai sẽ
gánh vác trách nhiệm ấy th́ tôn giả cũng đă
tự biêt rồi! Trong thời khắc cực ḱ quan
trọng này mà bỏ công sức để nói những bài
pháp suông ở đầu môi chót lưỡi th́ phỏng có
ích ǵ! Tôn giả bèn quyết định lên đường
xuôi Nam. Không phải là tôn giả không biết tŕnh
độ tu chứng của chính ḿnh, nhưng b́nh sinh tôn
giả vốn dễ bị chi phối bởi những
nguyện vọng thiết tha chính đáng của tín chúng.
Lần này, vừa bị sức khích lệ của tín
đồ vừa phải thay họ mà chịu lỗi,
vừa bị huynh đệ chê cười, lại
nữa, sự trách cứ của đại đức
Bạt Xà Phất đă như một mũi tên bắn
thẳng vào tim, tôn giả bèn phát nguyện dứt khoát
từ nay sẽ xoay chuyển cái tâm hướng ngoại
để hướng trở lại vào trong, mong sớm
đạt đạo giác ngộ.
Tôn giả về
đến thành Vương Xá trước khi đại
hội kết tập khai mạc một ngày. Tôn giả
Đại Ca Diếp, vị chủ tọa của
đại hội kết tập, đă tuyển chọn
năm trăm vị t́ kheo lớn (đều đă chứng
quả A la hán) để mời tham dự ḱ kết
tập này; trong đó không có A Nan, v́ tôn giả chưa
chứng quả A la hán. Dĩ nhiên là Đại Ca Diếp
vẫn công nhận những sở trường của tôn
giả - đặc biệt nhất là những kinh ǵ
Phật đă nói, tôn giả đều nhớ kĩ không
quên; nhưng kết tập kinh điển là một sự
việc vô cùng trọng đại, tôn giả Đại Ca
Diếp sợ rằng, nếu để cho một vị
chưa diệt hết phiền năo tham dự kết
tập, th́ đối với đức Thế Tôn vừa
mới nhập niết bàn cũng như đối với
các thế hệ về sau, chẳng biết có vấp
phải lỗi lầm ǵ không! Về phần A Nan, tuy
chưa chứng quả, nhưng v́ giao t́nh giữa tôn
giả và đại chúng rất tốt đẹp, cho nên
lực lượng ủng hộ tôn giả rất
mạnh, ai ai cũng lên tiếng bệnh vực cho tôn
giả được tham dự kết tập. Dù vậy,
tôn giả Đại Ca Diếp vẫn cứng rắn:
- Tôi vẫn
biết, tuy đại đức A Nan chưa chứng
ngộ, nhưng địa vị của đại
đức quả là địa vị sư tử; mặc
dù vậy, trong giờ phút hiện tại này đại
đức chỉ như con sư tử ở giữa
bầy giă can mà thôi!
Tôn giả A Na
Luật cũng cùng chung quan điểm với tôn giả
Đại Ca Diếp, và đó quả là một sự
tập kích bất ngờ đối với A Nan! Nhưng,
tôn giả đă không v́ vậy mà nản chí, như một
người có sức bật lớn, càng bị đè
nặng th́ sức vọt càng cao; lại cũng như cây
mai, cần phải trải qua mùa đông gió tuyết giá
băng th́ sang xuân hoa mới nở rộ; đối
với tôn giả, bao nhiêu sự đả kích đều
trở thành là những tăng thượng duyên. Bởi
vậy, ngay buổi chiều hôm ấy, tôn giả đă
buông bỏ tất cả, trầm tư mặc tửng,
nổ lực thiền quán và đến khuya th́ hoát nhiên khai
ngộ! Sáng hôm sau, tôn giả không đợi mở cửa
động, đă dùng thần lực đi vào đại
hội. Toàn thân tôn giả lúc ấy hiển lộ một
phong thái đạo mạo, sáng tỏ như mặt
trăng vừa ra khỏi đám mây, rạng rỡ như
đóa sen mới nở dưới ánh mặt trời
buổi sáng, làm cho cả thánh chúng đều kinh ngạc và
nhiệt liệt xưng tán. Rồi ngay lúc đó,
dưới sự chủ tŕ của tôn giả Đại
Ca Diếp và sự đồng tâm suy cử của toàn
thể đại hội, tôn giả lên pháp ṭa, bắt
đầu đọc tụng “Tôi nghe như thế này,
thuở ấy đức Thế Tôn ngự tại ...
v.v...” Tất cả những ǵ đă được nghe
và ghi nhớ kĩ, giờ đây tôn giả đọc
tụng lại làu làu ... Tất cả quí vị t́ kheo
hiện diện được nghe lại những lời
dạy dỗ của Phật đều vô cùng cảm kích!
Những bộ
kinh được kết tập đầu tiên trong ḱ
đại hội danh tiếng này như Trường A
Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Thí Dụ,
Pháp Cú v.v... đều do chính tôn giả đọc
tụng lại.
12.-
NHẬP NIẾT BÀN:
Sau khi Phật
nhập diệt, trưởng lăo Đại Ca Diếp
đă được tôn cử kế thừa y bát của
Phật để lănh đạo giáo đoàn. Rồi 20
năm sau, trưởng lăo (lúc ấy đă hơn 100
tuổi) cũng vào núi Kê Túc nhập diệt, sau khi đă phó
truyền đạo nghiệp cho tôn giả A Nan (lúc ấy
đă hơn 80 tuổi).
Tôn giả kế
thừa Phật nghiệp cũng là việc tự nhiên,
như hoa nở về mùa xuân; và đó cũng là
điều mong mỏi trước đây của
đức Thế Tôn.
Như vậy,
Phật Giáo đương thời, dưới sự
ủng hộ của vua A Xà Thế, đă phát triển
một cách b́nh thường. Đến khi trưởng lăo
Đại Ca Diếp nhập diệt th́ những vị
đệ tử lớn thường thân cận bên
Phật thuở trước, bây giờ chỉ c̣n lại
một ḿnh tôn giả A Nan.
Một năm trôi
qua lại thêm một tuổi! Năm ấy tôn giả
đă 120 tuổi, một ngày nọ, đang đi trên
đường th́ tôn giả nghe một thầy t́ kheo
trẻ tuổi đọc một bài kệ mà trước
đây Phật đă từng dạy. Đại đức
đọc rằng:
“Nếu người sống trăm tuổi
Không thấy hạc thủy lăo
Chi bằng sống một ngày
Mà thấy được hạc ấy”
Bài kệ đă
được đọc sai hoàn toàn, đúng như tục
ngữ có nói: “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia!” Tôn
giả nghe thế th́ tiến đến bảo cho
đại đức biết, nên đọc lại bài
kệ cho đúng như sau:
“Nếu người sống trăm tuổi
Không hiểu pháp sinh diệt
Chi bằng sống một ngày
Mà hiểu rơ pháp ấy”
Đại
đức nghe tôn giả bảo thế th́ trở về
thưa lại với thầy ḿnh. Ông ta bực ḿnh, bảo
đệ tử:
- Ông đừng
nên nghe lời A Nan nói bậy, ông ấy bây giờ đă già
lẩm cẩm rồi, đă mất trí nhớ, không c̣n sáng
suốt như trước nữa đâu. Những ǵ ta
đă dạy th́ không thể nào sai trật được!
Vị t́ kheo
trẻ lại đem những lời của thầy ḿnh
đến thưa với tôn giả. Thoạt nghe qua, tôn
giả muốn đến hỏi vị kia tại sao
lại dám thốt những lời khiếm nhă như
vậy, nhưng rồi nghĩ lại, những
người như thế dù nói ǵ cũng vô ích, nên thôi.
Vốn một mực ôn ḥa nhường nhịn, cho nên dù
đang ở địa vị lănh đạo giáo đoàn
với đầy đủ giáo quyền tối
thượng, tôn giả vẫn lấy đức
nhường nhịn làm căn bản xử thế. Tuy
nhiên, một thánh tăng với 120 tuổi đời
như tôn giả, đối với mọi sự ở
thế gian vốn sớm đă không chút ǵ tham luyến,
huống chi, sau khi sự việc này xảy ra, càng suy
gẫm lại càng thấy ngán ngẩm cơi đời. Tôn
giả nghĩ: “Cơi đời này thật hết
thuốc chữa! Phật nhập niết bàn chưa bao lâu
mà người ta đă hiểu Phật pháp sai lạc
đến như vậy, th́ trong tương lai, những
tà tri tà kiến nảy sinh trong giáo đoàn sẽ nhiều
nữa, nói sao cho xiết! Ta v́ đức Thế Tôn mà
kết tập kinh điển, nhưng người ta
cứ ôm giữ kiến chấp mà không hành tŕ đúng theo
giáo pháp, th́ dù ta ở lại thế gian cũng chẳng ích
ǵ!”
Khi nghĩ như
vậy, tôn giả chợt nhớ đến Phật,
đến Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,
Đại Ca Diếp v.v... rồi lại nghĩ tiếp: “Ôi!
Những vị ấy như chim bay theo cơn lốc,
đều đă nhập niết bàn! Giờ chỉ c̣n
lại một ḿnh ta, nhu khu rừng bị đốn
sạch, chỉ c̣n lại một cây cổ thụ, dù
lớn nhưng làm sao đủ để ngăn gió che
mưa! Thế gian sao mà tịch mịch, thôi th́ ta cũng
nên nhập niết bàn!” Ư nghĩ ấy liền trở
thành quyết định. Tôn giả bèn đem giáo pháp
truyền lại cho đệ tử là Thương Na Ḥa Tu
(Sanavasin - Sanavasi), rồi ôm bát nhắm hướng Bắc
mà đi về sông Hằng. Đúng vào lúc ấy, vua A Xà
Thế của nước Ma Kiệt Đà sắp cất
quân sang đánh nước T́ Xá Li; mà sông Hằng là ranh
giới giữ hai nước đó, nếu nhập
diệt ở Ma Kiệt Đà th́ xá lợi sẽ không
được chia cho T́ Xá Li, và ngược lại,
nếu nhập diệt ở T́ Xá Li th́ xá lợi sẽ
không được chia cho Ma Kiệt Đà. Bởi vậy,
tôn giả quyết định sẽ nhập diệt
ở trên không trung, ngay chính giữa sông Hằng.
Vua A Xà Thế, khi
hay tin tôn giả sắp nhập niết bàn th́ cơ hồ
muốn té xỉu! Nhà vua tức tốc dẫn người
ngựa đuổi theo, và khi đến bờ sông th́
thuyền của tôn giả đă ra đến giữa ḍng.
Nhà vua liền sụp lạy và kêu lớn:
- Kính lạy
Phật tự tại hơn hết trên thế gian! Xin
người thương xót, ban cho chúng con niềm an
tịnh! Kính lạy Tôn Giả sáng chói cả ba cơi! Xin
Người hăy trở lại với chúng con!
Phía bờ bên kia,
dân chúng nước T́ Xá Li cũng kêu lớn như vậy.
Tôn giả ngồi trong thuyền trả lời:
- Tôi đă suy
nghĩ kĩ rồi. Quí vị ở hai nước đang
thù hận nhau, cho nên tôi mới phải nhập diệt
ở giữa sông Hằng, để cho nước nào
cũng có được một nửa thân thể của
tôí!
Tôn giả nói xong
bèn ngồi giữa hư không, nhập hỏa quang tam
muội mà vào niết bàn, tụ phân nhục thân ra làm hai
nửa để cho hai vương quốc cùng xây tháp
thờ phụng. Dân chúng T́ Xá Li th́ xây tháp tại tu viện
Trùng Các (Kutagarasala), trong rừng Đại Lâm (Mahavana), phía
Bắc thành phố T́ Xá Li. Dân chúng Ma Kiệt Đà th́ xây
tháp ở cạnh tu viện Trúc Lâm, ngoại ô thành
Vương Xá. Do sự việc này mà hai nước đă
băi binh, cởi bỏ hận thù, giao hảo thân thiện.
Tôn giả nhập
diệt rồi, người người đều
nhớ tưởng. Ôi, một con người hiền lành,
ḥa nhă, khiêm cung và nhẫn nhịn! Ôi, công lao của tôn
giả đối với đức Thế Tôn to tát
dường bao! Sự cống hiến của tôn giả
cho Phật pháp vĩ đại biết chừng nào!