Bông Hồng Hiếu Hạnh
Thích Nhật Tân
Trước Phật đài Tam
Bảo chứng minh. Trong bửu điện trang nghiêm
thanh tịnh. Đại Lễ Vu Lan
Thắng Hội thập phần viên mãn. Mùa Báo Hiếu thiêng
liêng lan tỏa khắp mười
phương. Chắc chắn ba ngàn thế giới lay chuyển sáu lần rung động. Chắc chắn mười tám tầng địa
ngục sẽ được mở toang. Bởi công
ơn Cha Mẹ là một sự hiện hữu nhiệm
mầu, tình thương Cha Mẹ là tất cả
đất trời cao rộng, ngân hà xao xuyến, vũ
trụ nao nao, trăng sao vằng vặc. Là con hiền cháu
thảo, ai ai cũng lặng yên, ai ai cũng trầm
lắng, để nghe trong sâu thẳm tâm hồn tiếng
nói dâng lên cho Cha, dâng lên cho Mẹ trong giờ phút trang
trọng này đây.
Một bông hồng nào xin dâng lên quý Thầy
! Một bông hồng nào xin dâng lên quý Sư Cô ! Bông hồng nào cho Bác, cho Chú, cho Thím ! Bông hồng nào cho anh, cho chị, cho em ! Và xin hỏi, còn bông hồng nào cho tôi ?
Chúng ta hãy đón nhận thật chân
thành, thật trọn vẹn. Hạnh phúc thay cho những ai còn mẹ
! Diễm phúc thay cho những ai còn cha !
Và, chữ và, xin chia sẻ với những ai đang cài hoa trắng !
Nhìn đóa hoa màu hồng trên áo quý vị, xin không
cần nói một lời nào, mà quý vị hãy lặng yên,
mỉm cười, sung sướng và sống trọn
vẹn đi !
Nhìn đóa hoa màu trắng, biết
chia sẻ gì đây, sẽ không có một ngôn từ nào
thấm cùng trong nỗi lòng sâu lạnh, dù có lớn bao nhiêu,
cũng sẽ mang cho đến trọn đời thân
phận mồ côi.
Hai chữ Mẹ Cha, chúng ta không
cần nói nhiều, mà chỉ ao ước còn tiếng
Mẹ để chúng ta thưa, còn tiếng Cha để
chúng ta trân quý. Không
cao kỳ, không trau chuốt, không phết sơn. Bởi còn cha mẹ là còn tất cả, mất cha
mẹ là mất tất cả. Đức
Phật từng dạy “Phụ mẫu tại tiền
như Phật tại thế”, nghĩa là Cha Mẹ còn
sống giống như Đức Phật đang còn trên
thế gian này. Ca dao Việt Nam cũng nói
: “Còn cha còn mẹ là hơn, Không cha không mẹ như
đờn đứt dây”.
Từ xưa tới nay và mãi mãi
đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ
được nói nhiều nhất và được
viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội
gốc của tình thương vô tận và suối
nguồn của đạo đức bao la, đã góp
phần rất lớn trong gia tài văn hóa văn học
nhân loại. Hai chữ Cha Mẹ, đã
làm cho sách báo, văn chương, thi phú được
chồng lên cao hơn. Vào nhà sách, thư viện, ghé
mắt vào những tựa đề về Mẹ, về
Cha, tình mẫu tử, tình phụ tử, các nhà văn nhà
thơ đã đào sâu trong tận đáy con tim và mọi góc
cạnh khối óc, sẽ thấy hai chữ Cha Mẹ
được diễn tả tuyệt siêu, nhưng vẫn
chưa hết và đôi khi ngượng ngập ngôn từ.
Không những thế, trong cung bậc Tao
đàn, trên sân khấu nhạc hội, và rừng hội
họa nghệ thuật cũng diễn xuất không cùng.
Thời đại tin học hôm nay, những gì về Cha
về Mẹ cỡi trên sóng điện vi
tính thiên thần, kỳ ảo thêm, diễm lộng thêm.
Ngôn từ Cha Mẹ còn bình dân hơn, gần gũi hơn, đơn sơ hơn.
Tiếng võng đưa kẽo kẹt sau hè, hay nằm trong
nôi em khóc, mẹ sẽ hát sẽ ru em ngủ, chị sẽ
hát sẽ ru em ngủ ! Chắc chắn
nhiều khi, có những hình ảnh thật tội
nghiệp, người Cha hay người anh khốn
khổ ẵm em em cũng khóc, ru em em
cũng khóc, và người cha hay người anh nhìn em
bằng ánh mắt gần như van lơn mà vẫn bất
lực, không biết phải làm gì cho em. Trong chúng ta, tôi dám
quả quyết ai cũng đã hơn một lần đã
làm như thế !
Em bé “Ba năm bồng ẵm cảm ơn Cha”,
đã biết nói hai tiếng Ba, Ba đầu đời.
“Chín tháng cưu mang nhờ đức mẹ”, trong vòng tay bú mớm, em đã biết nói hai tiếng
Má, Má thương yêu. Đến lúc lớn lên,
trưởng thành, đi vào trường đời, đi
vào xã hội, dù có làm ông nọ bà kia, hay
phập phù giữa bại thành cuộc thế, dù
được sống gần hay đang ở đâu xa,
vẫn hỏi thăm và thưa ba thưa mẹ. Trong quán
trọ vô thường một khi băng qua khúc rẽ ly
tan, dòng tử sinh đôi bờ một khi gõ nhịp đành
đoạn tạ từ, ta sẽ thảng thốt kêu lên
Mẹ ơi, Ba ơi, và thế là nước mắt ta ràng
rụa, lòng ta nát tan, trăng sao kia sẽ không đủ
sáng giữa vòm trời, vật chất phù du kia sẽ
tả tơi theo bèo bọt. Không phải chỉ đang lúc
đó, mà kể từ ngày đó trở đi, cho
đến bây giờ, mãi mãi mai sau, mỗi khi thương
cha nhớ mẹ, ta như con đom đóm lập lòe tìm
gọi bóng đêm, hay như kẻ lạc loài mò mẫm
giữa hư vô và cúi mặt trước lâu đài phụ
mẫu, nghe tiếng lòng thổn thức.
Trong chánh điện này đây, trước
lễ đài này đây, giữa hội trường này
đây, dù ai cài hoa hồng vẫn lo sợ, lo sợ gì mà “Đêm đêm thắp ngọn đèn
trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với
con”. Còn những ai cài hoa trắng thì, chừng
như tấm lòng quý vị trống vắng không cùng, và
chừng như hai con mắt của quý vị nhìn thật
xa xôi. Kia kìa, thấy chưa, không
phải chừng như, mà thật sự hai con mắt quý
vị đang long lanh, bờ mi đã ướt lên rồi.
Một cụ già, đôi vành khô vẫn còn đủ sức
long lanh, vài cụ lớn tuổi đôi bờ khô khốc,
nhưng nước gì đang chảy ra, gạt lệ tay lau. Người trung niên
cũng lặng lẽ, trầm ngâm. Thế còn anh, còn
chị, còn em, sao lại cúi xuống, đỏ hoe ! Cả Thầy nữa, rồi Sư Cô nữa ! Xin lỗi nghe, chúng tôi không có dám
đâu, và đâu có làm gì ?
Thưa quý vị. Hình ảnh trên đây không phải
chỉ có hôm nay, mà đã nhiều lần, thật nhiều
lần, vào mỗi độ Trung Nguyên, mỗi Mùa Hiếu
Hạnh. Ngay cả chỉ trong một Mùa Báo thôi, trong quý
vị sẽ có người đi dự nhiều nơi,
tôi đã chứng kiến đôi mắt quý vị lại
tái lập như thế. Nếu hỏi
tại sao, thì quả thật vô tình, một câu hỏi rất
vô duyên. Nước mắt cho cha cho mẹ mà không
biết chảy ra, không biết ngấn lệ, không
biết vo tròn, thì xin lỗi, ta còn thua em bé và ta chưa
lớn nổi làm người ?
Trong chúng ta, ai không nằm lòng “Công Cha như núi
Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy
ra”, ai không từng nghe “Lòng Mẹ bao la như biển Thái
Bình rạt rào” hay “Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một như đường mía lau”.
Có người đã viết :
“Bao nhiêu sách vở viết về Đức
Mẹ
Bao nhiêu chữ nghĩa viết về Công Cha
Dù có nhiều như vũ trụ bao la
Cũng không thể diễn tả hết
được Tình Cha Nghĩa Mẹ”
Có người cũng đã viết
:
“Tình thương
Mẹ, biển Đông thấm vào đâu
Công đức Cha,
núi Thái làm sao sánh
Dù đem cả
hằng hà sa pháp giới
Cũng không sao
đánh đổi hai chữ Song Đường
Xin đi khắp
cõi vô thường
Soi ngàn đuốc
tuệ thắp đường Từ Thân
Xin đi khắp
cõi phù vân
Noi gương
hiếu hạnh ân cần Mẹ Cha”
Hãy
hình dung thời Đức Phật còn tại thế, hình
như đôi mắt của Ngài mà ta tôn xưng Phật nhãn,
vẫn lưng tròng khi Phụ Hoàng băng hà, vẫn rưng
rưng khi đứng hầu kim quan, và trên đường
di quan vẫn từng bước chân nặng trĩu.
Lại một lần kia, khi cùng Tăng Đoàn đi
khất thực, hỏi còn hình ảnh nào rung cảm
hơn, xúc động hơn, chính Đức Phật đã :
“Đáo bán lộ
rành rành mắt thấy
Núi xương khô
bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn
vội đến nơi
Lạy liền ba
lạy rồi rơi giọt hồng”
Ôi, cao
thượng thay Đấng Thiên Nhơn chi Đạo Sư !
Ôi, quý hóa thay
Đấng tứ sanh chi Từ Phụ !
Phải
chi Ngài điều ngự nơi đây cho chúng con đãnh
lễ tôn thờ. Một kiếp này thôi, ân nghĩa cha
mẹ, chúng con chưa trọn vẹn, nói chi đến quá
khứ đa sanh phụ mẫu ! Một kiếp này thôi, bổn phận con hiền
cháu thảo, chúng con mang bao nỗi đành đoạn
đắng cay, thì làm sao đền đáp công ơn cha
mẹ nhiều đời.
Phải
chi Bồ Tát Mục Kiền Liên đang ở đâu đây,
chúng con xin nương theo thần lực của Ngài
để đi tìm khắp muôn hướng ngàn
phương, đi sâu vào địa ngục dù có vô số
cửa ngõ A Tỳ, chỉ cần nhìn thấy, Mẹ chúng
con đang ở đâu, Ba chúng con đang ở đâu,
rồi muốn làm gì chúng con xin nguyện tận lực hành
trì.
Đâu
cần nói chi xa phải không thưa quý vị
? Trong cuộc đời, bao nhiêu
người được sống nơi chốn quê nhà,
nhưng biết bao nhiêu người phải sống tha
phương bởi duyên nghiệp hay hoàn cảnh khác nhau.
Chỉ mong sao được về thăm nơi chôn nhau
cắt rốn, được nhìn lại bàn thờ từ
đường, ấp ủ dưới mái nhà tranh,
bếp lửa hồng êm vợn khói, thoang thoảng
hương cau, thơm thơm gạo
mới. Và kia, dòng sông Quê Ngoại, bến cũ Quê Nội,
đường đất bên làng, lối ngõ đầu
thôn, rẽ ngang xóm nhỏ , ruộng lúa ngô đồng, “Làng
quê nghèo cuối phương trời biền biệt, Bóng
thời gian không đủ sức nguôi ngoai, Vẫn đong
đầy và sống mãi trong tôi, Lỡ nhắm mắt ôm
khối sầu muôn thuở”.
Và
kia, ai sống thị thành, phố phường đô
hội, “Những lối đi chạy ngang qua đất
đỏ, Những lối về
chạy dọc dưới trời xanh, Những mạch
máu của trái tim thành phố, Những đốt
xương của thân thể châu thành, Những con
đường chúng mang hồn dân tộc, Qua không gian không
thay đổi danh từ, Lối cỏ mới đề
huề reo ánh sáng, Khách đi về cảm thấy khác tâm
tư”. Rồi được đến thăm nấm
mồ của Mẹ của Ba, bên Ông Bà Nội Ngoại
Tổ Tiên, lục thân quyến thuộc quá vãng, để
quỳ, để khóc, để thương để
nhớ, để được thắp một nén hương,
mà kiếp sống xa nhà, dù đã 10 năm, 20 năm, 30
năm, hay hơn nữa, nhưng vẫn xin khẳng
quyết mọi vùng đất dung thân không phải là
cố quận, lại càng không phải quê hương
của mình. Nhưng, “Khung trời quê vẫn
nghìn trùng xa cách. Cõi trời quê vẫn chôn
chặt tận đáy hồn đau”.
Xin
Cha tha cho chúng con. Xin Mẹ tha cho chúng con. Xa hơn nữa,
chúng con xin tạ tội với người Cha cội
nguồn của Văn Lang, xin khấu đầu với
người Mẹ đầu tiên của Bách Việt,
đã cho chúng con được mang dòng giống Lạc
Hồng, tóc đen da vàng máu đỏ, nhưng lại mang
một mảnh hồn đau và một trái tim nhức
nhối.
Bạch
quý Thầy, quý Sư Cô,
Thưa
quý vị lớn tuổi cùng toàn thể anh chị em,
Một
bông hồng đã đầy đủ chưa
? Một bông trắng đã thấm thía chưa
? Theo tôi, phải là một rừng bông hồng
để dâng lên Mẹ, hay một rừng bông trắng
để khóc cho Cha. Một rừng bông hồng để
khơi động tình thương, và một rừng bông
trắng để xóa tan vụn vỡ. Một
rừng bông hồng để gìn giữ nâng niu, và một
rừng bông trắng để tạ từ miên viễn.
Nguyện cầu
mười phương Chư Phật chứng minh
Nguyện cầu
hồng ân Tam Bảo gia hộ
Nguyện cầu
Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên soi sáng cho
chúng con
Nguyện cầu hồn thiêng sông núi Việt Nam
gia hộ cho toàn dân nước Việt.
Và mầu nhiệm
thay, thiêng liêng thay, chúng ta cùng nhắm mắt, chắp tay :
Ba ngàn thế
giới đang rung động !
Tam đồ bát
nạn đang mở toang !
Một bông hồng biến thành vô số bông
hồng để trọn vẹn mùa hiếu hạnh.
Một bông trắng thấm sâu vô số bông
trắng để kết nẻo phương đài.
Đó mới
thật sự là Bông hồng cài áo !
Đó mới
thật sự là bông trắng cưu mang !
Đó mới
thật sự là Mùa Vu Lan Thắng Hội !
Đó mới
thật sự là Giải Cứu Đảo Huyền,
độ thoát hàm linh !
Trân trọng và trân
trọng nhớ ân !
Chân thành và chân thành
nhớ mãi !
Ngưỡng dâng
Chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính chào toàn thể liệt quý vị.
Nam Mô Đại Hiếu Mục
Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.
Mùa Hiếu Hạnh 2009
TNT Mặc Giang
www.thonhacmacgiang.com