Ven. Thích Minh
Điền
Cứ mỗi
độ xuân sang đến ngày trăng tṛn tháng tư âm lịch,
những người đệ tử của đức Thế
Tôn trên toàn thế giới lại hân hoan đón mừng ngày đản
sinh của Đấng giác ngộ. Sự ra đời
của đức Phật đă mở ra cho nhân loại một
lối thoát khỏi sinh tử khổ đau, mà kiếp nhân
sinh phải cưu mang trong nhiều kiếp luân hồi.
Tiến tŕnh đản sinh ấy là một thắng pháp vi diệu mà nổ lực cá nhân thái tử Sĩ
Đạt Đa phải đạt đến. Từ bước
khởi thủy t́m thầy học đạo cho đến
lúc phát kiến tự tâm, ngài đă kinh qua bao gian lao khó nhọc, lắm lúc tưởng chừng
như bỏ cuộc giữa đường thiên lư mịt
mờ. Cuối cùng quả vị giác ngộ, giải thoát cũng
đến với đấng Thế Tôn, người mà chư thiên và loài người đang quay về
và nương tựa.
Hôm
nay lần nữa mùa sen nở rộ, Phật đản lại
về.
Chúng ta cùng nhau đốt nén hương ḷng chấp tay thành kính ôn lại tiến tŕnh đản
sinh của đấng giác ngộ, một nhà văn hóa lớn,
môt vĩ nhân mà cả nhân loại ngày nay đang kính ngưỡng.
Nguyện noi theo bước đường
tu tập của ngài, cho dù gặp bao chông gai bảo táp đến
đâu cũng không thối chí nản ḷng mà bỏ cuộc.
Sự Đản
sinh của đức Phật ngang qua bảy bước mà
Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, kinh Ưu Bà
Di Tịnh Hạnh Diệu Pháp môn phẩm Thụy Ứng
ghi lại như sau: Sau khi thọ thai Đấng Thánh lớn,
gần ngày măn nguyệt khai hoa, Hoàng hậu Ma Gia trở về
quê mẹ. Trên đường về quê cũ,
Hoàng hậu nghỉ chân dưới một vườn hoa
Lâm Tỳ Ni xinh đẹp. Hoàng hậu khoan thai dạo
bước quanh vườn, hít thở không khí trong lành của
gió xuân mát dịu, lắng nghe từng đàn chim chuốt giọng
trên cành, ngắm nh́n từng đóa hoa đua sắc khoe màu
trong nắng sớm, rồi nhẹ tay vin hái cành hoa Vô Ưu
th́ liền Đản sinh Đấng Thánh lớn. Sự
Đản sinh ấy được đánh dấu qua tiến
tŕnh bảy bước nở hoa sen.
I.Bước
thứ nhất Ngài nh́n về Phương Đông và bảo rằng:
“Phương Đông ấy chính là ngọn đuốc soi đường
tối thượng cho chúng sinh trong mọi lănh vực” (Thị
Đông phương vị chúng sinh vi đạo
thủ cố). Đức Phật lấy phương
mặt trời mọc để chỉ cho sự phát huy
trí tuệ. Thật vậy, từ phàm phu đến quả
vị Thánh hiền, không một ai mà không cần đến
ánh sáng của trí tuệ. Trí tuệ là ngọn
đuốc soi đường đi đến chân - thiện
- mỹ; mà “Văn hóa là ch́a khóa mở đầu cho mọi
địa hạt của cuộc sống”. Từ trường đời đến trường
đạo đều lấy sự giáo dục làm đầu.
Bởi “Tu mà không học là tu mù, học mà không
tu th́ chỉ là thư viện chứa sách”. Bước
đầu học Phật, hành giả phải h́nh thành cho
ḿnh tri thức Phật học ngang qua kinh - luật - luận
mà đức Phật và chư Tổ để
lại.
II.Bước
thứ hai đức Phật nh́n về phương Nam và bảo
rằng: “Phương Nam ấy chính là ruộng phước
an lành cho chúng sinh gieo gặt” (Thị
Nam phương vị chúng sinh lương phước điền
cố). Đức Phật lấy phương
Nam để chỉ cho chúng sinh nhờ phát huy trí tuệ, biết
quán chiếu vào sâu trong ḷng thực tại nên biết quy hướng
về những nghiệp nhân tốt lành (thiện nghiệp)
nhằm đem lại b́nh ổn và an lạc cho cuộc sống.
Khi
đă h́nh thành cho ḿnh tri thức Phật học, rồi đem
ra áp dụng hành tŕ để chuyển hóa thân tâm và ngoại
tại.
Từ những hành nghiệp xấu ác sang tốt lành, dữ
sang hiền, tối tăm thành sáng suốt,
si mê thành giác ngộ, phàm phu thành thánh hiền, chúng sinh thành
Phật, từ khổ đau sinh tử thành an lạc niết
bàn.
Nhờ
pháp quán chiếu nên thấy đây là khổ, đây là nguyên nhân
đưa đến khổ, đây là cách giải trừ
nguyên nhân đưa đến khổ, đây là an lạc
sau khi giải trừ động cơ dẫn đến
khổ đau.
Nhờ biết
chuyển hóa nội tại và ngoại tại nên làm cho thế
giới cộng thông, nhằm bảo vệ môi trường
sống và lẽ sống để đem đến hạnh
phúc cho cuộc sống chung cùng.
Thấy
rơ luật nhân quả tương ứng trong cuộc sống
trùng duyên, nên không phó thác đời ḿnh cho một Đấng
phi thực nào, không đổ lỗi cho một ai, cũng
không quay lưng sấp mặt hay chạy trốn thực tại.
Đức
Phật dạy: “Đạp mây uống nước cam
lộ cũng tại các ngươi; mà đào sâu hố thẳm
địa ngục cũng chính tại các ngươi chứ
không do ai khác”.
Nhờ
tuệ quán nên thấu rơ rằng, một biệt nghiệp
tương tác vào cộng nghiệp; và những cộng nghiệp
cũng chi phối đến từng cá nhân. Thế giới
đảo điên là do ḷng người điên đảo cộng
lại.
Trong
cuộc sống nhân sinh có rất nhiều nổi khổ,
nhưng không ngoài hai nổi khổ của thân và tâm. Những thứ làm cho thân khổ phần lớn đều
do yếu tố vật lư đem đến. Như
không ư thức được những sự tác hại của
ma túy, của thuốc lá, của rượu và những thực
phẩm có pha chế hóa chất, những thứ làm ô nhiễm
môi trường, nên làm cho thân thể bị tác hại sinh
ra bệnh tật khổ đau.
Những thứ
làm cho tâm khổ phần lớn đều thuộc về
yếu tố tâm lư không lành mạnh như gian tham, giận
hờn, ganh tỵ, nhỏ mọn, mỉa mai, châm thọc,
ích kỷ, keo kiết, độc ác, cống cao ngă mạn,
thích đấu tranh, thích hơn thua thắng bại, ngộ
nhận và mê lầm.
Có những nổi
thống khổ thuộc chủ quan như đă phân tích ở
trên; nhưng cũng có những nổi thống khổ do yếu
tố khách quan đưa lại như thiên tai, chiến
tranh do cộng nghiệp xấu ác của quá khứ nhiều
đời chiêu cảm tạo nên “Y báo và chánh báo tương
ứng”. Và mỗi khi phát huy được
tuệ quán, thấu rơ nguyên nhân và hệ quả của mọi
nổi thống khổ ấy, chúng ta mới t́m cách chuyển
hóa và giải trừ. V́ vậy cho nên, hướng đến
nghiệp lành chính là tạo ruộng phước an lành (lương phước điền cố)
cho cuộc sống thực hữu của nhân sinh.
Đức Phật
dạy:
Đem thù đến
trả thù
Ḿnh, người
đều đau khổ
Từ bi thắng
hận thù
An lạc tận
ngh́n thu.
Lời
dạy ấy vẫn c̣n là khuôn vàng thước ngọc để
cứu nguy sự diệt vong của nhân loại cho hôm nay
và cả mai sau. Chúng ta không t́m đâu ra những trận
Thánh chiến bằng cách giết hại đồng loại
không mang cùng nhăn hiệu với ḿnh ở trong những lời
dạy của đức Phật. Giải trừ nghiệp
nhân xấu ác, thực hành nghiệp lành là bước đầu
học Phật vậy.
III.Bước
thứ ba đức Phật nh́n về phương Tây và bảo
rằng: “Phương Tây ấy chỉ cho chúng sanh hóa
giải động cơ sinh tử, chấm dứt sinh
thân cuối cùng” (Thị Tây phương vị chúng
sanh dĩ tối hậu thân cố). Phương
Tây là phương mặt trời lặn, để chỉ
cho sự an nghỉ tuyệt đối của tâm thức.
Ḍng tâm thức (Samsàra) đă đưa đẩy
chúng sinh luân chuyển trong ba cơi sáu đường từ vô
lượng kiếp đến nay. Đức Phật đă
thấy rơ nguyên nhân của ḍng sinh tử là do động lực
của Vô minh. Từ vô minh mà phát sinh Hành, từ Hành phát sinh
Thức, từ Thức phát sinh Danh Sắc, từ Danh Sắc
phát sinh Sáu nhập, từ Sáu nhập phát sinh Xúc, từ Xúc
tiếp phát sinh cảm Thọ, từ cảm Thọ phát
sinh ưa thích hay ghét bỏ (Ái), từ Ái phát sinh Chấp thủ
của t́nh thức, từ Chấp thủ phát sinh Hữu, từ
Hữu phát sinh Sanh, từ Sanh nên có Già chết. Chặc đứt
nguyên nhân của mọi nguyên nhân (hốt sinh nhất niệm
vô minh) nên hầm sâu vô minh bị phá tung,
ḍng sinh tử chấm dứt.
Đến đây
đức Phật xác quyết: “Sinh đă tận, lậu
đă tận, gánh nặng đă để xuống, những
việc nên làm đă làm; từ nay không c̣n sinh tử luân hồi
nữa”. Đây là một sự dụng công vượt
ngoài tư duy của t́nh thức, mà chư Tổ gọi là
lực “vô công dụng hạnh” hay “Pháp không
pháp” mà đức Phật đă phó chúc cho Tổ Ca Diếp.
V́
vậy cho nên, tu hành không phải là t́m nơi ẩn dật
cho qua ngày đoạn tháng. Mà chính là bước vào một
cuộc chiến thầm lặng, không kém phần gay cấn
và quyết liệt nhằm đè bẹp những trận
cuồng phong trường kỳ dai dẳng của Mạt
na (tiềm thức) bằng gươm trí tuệ Bát nhă, để
ánh sáng chân tâm phát chiếu, hầu đem lại sự b́nh
an tuyệt đối cho chính ḿnh và chan răi cho cả vạn
loại.
Hướng
đến vô ngă là một nghệ thuật siêu nghệ thuật,
là nguồn văn minh siêu vượt hết thảy mọi
văn minh dựa trên t́nh thức, là sự diễn thuyết
không ngữ ngôn mà lại đi về bất tuyệt.
Vậy
muốn thoát khổ đau th́ trước hết chúng ta phải
dừng lại mọi suy tính, lo âu, t́m cầu nơi tự
tâm.
Nhờ sự đ́nh chỉ vọng tâm, giúp tâm hóa giải
mọi hạt giống sinh tử và tâm được tĩnh
lặng, sáng suốt, yên ổn tuyệt đăi. Sự tĩnh lặng phản chiếu của tự
tâm không lệ thuộc bởi thời gian, không hạn cuộc
bởi không gian; v́ nó vốn vượt thoát mọi cặp
phạm trù của nhị nguyên nên không c̣n lệ thuộc bởi
ḍng thức nữa.
Đức
Phật dạy:
Ái dục từ
ư sanh
Cuốn theo ḍng tham đắm
Biết giữ
tâm b́nh lặng
Dục
ái tự tiêu băng.
IV.Bước
thứ tư đức Phật nh́n về phương Bắc
và bảo rằng: “Phương Bắc ấy chỉ
cho chúng sinh là ta đă được đạo quả vô
thượng chánh đẳng chánh giác” (Thị Bắc
phương vị chúng sanh ngă đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề). Chúng sinh đang quằn
quại trong đêm dài tăm tối lạnh lùng (phương
Bắc) với bao sầu bi khổ ưu năo. Sự
phân ranh ta, người của ḍng thức đă tạo nên
bao ư thức hệ, bao triết thuyết và niềm tin tôn
giáo sai biệt, tạo tiền đề cho mọi tranh chấp
diễn ra và máu nhân loại đă phải đổ quá nhiều
trong chiều dài của sự sống.. Bóng vô
minh tưởng chừng như măi đè nặng lên tâm hồn
nhân thế.
Nhưng
không, Đấng Giác ngộ đă xuất hiện giữa thế
gian để làm ngọn đuốt soi đường đến
giải thoát giác ngộ. Đến đây, đức Thế
Tôn bắt đầu chuyển bánh xe
pháp. Đức Phật như vị lương
y biết bệnh và cho thuốc, và ai bị bệnh nặng
th́ được Ngài cứu trước. V́ vậy cho nên, Ngài chuyển qua bước thứ
năm, tức tiếp cận với sự đau khổ
của chúng sinh để cứu giúp.
V.Bước
thứ năm đức Phật nh́n xuống phương
dưới và bảo rằng: “Phương dưới
ấy ta sẽ giúp phương tiện cho chúng sinh chinh phục
ma lực để vượt thoát khổ đau”
(Thị Hạ phương vị chúng sanh dị dục
hàng ma cố). V́ ḷng thương tưởng đến
chúng sanh đang quằn quại trong biển đời đau
khổ nên đức Phật bắt đầu chuyển
bánh xe pháp. Từ thành thị
đến nông thôn, từ giai cấp thượng lưu
cho đến người bần cùng nghèo khó; đức Phật
tùy bệnh nặng nhẹ mà cứu nguy và cho thuốc.
Ai bệnh nặng th́ sẽ được đức
Phật cấp cứu, ai bệnh nhẹ th́ sẽ được
cứu sau.
Phương
dưới ấy là chỉ cho cảnh khổ đau của
Địa ngục, Ngạ quĩ và Súc sanh. Sở dĩ
chúng sinh rơi vào trong ba đường xấu ác ấy là
do nghiệp nhân xấu ác của ư, của lời nói và thân
hành động, với sự thúc đẩy của tham,
sân, si. Thật vậy, v́ do ḷng tham vượt quá tầm tay nên người ta mới xâm phạm đến
tiền tài, danh vọng, địa vị và lẽ sống
của kẻ khác. Biết bao cuộc chiến tranh từ
xa xưa cho đến ngày nay, đâu không do ḷng tham ấy?
Dục
giới là hiện tướng của tham, sắc giới
là hiện tướng của sân, vô sắc giới là hiện
tướng của si mê. V́ vậy cho nên,
muốn thoát khỏi ba đường xấu ác th́ phải
biết đem tâm thức hướng lên trời, người
(nhân, thiên), tức sống đúng năm nhân cách và mười
nghiệp lành.
VI.Bước
thứ sáu đức Phật chỉ lên phương trên và
bảo rằng: “Phương trên ấy là chỉ cho
chúng sinh sống đúng năm nhân cách và mười điều
thiện” (Thị Thượng phương vị
chúng sanh quy y thiên nhân cố). Chúng sinh muốn
vượt thoát ba đường dữ là Địa ngục,
Ngạ quĩ và Súc sinh th́ phải trở lại sống đúng
năm nhân cách và mười điều thiện.
Thật vậy,
năm nhân cách là nền tảng cho một cuộc sống
có hạnh phúc, có chí hướng vị tha, có năng lực
bảo vệ giống ṇi, bảo vệ thân sống, nguồn
sống, và cả lẽ sống của nhân loại. Đây
chính là thước đo đạo đức của một
con người có đầy đủ lư trí và t́nh thương
trên thế gian này.
1-Trước
hết phải ư thức rằng: thân mạng là quư nhất,
nên phải tôn trọng mạng sống của ḿnh và của
người. Không tự hủy hoại nó bằng những
phương tiện si mê, những độc tố tai hại,
những nguồn thực phẩm có pha chế hóa chất
và những sản phẩm tinh thần không lành mạnh như
phim ảnh, sách báo có nội dung bạo động, căm
thù v.v…Không giết hại mạng sống của nhau, không
gây chiến tranh cũng không tán thành mọi cuộc chiến
tranh phi nghĩa. Phải lấy lư trí dể
hóa giải khổ đau, lấy từ tâm để yêu thương
tất cả. Con người không phải là đối
tượng đáng ghét, mà cái đáng ghét chính là chất liệu
ngu si (vô minh) trong mỗi tâm hồn, khi
không nhận ra lẽ sống. Giải trừ vô minh chứ
không ghét bỏ con người.
2-Có
thân sống nên phải có nguồn sống để nuôi
thân.
V́ vậy cho nên phải biết tạo ra nguồn sống
bằng bàn tay, khối óc và con tim của
ḿnh. Phải ư thức bảo vệ nguồn
sống của ḿnh và nguồn sống của người,
nên không manh tâm cướp đoạt nguồn sống của
nhau dưới mọi h́nh thức. Nguồn sống được
làm ra với sự soi sáng của trí tuệ và sự hướng
dẫn của t́nh thương, nên không đánh mất nhân
cách, không mất đạo đức.
3-Sự
mưu cầu hạnh phúc lứa đôi là điều mà những
người sắp trưởng thành trong thế gian đều
mong ước. Nhưng, hạnh phúc ấy không từ
một Đấng nào ban cho, mà do chính ḿnh tạo ra bằng lư
trí và t́nh thương. Nhờ vào trí tuệ, nên chúng ta biết
gạn đục khơi trong, trong mỗi hành vi của sự sống. Luôn trang điểm
cho ḿnh và cho người ḿnh thương bằng những đóa
hoa tâm hồn tươi thắm, và sưởi ấm t́nh đời
bằng chất liệu an vui.
Ư thức rằng,
tạo sự an vui hạnh phúc cho người
cũng chính là xây dựng hạnh phúc cho ḿnh. Thấu
rơ lư tính tương tức ở trong nhau và đi vào nhau,
nên không tự làm khổ ḿnh, người. Thực hiện
một cuộc sống hạnh phúc chung
cùng là biết mở ra tuệ giác an lạc cho cuộc đời.
4.Và cũng chính
nhờ vào tuệ giác an lạc tương tức nên thấu
rơ rằng, lời nói là phương tiện truyền thông
trong cuộc sống. V́ vậy cho nên, biết
dùng lời ái ngữ trong mọi truyền thông. Lời nói phải nhẹ nhàng, êm ái, thân thương,
đoàn kết và xây dựng.
Không
dùng những lời nói nặng nề, cộc cằn, thô lỗ,
tục tỉu, mĩa mai, châm thọc, cống cao, ngă mạn,
gây chia rẽ, hận thù. Tránh không nói lời
sai sự thật, trừ lúc vị tha. Không
đi chuyền nói lỗi lầm của người khác, cũng
không phê phán những ǵ ḿnh không biết chắc.
Ư thức rằng,
ngôn ngữ là tài sản chung của mọi người, nên
nguyện dùng lời hay ư đẹp để đi vào cuộc
sống, nhằm đem đến cho nhau những truyền
thông lành mạnh, tạo nên một thế giới cộng
thông trong niềm tin yêu và ḥa kính.
5. Ư thức
rằng, trí tuệ là ngọn đuốc soi đường
đến chân thiện mỹ, nên nguyện luôn luôn ǵn giữ
sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn. Bởi
tâm hồn có trong sáng mới giúp chúng ta thấu rơ mọi
hành vi thiện ác, tốt xấu nhằm
chuyển hóa thân tâm và ngoại tại.
V́
vậy cho nên, phát huy trí tuệ và bảo vệ t́nh thương
chính là giềng mối của nền đạo đức
nhân bản.
Ư thức như vậy, nên không sa vào rượu
chè cờ bạc x́ ke ma túy, những chất nghiện ngập
say sưa và những thú vui trụy lạc, đam mê mất
lư trí.
Đó chính là sự
trở về sống đúng năm nhân cách căn bản, để
làm một con người sống có đạo đức
trên cuộc đời.
Ngoài
ra, đức Phật c̣n khuyên mọi người thực
hành mười điều thiện (thập thiện) để
làm tư lương sinh lên các cơi Thiên.
*Thân có ba là:
không giết hại, không trộm cắp, và không tà dâm.
*Miệng có
bốn là: không nói dối (vọng ngôn), không nói hai chiều
(lưỡng thiệt), không nói lời cộc cằn thô lỗ
(ác khẩu), không nói lời sàm dở tà dâm bất chánh (ỷ
ngữ).
*Ư có ba là:
tham lam, sân giận, si mê tà kiến.
Thực
hành mười thiện th́ được sinh thiên. Ngược lại, làm mười điều xấu
ác th́ bị rơi xuống ba đường dữ là Địa
ngục, Ngạ quĩ và Súc sinh. V́ vậy
cho nên, phương trên ấy chính là phương của trời
người vậy.
VII.Và cuối
cùng là bước thứ bảy: đức Phật một
tay chỉ lên, một tay chỉ xuống và bảo rằng:
“Cao nhất là chư Thiên mà thấp nhất là Địa
ngục; chúng sinh luôn trôi lăn trong ba cơi sáu đường
là do mầm ngă chấp trong tâm thức chi phối đẩy
đưa vậy” (Thiên thượng thiên hạ duy
ngă độc tôn).
Thật vậy,
chính cái t́nh thức (duy ngă) của ta bị chia chẻ manh
mún bởi sự lộng hành vô độ của dục ái,
đă đẩy đưa ta lang thang từ
vạn kiếp luân hồi với bao khổ lụy bi ai.
Ta cứ măi
than thân trách phận, hoặc ngậm buồn nuốt hận
đổ lỗi cho Đấng tạo hóa tạo ra kiếp
người cùng khổ; hoặc phó thác cho số mệnh trời
định bất công; hoặc trách cứ xă hội phân
chia giai cấp một cách tàn nhẫn!
Chính lưới
tà kiến mà ta và người đă dựng xây từ vạn
kỷ, tạo thành những sợi dây oan nghiệt trói chặt
ta và đồng loại vào chốn đau thương.
Ta dựng
nên Tôn giáo này, triết thuyết nọ, chủ nghĩa kia, để rồi dẫn đến luận
tranh, bạo hành, tương tàn tương sát lẫn nhau.
Giá như có
một Đấng tối cao anh minh, th́ sao Ngài lại ngớ
ngẩn tạo nên bao nhiêu nổi thống khổ cho thế
gian này?
Giá như có
một triết thuyết tuyệt hảo th́ sao không làm kim chỉ nam thực dụng cho loài người
thoát khỏi ḍng sinh tử khổ đau?
Phải chăng,
những mớ luận thuyết ấy chỉ là sản phẩm
giả lập của tâm thức cá nhân, hay tâm thức cộng
đồng của một nhóm người, một sắc
tộc, một quốc gia, hay một hệ thống chính
trị?
Và nếu tâm
thức ấy mang tính nhân bản, th́ ít ra cũng đem lại
sự b́nh ổn, sự hiểu biết và thương yêu
chân thật, nhằm hạnh phúc hóa nhân loại mới phải?
Ai lại nhẫn
tâm đè đầu cỡi cổ, đặt ách thống
trị, hoặc sát phạt họ v́ họ không mang cùng một
nhăn hiệu với ḿnh? Và nếu thế, th́ các Tôn giáo, các
chủ thuyết, chủ nghĩa ấy có giá trị ǵ trong
cuộc sống thực hữu của nhân sinh?
Trong
khi, tính nhân bản th́ không cần danh xưng, chẳng có
nhăn hiệu ǵ cả; mà chỉ cần “Thương người
như thể thương thân” là đủ.
Nếu ḿnh
thương người v́ họ cùng một Tôn giáo, cùng một
tín ngưỡng với ḿnh, th́ ra ḿnh thương Tôn giáo
ḿnh, chứ đâu phải là thương người?
Nếu ḿnh
thương người v́ họ cùng một màu da, cùng một
sắc tộc với ḿnh, th́ ra ḿnh thương sắc tộc
ḿnh, chứ đâu phải là thương người?
Nếu ḿnh
thương người v́ họ cùng một chí hướng,
cùng một chủ nghĩa với ḿnh, th́ ra ḿnh thương
ư thức hệ của ḿnh, chứ đâu phải là thương
người?
Chính v́ những
lẽ trên, nên người ta dễ đi đến cực
đoan, tạo tiền đề ngăn cách giữa người
với người, giữa Tôn giáo này với những Tôn
giáo khác, giữa sắc tộc này với sắc tộc
kia, giữa quốc gia này với quốc gia nọ, giữa
hệ thống chủ nghĩa chính trị này với những
hệ thống chủ nghĩa chính trị khác.
Trong khi: “Không
có giai cấp trong ḍng nước mắt cùng mặn và máu
cùng đỏ như nhau”. Trân trọng thay lời nói ấy!
Cố chấp
vào một quan điểm, vào một nhận thức, vào một
luận thuyết mang tính cục bộ chủ quan, tạo
nên kiến thủ cực đoan, ngăn đường
bít lối ta đi đến chân lư. V́ vậy, mở rộng
tâm hồn đón gió muôn phương, nhằm đem lại
sự tươi mát, b́nh ổn và an lạc cho ḿnh và tha nhân
là rất cần thiết.
Song, mọi
ư hướng đi t́m chân lư bởi thứ t́nh thức mang
tính chủ quan của từng vỏ năo, th́ chẳng khác nào
kẻ mù bị lạc vào rừng rậm, thật khó mà t́m
ra lối trở về nhà. Những mớ định kiến
mà ta mang theo, nó tạo nên những uy lực
đè nặng tâm hồn và phân hóa thực tại. Trong khi
chân tướng của vạn hữu là bản thể sống
động bao hàm, luôn luôn vận hành một cách lung linh mầu
nhiệm.
Nếu tự
quán sát tâm theo khuôn mẫu của kư ức
đă chết cứng tự bao giờ, th́ vô t́nh ta đă
quay lưng sấp mặt bỏ qua thực tại với
những uyên nguyên của nó. Trong khi ta chỉ cần rỗng
rang mọi sự th́ tâm ta được giải phóng, thông
lưu và vô nhiễm. Ta thấy lại con người thật
xưa nay của ḿnh một cách chân xác như nó đang là,
mà không bị một định kiến nào, một ư thức
phân biệt nào can dự vào làm cho sai lạc.
Dùng mọi
phương cách để theo dơi tâm, nhận dạng tâm, hướng
dẫn tâm, điều phục tâm th́ chỉ là cách chế
ngự ư, an lập ư của Nhị thừa bởi người
kiểm duyệt và kẻ bị kiểm duyệt; trong khi
người kiểm duyệt và kẻ bị kiểm duyệt
cũng chỉ là tâm.
Song
“Tâm không thể nắm bắt từ bên trong, từ bên
ngoài hay ở chính giữa. Tâm vô hướng,
vô niệm, không có chỗ sở y, không nơi chốn quy
túc. Các đức Phật không thấy tâm trong quá khứ,
trong hiện tại hoặc ở tương lai”.
Cái mà chư Phật không thấy th́ làm sao quán niệm
được. Nếu có quán niệm th́ chẳng
qua là sự quán niệm về những vọng tưởng
sinh diệt của các đối tượng tâm ư. “Một
lưỡi gươm không thể tự cắt nó, một
ngón tay không thể tự sờ mó nó. Tâm không thể quán tâm”.
Trong khi ấy
mọi thứ tích tập từ vô lượng kiếp đến
nay, nó chỉ là những sản phẩm giả lập của
tâm thức, hoặc vay mượn sự giả lập của
kẻ khác. Hăy quên đi tất cả mọi
tư niệm mà chính nó đă tạo nên những tràng hí luận
hỗn man, dẫn ta về rối rắm. Quên đi cả những ǵ đang nói và quên luôn cả
cái quên th́ cánh cửa chân lư tức thời rộng mở.
Những pháp
môn được dựng lập bởi ḍng thức, chỉ
tạo thêm ṿng lẫn quẩn bởi chính công họa sư
tâm ư và vẫn bị giam hăm trong cái rọ tư tưởng
ngàn đời; chẳng khác nào kiến ḅ quanh miệng chén,
măi t́m lối nhưng không thể thoát ra. Đem tâm t́m tâm,
hay đem tâm quán tâm th́ chẳng khác nào muốn tránh cái bóng mà
lại đứng giữa ánh nắng mặt trời. Chẳng
biết đó chỉ là: “Đầu mọc thêm đầu,
tuyết rắc thêm sương”.
Đức Phật
dạy: “Thấy biết mà lập biết là gốc của
vô minh, thấy biết mà không lập biết chính là Niết
bàn”.
V́
vậy cho nên, liễu ngộ chân lư không hạn cuộc bởi
ḍng thức chủ quan, nên không cần tích tập kiến
thức cũng không cần vay thêm kiến thức của
ai khác.
Cái thấy biết chân thật nó siêu vượt khỏi tầm
đối đăi của hai bên, nên ta chỉ cần rỗng
rang mọi sự th́ tâm được giải phóng, thông lưu
và vô nhiểm.
Vô ngă là niết
bàn, nên đến đây đức Phật xác quyết: “Sinh
đă tận, lậu đă tận, những việc nên làm đă
làm, từ nay không c̣n trở lại sinh tử nữa”. Công hạnh tự giác, giác tha, giác hạnh đă
viên măn, một vị Phật ra đời giữa thế
gian. Một tiến tŕnh từ phàm phu đến quả
vị Phật phải trải qua bảy bước, mà chư Phật quá khứ, đức Phật
Thích Ca trong hiện tại đă thành, và những vị Phật
tương lai sẽ thành.
Hôm
nay, kỷ niệm ngày đản sinh của đức Thế
Tôn; chúng con cùng nhau ôn lại tiến tŕnh tu học mà đức
Phật đă thành tựu. Nguyện lấy
đó làm tư lương cho bước đường
tu học của ḿnh, cho dù gặp bao chông gai bảo táp đến
đâu cũng không thối chí nản ḷng mà bỏ cuộc.
Nam
mô đức bổn sư Phật Thích Ca Mâu Ni, tác đại
chứng minh.
PHẬT
ÂN BUDDHIST TEMPLE
2558
Una Antioch Pk, Antioch TN 37013
PL:2552-DL:2008
TMĐ
*Trăng tṛn
tháng Visakka – năm 624 BC.