Mười Vị Đệ
Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả ĐẠI CA DIẾP
(Mahakasyapa -
Mahakassapa)
(Vị trưởng lăo tu khổ hạnh mẫu mực
nhất)
1.-
VĨ NHÂN RA ĐỜI NƠI GỐC CÂY:
Giả như có
người ra đời từ hơn 2500 về
trước mà vẫn giữ nhục thân c̣n sống măi cho
tới ngày nay, th́ người ấy phải là tôn giả
Đại Ca Diếp, vị đệ tử thượng
thủ của Phật, đă từng nổi tiếng là
người tu hạnh đầu đà đứng hàng
đầu trong tăng đoàn thuở đó.
Trước
đây không lâu, một vị bác sĩ người Pháp, ông
Bá Cách Sâm, đă có lần du hành đến núi Chân Gà (Kukkutapadagiri,
tức Kê Túc Sơn, một quả núi trông giống như
h́nh chân gà, nằm cách Già Da - Gaya, hơn 25 cây số về
hướng Đông Bắc, tức phía Tây Nam của thành
Vương Xá; nhưng cũng có sách cho rằng, núi này là
một ngọn của núi Linh Thứu, ở phía Đông
Bắc thành Vương Xá. - Chú thích của người dịch)
ở Ấn Độ. Tại đó ông dă được
may mắn tham kiến tôn giả Đại Ca Diếp và sau
đó đă xin qui y với tôn giả.Cuộc
đời của vị thánh mang tính chất truyền ḱ
này, nếu được đem giới thiệu lên th́
quả là một câu chuyện thật đẹp đẽ.
Vậy chúng tôi xin thuật từ đầu khi tôn giả
vừa được sinh ra đời.
Hơn 2500 năm
về trước, ở ngoại ô kinh thành Vương Xá
(Rajagrha - Rajagaha) của vương quốc Ma Kiệt
Đà (Magadha), thuộc miền Trung Ấn Độ, có
một ngôi làng tên là Ma Ha Sa La Đà (Mahatittha). Trong làng này có
một vị trưởng giả thuộc chủng
tộc Bà la môn tên là Ni Câu Lô Đà Yết Ba, giàu sang tột
bậc. Tương truyền rằng, tài sản của ông
c̣n nhiều hơn của vị quốc vương
nước Ma Kiệt Đà đương thời là vua
Tần Bà Sa La (Bimbisara). Tôn giả Đại Ca Diếp
đă được sinh ra trong gia đ́nh cự phú đó!
Sự ra
đời của tôn giả cũng kèm theo những sự
việc lạ lùng, có thể nói, gần giống như
sự giáng trần của Phật. Thân mẫu của tôn
giả, trong ngày lâm bồn, lúc đang đi dạo trong sân
nhà th́ bỗng cảm thấy người bần thần
mỏi mệt, liền ngồi xuống nơi gốc cây
Tất bát la để nghỉ ngơi. Đột nhiên, áo
trời không biết từ đâu bay đến, là đà
đáp xuống cành cây, tức th́ bà nghe tiếng khóc chào
đời của em bé ... Bởi vậy, ngay lúc đó bé
đă được đặt cho tên tục là Tất Bát
La Da Na (Pippalayana), có nghĩa là hạ sinh nơi gốc cây.
Càng lớn lên,
cậu bé Đại Ca Diếp càng trắng trẻo,
mập mạp, và có gần đủ 32 tướng
tốt của Phật, v́ là người con duy nhất trong
một gia đ́nh giàu sang địch quốc, nên sự yêu
quí cưng chiều của cha mẹ đối với
cậu như thế nào, thiết tưởng không cần
phải diễn tả. Có đến bốn bà vú để
chăm sóc cho cậu, ngoài ra, số người suốt
ngày ở bên cạnh để hầu hạ và chơi
đùa với cậu th́ rất nhiều.
Khi được
tám tuổi, theo luật lệ Bà la môn, cậu bé Đại
Ca Diếp được cha mẹ mời danh sư về
nhà dạy học. Các môn học tuần tự gồm có
từ cách thức tế tự, đọc, viết,
vẽ, toán, văn chương, ngũ minh, bốn kinh Vệ
Đà, cho đến âm nhạc, ca múa, sự vận hành
của tinh tú, âm dương tốt xấu, sấm sét,
động đất v.v... v́ vốn có trí thông minh thiên
bẩm, cho nên không có môn học nào là cậu không thấu
suốt triệt để.
Có điều
rấ ḱ lạ, từ nhỏ cho đến khi khôn lớn,
Đại Ca Diếp đă tỏ ra không giống với
bao nhiêu trẻ em hay thiếu niên khác: cậu rất nhàm chán
những hoan lạc của thế gian, khinh bỉ t́nh
dục, ghét những ǵ bất tịnh, thường
thường chỉ muốn ở một ḿnh, ngay cả dù
có ở xa cha mẹ, cậu cũng hề nhớ nhung
đến.
2.-
VỢ CHỒNG KHÔNG CHUNG GIƯỜNG:
Ngày tháng qua mau,
Đại Ca Diếp giờ đă trưởng thành,
trở nên một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Cha mẹ vui
vẻ vô cùng, bèn bảo cho chàng biết là ông bà sẽ
cưới cho chàng một cô vợ thật xinh đẹp,
đoan trang, thùy mị. Ngờ đâu khi vừa nghe thế
th́ chàng đă hốt hoảng, vội vàng từ chối:
- Thưa cha
mẹ! Trăm ngàn làn cũng không thể được! Hi
vọng duy nhất của con là được cha mẹ
cho phép con đi tu mà thôi. Nếu có vợ con th́ sự tu hành
của con sẽ bị trở ngại.
Đương
nhiên là ông bà nhất quyết không chiều ư chàng trong trường
hợp này. Chàng đă suy nghĩ nhiều, và cuối cùng th́
t́m ra được một cách để từ chối
việc lập gia đ́nh. Chàng lập tức nhờ
một nhà điêu khắc nổi tiếng, dùng vàng
để đúc nên một bức tượng mĩ
nữ tuyệt đẹp, rồi đem bức
tượng ấy thưa với song thân:
- Thưa cha
mẹ! Nếu cha mẹ nhất định muốn con
phải cưới vợ th́ xin cha mẹ hăy t́m cho
được cô gái nào giống hệt như bức
tượng mĩ nữ này th́ con mới chịu; c̣n không
th́ con nhất định suốt đời không lấy
vợ.
Nghe lời yêu
cầu của chàng, ông bà rất lấy làm khó xử. Lúc đó
có một thầy Bà la môn rất thân cận, thường
ngày vẫn hay tới lui nhà ông bà, đă hứa giúp cho ông bà
thế nào cnũg sẽ t́m ra cô gái xinh đẹp giống
hệt như bức tượng mũ nhân bằng vàng kia.
Ông ta bèn biến bức tượng ấy thành một
một tượng nữ thần, để lên kiệu,
có lọng che tôn nghiêm, rồi cho người khiêng đi
từ làng này sang làng khác, hết thành phố nọ
đến thành phố kia, có chỗ nào có đông
người tụ tập đến xem th́ ông bảo: “Các
cô thiếu nữ có ước muốn điều ǵ th́ hăy
đến cúng dường cầu khẩn vị nữ
thần này, nhất định các cô sẽ được
toại nguyện”. Khởi đầu từ kinh thành
Vương Xá, ông đem tượng nữ thần
tuần du. vượt qua sông Hằng tiến về
phương Bắc, dần đến kinh thành T́ Xá Li.
Ở ngoại ô
thành T́ Xá Li có một ngôi làng tên Ca La T́ Ca. Trong làng có một
vị trưởng giả Bà la môn thuộc hạng
đại phú hào, tên là Ca T́ La (Kapila). Ông có một cô con gái
tên Diệu Hiền (Bhadda), thật là sắc nước
hương trời, một mĩ nữ thời danh,
khắp vùng không ai là không biết tiếng.
Hôm ấy đúng
vào tiết “đốt lửa”, là dịp cho các thanh niên nam
nữ vui đùa thỏa thích. Diệu Hiền nhân dịp
này, đă rủ bạn bè cùng đi chiêm bái tượng
nữ thần. Khi vừa đứng trước bức
tượng vàng, sắc đẹp “hoa nhường
nguyệt thẹn” của Diệu Hiền đă làm cho
bức tượng bỗng dưng biến sắc.
Thầy Bà la môn thấy thế th́ mừng lắm, lập
tức đến thăm gia đ́nh nàng, và đem câu
chuyện “kén vợ” của Đại Ca Diếp thuật
rơ đầu đuôi với phụ thân nàng. Trưởng
giả Ca T́ La biết được gia đ́nh Đại
Ca Diếp vừa có danh vọng, vừa giàu sang cực
phẩm th́ thỏa măn lắm, liền nhận lời làm
thông gia.
Sau lễ đính
hôn, họ chọn ngày lành tháng tốt để đưa
cô dâu về nhà chồng.
Ngày đưa dâu
đă đến, Diệu Hiền mặc áo gấm, đeo
ngọc anh lạc. Dáng vẻ xinh đẹp, kièu diễm
của nàng, sợ rằng đến ngay cả các vị
thiên nữ cũng không sánh bằng!
Nhưng thật là ḱ
quái! Cô dâu tuy có sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng
thành” như thế, nhưng lại rèm mi ủ dột,
như có nỗi buồn ǵ đang trĩu nặng trong ḷng
...
Tiếng trống,
tiếng nhạc trổi lên; lời ca nhịp nhàng với
điệu múa; hôn lễ bắt đầu được
cử hành ...
Sau khi lạy
trời đất, Đại Ca Diếp và Diệu
Hiền được đưa vào làm lễ động
pḥng. Cả hai vợ chồng, trong đêm tân hôn, không ai có
một nụ cười. Không ai nh́n mặt ai, mỗi
người đều mang tâm sự riêng, mắt buồn
xa vắng; rồi mỗi người một góc, trầm
mặc tĩnh tọa ... Đêm động pḥng hoa chúc
cứ như vậy trôi qua; canh một, canh hai, canh, canh
tư, rồi canh năm, hừng đông ló dạng, cặp
vợ chồng mới cưới ấy vẫn tuyệt
nhiên im lặng, không ai nói một lời nào! Đến khi
mặt trời hoàn toàn sáng rỡ, bấy giờ chú rể
mới cất lời nhỏ nhẹ hỏi cô dâu?
- Cô nương có tâm
sự ǵ buồn chăng?
Diệu Hiền
khẽ chớp vành mi, nhưng vẫn im lặng không
trả lời.
- Có việc ǵ xin cô
nương cứ nói. Dù ǵ đi nữa th́ chúng ta cũng
vẫn có thể chia sẻ cùng nhau được mà!
Diệu Hiền
liền chảy nước mắt, nhưng vẫn im
lặng. Đại Ca Diếp liền to tiếng hơn,
làm như là bực bội lắm:
- Có việc ǵ đau
ḷng lắm thế, hăy nói cho tôi biết có được
không?
Đại Ca
Diếp hỏi đến ba lần, vạn bất
đắc dĩ, bấy giờ Diệu Hiền mới
trả lời, nhưng với một giọng đầy
ai oán:
- Ông đă phá
hoại chí nguyện của tôi! Tôi vốn nhàm chán ngũ
dục, chỉ mong được ở yên để
tịnh tu phạm hạnh; nhưng v́ cha tôi bị mê
hoặc bởi cái bả giàu sang của gia đ́nh ông mà
đă đem tôi gả bán cho ông, làm tiêu tan cái chí nguyện tu
hành của tôi!
Đại Ca
Diếp nghe mấy lời th́ như mở cờ trong
bụng, mừng rỡ vô cùng, vội vàng bảo cho
Diệu Hiền biết, ḿnh cũng có cùng một chí
nguyện như vậy, cũng chán ghét ái dục ở
đời, và chỉ mong được thanh tịnh tu
hành.
Ôi, vưi mừng
kể sao cho xiết! Đây quả là một sự sắp
đặt khéo tuyệt của hóa công! Vậy là cả hai
người đề có thể thực hiện chí
nguyện của ḿnh một cách tự tại. Họ bèn
đồng ư nhau, kê hai cái giường riêng biệt, tuy trên
danh nghĩa vẫn là vợ chồng, nhưng không bao
giờ nằm chung một giường.
3.-
MƯỜI HAI NĂM KIÊN TR̀ CHÍ NGUYỆN:
Đă là vợ
chồng, nhưng hai người không bao giờ nằm
chung giường; điều đó rồi cũng
đến tai song thân chàng. Cho nên, một hôm nọ, ông bà
trưởng giả bất thần vào pḥng ngủ của
vợ chồng chàng xem xét. Quả nhiên, ông bà trông thấy
hai người nằm ở hai giựng riêng biệt. Ông
trưởng giả giận lắm, bảo:
- Hai đứa mày
đă kết hôn, đă thành vợ chồng với nhau mà
lại kê hai chiếc giường nằm riêng biệt th́
đâu có phải là điều tốt! Tao phải gọi
người chẻ bỏ đi một cái mới
được!
Đại Ca
Diếp không dám phản đối cha mẹ, nhưng lại
kiên quyết giữ tṛn chí nguyện của hai
người. Chàng đề nghị với vợ:
- Dù ǵ đi nữa
th́ chúng ḿnh cũng không được nản chí. Bây
giờ chỉ c̣n một cái giường th́ chúng ḿnh thay
phiên nhau dùng. Đầu hôm đến nửa đêm th́ em ngủ,
c̣n anh th́ kinh hành hoặc tĩnh tọa; đến cuối
đêm th́ anh ngủ, trong khi th́ em kinh hành hoặc tĩnh
tọa.
Diệu Hiền tán
đồng lời đề nghị của chồng, và
nói thêm:
- Sao chúng ḿnh không
sớm t́m đường đi xuất giá! Ngũ dục
ở thế gian thật là đáng sợ, chỗ nào
cũng có chúng nó mai phhục, lỡ ra chúng ḿnh bị mê
hoặc rồi đọa lạc làm sao!
Đại Ca
Diếp an ủi vợ:
- Anh cũng đă
có ư nghĩ như vậy, ngặt v́ song thân vẫn c̣n
tại đường mà anh lại là con một, đâu có
thể bỏ mặc ông bà được! Em hăy kiên nhẫn
đi, lí tưởng và chí nguyện của chúng ḿnh thế
nào cũng có ngày thực hiện được.
Ngày tháng trôi qua, hai
vợ chồng chàng sống an ổn như vậy, tuy
ở chốn hồng trần mà tâm luôn luôn thanh tịnh, an
vui trong đạo vị. Một đêm kia, như thường
lệ, trong lúc Diệu Hiền ngủ trên giường th́
Đại Ca Diếp đi kinh hành trong pḥng. Bỗng chàng
trông thấy một con rắn đen, loại cực
độc, đang nằm dưới giường, trong
khi đó, trong cơn ngủ thật say, cánh tay phải của
Diệu Hiền để tḥng xuống khỏi
giường, và chỉ cách con rắn trong gang tấc. Trong
thời khắc mười phần nguy cấp đó, chàng
lập tức lấy áo bao bọc tay ḿnh lại, rồi
nhè nhẹ cầm cánh tay của nàng đặt lên
giường. Dù chàng cử động thật nhẹ,
nhưng cũng đă làm cho nàng giật ḿnh thức
giấc. Thấy chàng trong trường hợp ấy, nàng
hết sức kinh ngạc, liền ngồi bật dậy,
giọng đầy trách móc hỏi:
- Anh đă làm ǵ
vậy? Chuyện ǵ đă xảy ra?
Đại Ca
Diếp liền chỉ con rắn cho nàng thấy và nhỏ
nhẹ giải thích cho nàng biết về việc làm
của ḿnh vừa rồi. Nghe thế nàng mới yên ḷng và
tỏ ra vô cùng cảm kích đối với chàng.
Cuộc sống
thanh tịnh của hai vợ chồng cứ như vậy
trôi qua, tính ra đă được mười hai năm.
4.-
XUẤT GIA TU HÀNH:
Có hợp th́ có tan,
có sinh th́ có tử, đó là đạo lí nhất
định của thế gian. Năm ấy, hai
đấng sinh thành yêu quí của Đại Ca Diếp
đều lần lượt qua đời! Sau đó không
lâu, một hôm, Diệu Hiền bảo mấy người
nô bộc ép dầu mè. Nguyên trong mè có rất nhiều
mọt, và trong khi ép dầu, bỗng Diệu Hiền nghe
thoáng mấy người nô bộc nói với nhau: “Ép
thế này làm chết biết bao nhiêu là sinh vật, không
biết rồi đây sẽ phải chịu quả báo
đến thế nào! Nhưng không sao, đây đâu
phải là tội của bọn ḿnh, mà chỉ là làm theo
mệnh lệnh của chủ thôi”. Vừa nghe họ
nói thế th́ nàng liền thấy tâm thần rúng
động, kinh hoàng, vội bảo họ ngưng việc
ép dầu, rồi lập tức chạy nhanh vào pḥng
ngủ, đóng cửa lại, yên lặng ngồi quán
niệm ...
Cũng cùng trong
ngày ấy, Đại Ca Diếp từ sáng sớm đă ra
ruộng coi nông phu cày bừa. Trong lúc quan sát, chàng đă
thấy được nỗi khổ sở của
những con trâu cày, sự vất vả mệt nhọc
của những bác nông phu; rồi c̣n vô số côn trùng ở
trong đất, nào lưỡi cày đi qua, nào chân
người dẫm đạp, đă làm cho chúng lớp th́
chết, lớp bị thương, cảnh tượng vô
cùng thê thảm! Nh́n cảnh tượng ấy chàng lại
càng chán nản đối với cuộc sống của
thế gian, chàng nghĩ, chỉ v́ cuộc sống của
chính bản thân mà người đời khó tránh
được gây đau khổ cho người khác cũng
như cho mọi loài sinh vật. Bất luận là hạng
người nào, dù muốn ăn món ǵ th́ cũng không ăn
hơn một đấu; dù muốn ngủ thế nào th́
giường nệm cũng không dài quá hai tầm tay.
Vậy mà người ta đă tiêu phí quá xả xỉ,
thừa thăi đối với các nhu yếu hàng ngày; và chính
v́ những thứ xài phí xa xỉ vô ích ấy mà họ
đă làm khổ biết bao nhiêu người cũng như
tàn hại biết bao sinh vật. Hoàn toàn bất công! Hoàn
toàn phi lí! Suy nghĩ như vậy, chàng bèn bỏ về nhà.
Khi vào pḥng riêng, chàng thấy vợ cũng đang mặt
mày ủ dột. Hai vợ chồng lại đem tâm sự
của ḿnh nói cho nhau nghe, và lại cùng than thở về
những bất hạnh, những đau khổ của
thế gian. Đại Ca Diếp bèn bảo vợ:
- Bây giờ th́ anh
quyết định vất bỏ cái nhà này để
đi tu. Ở đây chẳng khác ǵ đang ở trong lao
ngục, bị đủ thứ trói buộc, đủ thứ
phiền muộn! Ngày nào chúng ta c̣n bám vào cái gia sản này th́
ngày ấy chúng ta c̣n tạo nghiệp xấu. Chi bằng hăy
vất bỏ nó đi để t́m cầu cái chân thật
của đời người. Chúng ta vào chốn rừng
núi để tu hành th́ không c̣n sợ bị thứ ǵ làm
chướng ngại, cũng giống như đi lại
giữa hư không. Vậy để anh ra đi
trước, em tạm ở nhà chờ đợi. Khi nào
t́m được minh sư, anh sẽ trở về
đưa em cùng đi xuất gia. Trong khi chờ đợi,
em hăy đem hết tài sản của ḿnh mà ban phát cho
người nô bộc trong nhà cùng giúp đỡ những
người nghèo khó. Em đợi nhé! Nhất định
anh sẽ sớm đem tin lành về báo cho em.
Diệu Hiền
nghe thế th́ càng kính phục chồng, đồng thời
cũng rất cảm động về sự quan tâm
của chồng đối với chí nguyện của ḿnh.
Chí nguyện xuất gia của hai vợ chồng vốn
đă có từ lâu, nhưng v́ phải phụng dưỡng
cha mẹ mà đă phải đợi chờ một
thời gian dài đến mười mấy năm. Bây
giờ th́ chí nguyện đó đă thực sự
được bắt đầu thực hiện, ḷng
họ vui vẻ lạ thường ...
5.-
TRỞ THÀNH ĐỆ TỬ PHẬT:
Năm ấy,
Đại Ca Diếp đă trên ba mươi tuổi. Theo
truyền thuyết, ngày ông ĺa nhà ra đi t́m thầy học
đạo cũng chính là ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành
đạo nơi gốc cây bồ đề.
Ông đă đi
đông, đi tây, đi nam, đi bắc để học
đạo nhưng không măn nguyện với một vị
thầy nào cả. Hai năm sau, khi ông đang chu du ở nước
Ương Già (Anga), th́ có người đến mách
với ông rằng, Phật Thích Ca Mâu Ni chính là đấng
đại giác hiện thời; Ngài cùng với giáo đoàn
của Ngài gồm các vị đệ tử tài đức
như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ưu Lâu
Tần Loa Ca Diếp (Uruvila Kasyapa - Uruvela Kassapa) v.v... cả
ngàn người, đang mở đạo tràng tại tu
viện Trúc Lâm (Venuvana). Ông nghe thế th́ vui mừng không
kể xiết, lập tức trở về Vương Xá
và t́m tới tu viện Trúc Lâm.
Tu viện Trúc Lâm
nằm ở ngoại ô về hướng Bắc của
kinh thành Vương Xá, là cơ sở đạo tràng
đầu tiên được tổ chức chu đáo, có qui
củ, dùng làm nơi cư trú và hành đạo cho Phật
và giáo đoàn của Ngài. Khi đến thành Vương Xá,
Đại Ca Diếp đă không trực tiếp tiếp
kiến Phật, mà chỉ hàng ngày đi theo các thiện nam
tín nữ ở trong thành đến tu viện để
nghe Phật thuyết pháp. Sở dĩ như thế là v́
ông c̣n thử xem, nếu như đó không phải là một
bậc đạo sư thực sự th́ ông nhất
định không theo.
Sau nhiều
lần đi nghe thuyết pháo như vậy, trí tuệ cùng
oai đức của Phật đă dần dần đánh
thức tâm trí ông. Thế rồi một hôm kia, như
thường lệ, sau khi nghe pháp xong, ông trở về
nơi trú ở trong thành. Khi c̣n cách cổng thành không xa
lắm nơi đó có nhiều ngôi tháp, chen giữa
những ngôi tháp ấy là một cây đại thọ, tàng
lá chi chít; và lạ lùng làm sao, ông trông thấy Phật
đang tĩnh tọa nơi gốc đại thọ
ấy. Rơ ràng là khi ông rời tu viện th́ Ngài vẫn
đang ngồi trên ṭa pháp vương kia mà, sao bây giờ
Ngài lại ở đây? Ông cố nh́n đi nh́n lại
thật kĩ, quả đúng là Phật! Tự dưng, ông
cảm thấy sợ sệt trước cái dáng vẻ
thật trầm lặng và thật oai nghiêm của Phật;
và như bị một sức mạnh nào đó cuốn hút,
ông bỗng cúi đầu sụp lạy, rồi thành
khẩn cầu xin:
- Kính lạy
đức Thế Tôn, bậc đạo sư của con!
Xin hăy cho con quay về nương tựa nơi Ngài. Từ
nay Đại Ca Diếp này đă là đệ tử của
Ngài.
Biết chắc
Đại Ca Diếp đă phát khởi ḷng tin vững
chắc và trọn vẹn, Phật khai thị:
- Này Đại Ca
Diếp! Ông đă đích thực là đệ tử
của Như Lai; và Như Lai cũng đích thực là
vị đạo sư của ông. Nếu trên thế gian
này không có vị giác ngộ vẹn toàn th́ không ai có thể
làm thầy của ông được. Ông hăy đi theo Như
Lai!
Phật từ
từ đứng dậy và khoan thai đi về
hướng tu viện. Đại Ca Diếp đi theo sau,
ḷng tràn ngập niềm vui, vừa cung kính vừa cảm
động, bất giác chảy nước mắt ...
Đang đi,
bỗng Phật quay ra sau nh́n Đại Ca Diếp, rồi
Ngài nói:
- Như Lai nghe nói
về ông đă lâu. Như Lai biết rằng, rồi
đây thế nào ông cũng đến đây xin theo Như
Lai tu học, và hôm nay chính là ngày ông được măn
nguyện. Sự lưu truyền Phật pháp trong
tương lai sẽ cần tới ông rất nhiều. V́
chúng sinh và cũng v́ chính ông, ông hăy cố gắng!
Về đến
Trúc Lâm, Phật thế độ cho Đại Ca Diếp,
rồi giảng nói các giáo pháp Bốn Sự Thật,
Mười Hai Nhân Duyên v.v... Tướng tốt và oai
đức của Phật, âm thanh hiền ḥa và thân
thiết của Phật, có thể nói, cái bầu khí
chứng ngộ lúc đó đă hoàn toàn bao quanh Đại Ca
Diếp, khiến cho ông như ruộng hạn gặp
mưa; cho nên chỉ tám ngày sau, ông hoàn toàn khai ngộ.
6.-
HOÀN THÀNH LỜI ƯỚC HẸN VỚI NGƯỜI
XƯA:
Sau khi Đại
Ca Diếp xuất gia được một năm, - tức
là năm thứ ba sau ngày Phật thành đạo -
Phật đă trở về quê hương là kinh thành Ca T́
La để thăm phụ vương cùng hoàng tộc.
Một số đông tăng chúng đă tháp tùng Phật trong
chuyến đi này, trong đó có tôn giả Đại Ca
Diếp. Nhân dịp này, nhiều vị vương tử,
vưong tôn trong hoàng tộc đă xin được
xuất gia theo Phật. Về sau, bà d́ mẫu của Phật
là thái hậu Kiều Đàm Di, (Gautami - Gotami - tức Ma Ha
Ba Xà Ba Đề, Mahaprajapati - Mahapajapati) cũng
được Phật cho phép xuất gia và lập nên chúng
T́ kheo ni. Về phần Đại Ca Diếp, tôn giả
vẫn luôn nhớ đến lời hẹn ước
với Diệu Hiền ngày xưa, nhưng v́ từ
trước chưa có lệ cho phái nữ xuất gia, nên
tôn giả không biết làm cách nào. Nay nhân chúng Ti kheo ni đă
được phép thành lập, tôn giả liền quyết
định hoàn thành lời hẹn ước ấy.
Từ ngày tôn
giả rời nhà ra đi, đến nay cũng đă
năm năm rồi. Trong thời gian năm năm ấy,
chẳng biết t́nh h́nh của Diệu Hiền ở nhà ra
sao. Tôn giả bèn nhập định để quan sát, th́
mới hay Diệu Hiền bây giờ đang là đệ
tử của ngoại đạo, ở bên bờ sông
Hằng.
Nguyên lai, từ
ngày Đại Ca Diếp bỏ nhà chu du t́m thầy học
đạo, Diệu Hiền vẫn ở nhà một ḿnh
để trông ngóng tin tức của chồng. Ngày tháng
cứ trôi qua như ḍng nước chảy, một tháng,
rồi hai tháng, một năm rồi hai năm ... vẫn
không có tin tức ǵ của chồng cả. Sốt ruột
quá, không thể chờ đợi được nữa,
nàng bèn quyết định tự ḿnh đi xuất gia. Sau
khi đă quyết chí như vậy, nàng đem tất
cả tài sản cất chứa trong kho phân phát cho mọi
người, từ những người trong thân tộc,
những gia nhân, cho đến những người nghèo khó
trong làng xóm, rồi một ḿnh t́m đến bờ sông
Hằng, lễ bái một vị đạo sĩ thuộc
phái Lơa H́nh xin làm đệ tử.
Sau khi làm
đệ tử phái Lơa H́nh, do v́ sắc đẹp phi phàm
của nàng mà lắm phen nàng phải bị lăng nhục,
và rất trông mong được chồng đến
tiếp cứu. Đó cũng chính là lúc tôn giả
Đại Ca Diếp nhập định quan sát, biết rơ
được t́nh cảnh của nàng và rất nôn nóng
đem Phật pháp đến giáo hóa để đưa
nàng về với chánh đạo. Tôn giả bèn đem
sự t́nh nói rơ cho một vị t́ kheo ni và nhờ vị
này đi cứu Diệu Hiền. Ni sư rất hoan hỉ
nhận lời ra đi, và chẳng bao lâu, ni sư đă
đưa Diệu Hiền cùng về ni viện. Tại
đây, Diệu Hiền được phép xuất gia và
nhập chúng t́ kheo ni.
Nhưng rồi
ở nơi đây, cũng chính v́ cái nhan sắc quá ư
diễm lệ của ḿnh, mà dù nay đă là một vị t́
kheo ni tu học nghiêm túc, ni sư Diệu Hiền vẫn trở
thành đề tài cho người ta dựng chuyện phao vu
này nọ. Bị bêu rêu như vậy, ni sư rất
lấy làm hổ thẹn, thường buồn phiền
than thở về nỗi bất hạnh của ḿnh đă
phải sinh làm thân đàn bà! Từ đó ni sư không đi
khất thực nữa, sống xa đại chúng, và không
bao giờ xuất hiện ở chỗ đông
người.
T́nh huống đó
lại làm cho tôn giả Đại Ca Diếp rất xót xa.
Tôn giản bèn xin Phật cho phép, mỗi ngày được
chia cho ni sư nửa phần cơm do ḿnh khất thực
được. Sự việc này rồi cũng
đến tai ni sư Du Lan Nan Đà, một người
rất nổi tiếng hay nói chuyện thị phi trong chúng
t́ kheo ni. Không biết v́ ganh ghét hay v́ ǵ khác, vị ni sư
này đă đồn đại ra rất nhiều
điều không tốt, như nói: “Hai người
ấy cứ khoe là hồi ở nhà đă từng
mười hai năm không hề ngủ chung giường,
nhưng hiện thời th́ mỗi ngày họ đều
chia cơm sẻ áo một cách thân thiết như thế
đó, nhất định là phải có tư t́nh như
thế nào rồi!” Đối với tâm hồn khoát
đạt của bậc thánh như tôn giả Đại
Ca Diếp th́ những điều tiếng ấy không có
nghĩa ǵ cả, nhưng v́ muốn giúp Diệu Hiền
phát tâm thật dũng mănh để phấn đấu
với trở lực, hầu chóng đạt
được kết quả trên đường tu
học, từ đó tôn giả làm ngơ, không quan tâm
đến Diệu Hiền nữa. Quả nhiên, những điều
tiếng thị phi kia đă trở thành chất kích thích
mạnh mẽ, giúp cho Diệu Hiền khởi lên ư chí mănh
liệt. Ni sư bèn tự hạ quyết tâm tu hành nghiêm
mật, thâu đêm không ngủ, phát lồ sám hối,
điều phục tâm ưm và cuối cùng th́ đạt
ngộ. Bấy giờ ni sư tự nhủ: “Những
sợi dây trói buộc đă bị chặt đứt
cả rồi, hạnh thanh tịnh đă hoàn thành, những
ǵ cần làm th́ bây giờ ta đă làm xong!” Sau khi
đạt ngộ, ni sư đă được Phật
khen ngợi: “Trong chúng t́ kheo ni, Diệu Hiền là
người thông suốt về túc mạng bậc
nhất!”.
7.-
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT THAM VẤN:
Có một lúc hai
vị tôn giả Đại Ca Diếp và Xá Lợi Phất
cùng tu trong núi Ḱ Xà Quật (Grdhrakuta - Gijihakuta) ở
ngoại ô kinh thành Vương Xá. Bấy giờ có những
người ngoại đạo đă t́m đến và
đưa ra nhiều câu hỏi hóc búa yêu cầu tôn giả
Xá Lợi Phất trả lời. Những câu hỏi quan
trọng nhất là: Sau khi chết, Như Lai vẫn c̣n có
sinh tử phải không? - Hay không c̣n có sinh tử? Hay vừa
c̣n có sinh tử vừa không c̣n có sinh tử? - Hay vừa
không phải c̣n có sinh tử, vừa không phải không c̣n có
sinh tử?
Những lời
giải đáp của tôn giả Xá Lợi Phất cho
bốn vấn nạn này đă không làm hài ḷng những
người ngoại đạo. Họ bèn riễu cợt:
“Ông ấy đă không giải đáp thỏa đáng
những câu hỏi này của chúng ta th́ sao lại dám
xưng ḿnh là vị thượng tọa trong tăng
đoàn Phật Giáo! Lại c̣n là vị trí tuệ bậc
nhất nữa chứ! Thật không khác một đứa
con nít!” Họ cười cợt xong rồi bỏ
đi. Đợi cho họ đi khuất rồi, tôn
giả Xá Lợi Phất bèn đi đến hang đá
gần đó, nơi tôn giả Đại Ca Diếp
đang tĩnh tu, để xin tham vấn. Trước
tiên, Xá Lợi Phất đem những vấn nạn
của ngoại đạo thuật lại cho Đại
Ca Diếp nghe, rồi hỏi:
- Sư huynh!
Tại sao đức Thế Tôn chưa bao giờ giảng
giải cho chúng ta những vấn đề như vậy?
Đại Ca
Diếp đáp:
- Đức
Thế Tôn đă dứt tuyệt mọi ái chấp, tâm không
c̣n phiền năo, vĩnh viễn giải thoát. Sự
chứng ngộ của Người thật là sâu xa,
rộng lớn, mà những câu vấn nạn kia th́ chỉ
là biểu hiện của tâm mê muội, tranh chấp, cho nên
đâu có thể coi là câu hỏi chính đáng
được! Vả lại, đối với những
vấn đề như vậy, đâu có thể dùng ngôn
từ mà giải thích; bởi vậy, tốt hơn hết
là đừng nên bao giờ đặt ra những vấn
nạn như thế. Đức Thế Tôn đă không bao
giờ giảng giải cho chúng ta những vấn
đề này là chính v́ vậy.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nghe xong, rất lấy làm hoan hỉ, bèn
từ tạ tôn giả Đại Ca Diếp và trở
về chỗ cũ.
8.-
BÀ LĂO NGHÈO ĐƯỢC SINH LÊN CƠI TRỜI:
Một lần
nọ, khi Phật bố giáo ở thành Xá Vệ th́ công
việc hoằng pháp ở khu vực thành Vương Xá
đă do tôn giả Đại Ca Diếp chủ tŕ. Mỗi
khi đi khất thực, tôn giả chỉ t́m đến
những nhà nghèo chứ không bao giờ đến những
nhà giàu, v́ tôn giả quan niệm rằng, giàu nghèo ǵ cũng
đáng thương cả, nhưng người nghèo th́
mỗi ngày đều bị cái nỗi khổ về sinh
kế làm cho lo rầu, nên phải đáng thương
hơn. Hạng người nghèo khó, v́ nghèo mà không bao
giờ được an hưởng vui trần thế,
tuy có được nghe chánh pháp, nhưng không có
điều kiện để bố thí hầu
hưởng được hạnh phúc của sự
bố thí. Do đó, giống như ḍng nước chảy,
ḷng từ bi của tôn giả luôn luôn tuôn đổ vào
lớp người nghèo khổ đáng thương kia.
Trong kinh thành
Vương Xá có một bà lăo cực ḱ nghèo khổ, đă
không có thân thích mà cũng chẳng có một túp lều
để ở. Ban ngày th́ lang thang từ phố đông
sang chợ tây, đêm đến gặp xó hẻm nào th́
nằm ngủ ở đó. Y phục của bà chỉ là
một mớ lá tre chằm lại, không đủ
để che kín thân thể. Đă thế, một ngày
nọ lại bị bịnh trầm trọng, bà phải
trốn một nơi chờ chết. Lúc đó, một
người nô lệ của một nhà giàu nọ đem
nước vo gạo đến đổ bên cạnh
chỗ bà nằm. Bà lập tức lấy cái bát bể
hứng lấy nước gạo ấy để
uống đỡ đói.
Biết
được bà lăo đang trong t́nh trạng như
vậy, Đại Ca Diếp lập tức t́m đến
thăm bà. Từ khi bị bịnh nằm ở đây,
chưa hề có ai đến thăm hỏi bà. Nay vừa
có nghe tiếng động, bà liền ngồi dậy nh́n,
th́ ra là một vị t́ kheo đi xin ăn, “Có lẽ
vị t́ kheo này lại c̣n nghèo hơn ḿnh?” Nghĩ
vậy nên bà nói:
- Thưa bà! Trên
thế gian này, người đáng tôn quí nhất,
người có ḷng nhân từ nhất, chính là Phật, và sau
đó là những người được gội
nhuần ơn giáo hóa của Người. Hôm nay tôi
đến đây xin ăn là để cứu giúp cái nghèo
khổ sở của bà. Tôi cũng đă nghĩ tới
việc đem của cải vật chất đến
giúp đỡ bà, nhưng làm như thế th́ chỉ giúp bà
đỡ khổ trong chốc lát, rồi sự bần cùng
lại càng gia tăng, chẳng ích lợi ǵ, chi bằng,
hiện giờ bà có được bất cứ chút ít ǵ,
xin hăy đem bố thí cho tôi, th́ nhờ công đức
ấy mà bà sẽ hưởng được hạnh phúc
giàu sang trong kiếp sau, hoặc c̣n hơn thế nữa, bà
sẽ được sinh lên các cơi trời, hưởng
thọ phước báo dài lâu.
Bà lăo chăm chú
lắng nghe và cảm thấy được trong lời
nói của tôn giả có chứa đựng một sự
khuyên dạy tràn đầy t́nh thương, cho nên ḷng rất
xúc động, nhưng bà t́m măi bên ḿnh mà đâu thấy có
thứ ǵ để cúng dường! Bà rất tủi thân,
vừa khóc vừa nói:
- Kính bạch
vị sa môn cao thượng! Lời dạy bảo quí báu
của đại đức tôi xin khắc ghi vào tâm
khảm, nhưng thưa đại đức, như ngài
thấy đó, tôi là một kẻ hạ tiện nghèo
khổ, một chút thức ăn cũng không có sẵn bên
ḿnh, quần áo cũng không có một manh lành lặn,
muốn cúng dường ngài mà đâu biết phải làm
sao!
- Thưa bà!
Người đă có ư muốn bố thí tức không c̣n
phải là người nghèo; người có tâm biết
hổ thẹn th́ tức là đă mặc được
pháp y. Đó là hai vật báu hiếm có trên đời , mà
hiện tại bà đă có được th́ chắc
chắn bà không phải là kẻ hạ tiện nghèo khổ
nữa rồi! Bà biết không? Ở trên thế gian này,
những người giàu có, vàng bạc châu báu ê hề, mà
không biết ǵ là bố thí, là hổ thẹn, th́ họ
mới chính là những kẻ hạ tiện nghèo khổ.
Một lần
nữa bà lại cảm thấy niềm pháp hỷ dâng lên
tràn đầy. Bà bỗng quên mất sự nghèo khổ
dơ dáy hiện tại của ḿnh, lập tức lấy
chỗ nước gạo vừa hứng được
dâng lên cúng dường tôn giả Đại Ca Diếp. Tôn
giả cung kính tiếp nhận và đưa lên miệng
uống hết ngay. Cử chỉ chân thành ấy của tôn
giả đă làm cho bà vui mừng cùng cực.
Sau đó không bao
lâu, lăo bà từ trần, được văng sinh lên cơi
trời Đao Lợi, và trở thành một vị thiên
nữ diễm lệ. Một hôm, nhân nhớ lại
tiền kiếp của ḿnh, để đáp đền
ơn đức của tôn giả Đại Ca Diếp,
vị thiên nữ ấy đă hạ giáng, tung rải hoa
trời khắp người tôn giả để cúng
dường.
9.-
MỘT TRƯỜNG HỢP KHÔNG HÀI L̉NG:
Một lần
nọ, tôn giả vâng mệnh Phật đến xem xét t́nh
h́nh sinh hoạt của tăng chúng ở thành Khoáng Dă.
Buổi sáng hôm âư tôn giả y áo chỉnh tể, tay ôm b́nh
bát, oai nghi nghiêm túc, đi vào thành khất thực. Tôn
giả đi ngang qua mấy con đường trong phố
th́ phát hiện ra rằng, nhà nào vừa trông thấy bóng tôn
giả từ đàng xa là vội vàng đóng chặt
cửa lại. Tôn giả liền ra khỏi thành và đi
vào một làng nhỏ th́ sự việc xảy ra cũng
giống y hệt như vậy. Tôn giả rất lấy
làm lạ. Trước đây Phật pháp ở vùng này
rất hưng thịnh, sao bây giờ dân chúng đối
với tăng đoàn không c̣n chút ǵ kính trọng? Tôn giả
cố đi t́m cho một người quen biết ngày
trước để hỏi thăm:
- Đức
Thế Tôn rời thành Khoáng Dă này cũng chưa lâu lắm,
nơi đây cũng vẫn có chúng tăng đang hành hóa,
thế tại sao mọi người lại mất đi
ḷng cung kính đối với Tam Bảo, không cúng dường
cho chư tăng đi khất thực?
Vị thí chủ
đó trả lời:
- Thưa
đại đức! Sau khi đức Thế Tôn rời
thành này, trong vài năm nay, chư tăng ở đây phát
khởi phong trào xây cất. Họ đua nhau xây dựng nhà
cửa, pḥng ốc, nói là đă được Thế Tôn
cho phép. Nói cho ngay, nếu chư tăng xây cất tịnh
xá, giảng đường để làm nơi hoằng
pháp và tu tập cho tăng đoàn th́ bọn cư sĩ
chúng con phải hết ḷng ủng hộ, đàng này họ
chỉ lo xây cất toàn những nhà cửa nhỏ bé dùng làm
nơi nhàn lạc riêng tư; nào gỗ đá, gạch ngói,
dây nhợ, chuyên chở các thứ; nay gọi tín chúng hoan
hỉ việc này, mai bảo tính chúng hỉ xả việc
nọ. Dần dần dân chúng đều cảm thấy hoang
mang lo ngại, chẳng biết t́nh trạng này rồi
sẽ kéo dài cho đến bao giờ mới chấm
dứt! Họ đâm ra nản ḷng, cả trong thành, ngoài
thành, hễ trông thấy chư tăng là họ liền
đóng cửa cài then để khỏi bị h́nh dịch.
Ôi, càng nói ra chúng con càng cảm thấy có lỗi với
đức Thế Tôn!
Thấy
được t́nh h́nh không ổn, tôn giả liền
trở về thành Vương Xá ngay để tŕnh mọi
việc lên đức Phật. Nghe xong, Ngài liền cùng
với tôn giả trở lại thành Khoáng Dă, nhóm họp
chư tăng lại, dạy họ không nên lợi dụng
ḷng tin của tín đồ. Phật dạy:
- Chánh pháp của
Như Lai được lưu truyền là nhờ vào
sự thanh tịnh và cao thượng của tăng
đoàn. Khi người tu học đạt đến
chỗ vô cầu th́ phẩm cách của họ tự nhiên
dâng cao. Cho nên quí thầy không nên cứ đ̣i hỏi tín
chúng phải cung cấp thức này vật nọ; mà trái
lại, quí thầy lúc nào cũng phải nghĩ tới
việc phụng sự chúng sinh. Quí thầy đừng bao
giờ làm cho tín chúng khởi tâm niệm bất mănh đối
với tăng đoàn. Nhiệm vụ trọng yếu
của qưí thầy là hoằng pháp độ sinh chứ
không phải là việc tính toán lo liệu về chỗ
ở riêng tư. Nếu quí thầy muốn xây cất
tịnh xá, giảng đường để làm cơ
sở tu học và hoằng pháp cho tăng đoàn th́
điều đó nên làm, Như Lai hoan hỉ chấp
nhận. Quí thầy nên biết, nếu mỗi thầy
đều lo xây cất tăng xá riêng cho ḿnh th́ lực
lượng của giáo đoàn tức khắc bị phân
tán; v́ rằng, tăng xá này sẽ đối lập
với tăng xá kia, mỗi vị sẽ tự cô lập
ḿnh, và đoàn thể sẽ không c̣n nữa!
Dạy bảo
chư tăng xong, Phật trở về Vương Xá và
lưu tôn giả ở lại đó để lo chấn
chỉnh lại mọi sinh hoạt tu học của
tăng chúng địa phương, hầu lấy lại
ḷng tin của tín đồ. Sau khi mọi việc đă
trở lại b́nh thường, tôn giả liền rời
Khoáng Dă để trở về trú xứ tiếp tục tu
tập.
10.-
TÔN GIẢ AN NAN TẶNG B̀NH BÁT:
Tôn giả
Đại Ca Diếp rất được Phật tín
nhiệm. Phật lúc nào cũng ái hộ tôn giả, cho
cả đối với những sự việc thật
nhỏ nhặt.
Trong giáo đoàn
của Phật có nhóm t́ kheo Măn Túc (Punarvasu), gồm sáu
vị, thường được gọi là “lục
quần t́ kheo” (sadvargikabhiksu - chabbaggiyabhikkhu). Họ kết
bè đảng với nhau để phá rối, làm các
điều tệ hại. Sở dĩ Phật đă
chế ra nhiều giới luật là cũng v́ mấy
vị này. Có một lúc tại tu viện Ḱ Viên, nhóm t́ kheo
này đă đua nhau cất chứa b́nh bát. Thời bấy
giờ, một cách tổng quát, b́nh bát có hai loại:
loại bằng thiếc và loại bằng sành. Nhưng
thật ra tùy theo chất liệu, màu sắc và địa
phương chế tạo mà người ta đă phân ra có
sáu loại b́nh bát khác nhau: bát thiếc, bát tô ma (sản
xuất ở nước Tô Ma), bát ô già (nước Ô Già),
bát ưu già (nước Ưu Già), bát đen, và bát
đỏ. Trong những loại b́nh bát này, nhóm “lục quần
t́ kheo” chuyên sưu tầm những bát thật tốt,
thật quí để cất chứa. Họ bày thật
nhiều b́nh bát, đủ kiểu, trong pḥng riêng của
họ, trông giống như một cửa tiệm bán
đồ gốm. Từ sáng đến tối họ không
để tâm đến việc tu học mà chỉ lo làm
những việc tương tự như vậy mà thôi.
Giáo đoàn của Phật là giáo đoàn khát sĩ, chỉ
đi khất thực để sống, cho nên việc
cất giữ tiền bạc vàng ngọc tuyệt đối
bị cấm chỉ, ngay cả vải vóc, lúa gạo
cũng không được tích trữ; bởi vậy nhóm
t́ kheo này mới chuyển hướng ham thích của
họ sang việc sưu tầm và cất chứa b́nh bát
quí! Khi Phật biết được điều đó,
bèn chế ra điều giới, cấm tăng đoàn
không được tích trữ b́nh bát.
Chính vào hôm Phật
cho ban bố điều giới này th́ tôn giả A Nan
cũng vừa có được một b́nh bát tô ma rất
quí và muốn cúng dường tôn giả Đại Ca
Diếp; nhưng không may cho A Nan là lúc ấy tôn giả
Đại Ca Diếp đang hành hóa ở xứ khác, không có
mặt tại Xá Vệ. Nếu y theo điều giới
trên th́ tôn giả A Nan không được phép giữ
lại chiếc bát đó dù là chỉ trong thời gian
ngắn cho đến khi tôn giả Đại Ca Diếp
trở về. Chẳng biết làm sao hơn, A Nan bèn đem
chuyện ấy tŕnh lên Phật. Phật hỏi:
- Chừng nào th́
thầy Đại Ca Diếp về đến Xá Vệ?
- Bạch Thế
Tôn! Khoảng mười ngày nữa.
Phật bèn
triệu tập đại chúng, giảng nói về
phương pháp chánh đáng và nghiêm túc của người
tu hạnh đầu đà, và khen ngợi tôn giả
Đại Ca Diếp như là một vị tu hạnh
đầu đà mẫu mực, không hề có khuyết
điểm nào, Phật lại bảo quí vị trong nhóm
“lục quần t́ kheo” hăy theo học hạnh đầu
đà với Đại Ca Diếp. Sau đó, do sự
việc cúng dường b́nh bát của tôn giả A Nan,
Phật lại đặc biệt châm chế cho phép
điều giới trên sẽ có hiệu lực sau
mười ngày kể từ hôm ấy.
11.-
CHỈ CHUYÊN TU KHỔ HẠNH:
Đại Ca
Diếp suốt đời tu tập, chỉ tu hạnh
đầu dà. Một ḷng chuyên nhất, dù ở trong t́nh
huống nào, dù có ai khuyên bảo, tôn giả vẫn không thây
đổi chí hướng. Người tu khổ hạnh
như vậy, phải giữ 10 điều như sau: 1)
Thường ở chỗ hoang vắng; 2)
Thường ở một chỗ; 3) Thường
ở nơi băi tha ma; 4) Xin ăn để sống; 5) Xin
ăn không được chọn lựa nhà giàu nhà nghèo; 6)
Chỉ ăn một ngày một bữa; 7) Chỉ giữ
bên ḿnh ba chiếc áo, một tọa cụ và một b́nh bát;
8) Áo mặc phải là một tấm vải gồm
nhiều mảnh giẻ rách người ta bỏ đi,
lượm và chắp lại; 9) Thường ngồi
tư duy ở dưới gốc cây; 10) Thường
tĩnh tọa nơi đồng trống.
Một người
chỉ chuyên cần với nếp tu tập khổ
hạnh như tôn giả Đại Ca Diếp, chỉ
thích ở riêng một ḿnh, rất ít khi giáo hóa
độ sinh, nếu so sánh với những vị t́ kheo
tiến bộ, tích cực, th́ tôn giả hoàn toàn khác
biệt. Tuy ḷng từ bi vi người của tôn giả
vẫn có đủ để được mọi
người kính ngưỡng, nhưng nhiệt t́nh của
tôn giả đối với công cuộc hoằng pháp th́ rơ
ràng là thiếu sót.
Trong thời ḱ
Phật và hai vị đệ tử lớn là Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên c̣n tại thế, phải nói
rằng, trách nhiệm giáo hóa chúng sinh cũng như việc
đối phó với ngoại đạo, trừ Phật
ra th́ chính hai vị tôn giả ấy đă gánh vác phần
lớn; c̣n tôn giả Đại Ca Diếp th́ chỉ chuyên
tâm tu tập, thỉnh thoảng lắm mới có một
lần thuyết pháp chúng tại gia nghe. Sau khi Phật
nhập diệt th́ tôn giả tự nuôi lớn thực
lực và trở thành người có đầy đủ
khả năng và tư cách nhất để thay thế
Phật nắm vững giáo đoàn. Lúc bấy giờ th́ tôn
giả giống như một quả chuông đại
hồng, lúc trầm mặc th́ thật là trầm mặc,
nhưng lúc hữu sự th́ phát tiếng ngân vang khắp
chốn.
Trước kia
cũng đă có lần hai vị tôn giả Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên khuyên tôn giả hăy quên ḿnh
đi và phát tâm bồ đề, nhận lănh sứ mạng
hoằng pháp lợi sinh, xiển dương chân lí, nhưng
trước sau tôn giả vẫn một mực giữ
vững chí hướng của ḿnh. Tôn giả nói:
- Tôi không dám nhận
lănh trách nhiệm hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng
sinh. Việc giáo hóa cho những kẻ không có ḷng tin hoặc
những ác tâm th́ tôi thật sự không có đủ can
đảm và nghị lực. Điều mà tôi cố
gắng thực hiện tối đa trong nếp sinh
hoạt tu học của riêng tôi là dựng nên một khuôn
mẫu tu hành gian khổ để cho người
đời sau trông thấy và biết tôn trọng cùng
thực hành nếp sống thiểu dục tri túc của
người tu hạnh đầu đà. Hoằng pháp
lợi sinh là nhiệm vụ vô cùng trọng đại, xin
hoàn toàn trông cậy ở hai sư huynh.
Tuy thế, hai vị
tôn giả ấy vẫn không lấy đó làm thất
vọng, trái lại c̣n xưng tụng:
- Đúng ra th́
Phật pháp bao gồm nhiều phương diện,
mỗi người nên theo đuổi cái lí tưởng
thực tiễn của riêng ḿnh. Sư huynh có đủ
khả năng và nghị lực để dương
ngọn cờ chánh pháp ở một phương diện,
th́ đó cũng là một công phu lớn lao phi
thường. Chúng tôi vô cùng hoan hỉ.
Tôn giả
Đại Ca Diếp không thích cái nếp sống tập
thể tại các tu viện như Trúc Lâm hay Ḱ Viên, và
thậm chí c̣n ghét những nơi nào có cái không khí vui vẻ,
tươi mát; triá lại, tôn giả chỉ thích tĩnh
tọa ở những nơi trống vắng, hoặc
ngồi quán tưởng xác chết nơi các g̣ mả, hay
nghỉ ngơi vá áo dưới gốc cây. Tôn giả
nhận thức rằng, chính những tử thi hôi thối
hoặc những hài cốt trơ vơ kia mới thực
sự giúp ích cho công phu thiền quán, nhất là những phép
quán về vô thường, khổ, không, vô ngă, bất
tịnh v.v... Tôn giả không hề sợ mưa to gió
lớn, sương nắng ngặt nghèo. Dù về già thân
thể khô gầy, tôn giả vẫn cứ sống một
ḿnh trong núi sâu rừng rậm, hoặc ở các băi tha ma
đầy dẫy xương khô; đối với nếp
tu tập đầu đà khổ hạnh, dù bất cứ
ai khuyên bảo, tôn giả vẫn không bỏ dở.
12.-
ĐỨC PHẬT CHIA HAI CHỖ NGỒI:
Càng về già,
Đại Ca Diếp càng tinh nghiêm hơn trong nếp tu
tập hạnh đầu đà. Thấy tôn giả tuy
đă tuổi già sức mỏi nhưng cứ vẫn
một mực dầm sương dăi nắng, vẫn can
trường với gió thét mưa gào, Phật cũng
lấy làm ái ngại, muốn khuyên tôn giả nên đ́nh
chỉ lối tu ấy.
Bấy giờ Phật
đang ngự tại giảng đường Lộc
Mẫu (Mrgaramatr - Migaramata - gần tu viện Ḱ Viên, thành Xá
Vệ). Một hôm Phật cho người đi mời tôn
giả. Tôn giả mặc áo chằm, râu tóc dài ngoằng,
chân bước khập khiểng, đến hầu
Phật. Những vị t́ kheo mới tu đâu có biết
tôn giả là ai, thấy nghi dung tiều tụy như
vậy, th́ chỉ nh́n tôn giả bằng cặp mắt
khinh rẻ; thậm chí có vị c̣n cản trở không cho
tôn giả đến gần Phật. Phật thấy rơ cái
tâm lí ấy của họ, cho nên từ xa đă vẫy
gọi:
- Hăy lại
đây, thầy Đại Ca Diếp! Như Lai đă
chừa sẵn một nửa chỗ ngồi ở đây,
thầy hăy đến cùng ngồi với Như Lai!
Nghe Phật
bảo thế, quí vị t́ kheo kia liền run sợm, v́ lúc
đó họ mới biết vị trưởng lăo kia chính
là tôn giả Đại Ca Diếp, tiếng tăm lừng
lẫy trong giáo đoàn mà họ đă từng nghe danh
nhưng chưa biết mặt.
Tôn giả lạy
Phật xong, bước lui vài bước, rồi thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Con chỉ là người đệ tử hèn mọn
của Thế Tôn. Con không dám ngồi chung chỗ ngồi
với Thế Tôn.
Phật liền
hướng về đại chúng, nói rơ cho họ biết
về oai đức rộng lớn vô biên của
Đại Ca Diếp cũng như lịch tŕnh tu hành
của tôn giả thật giống như Phật; và
rằng giả sử đời này dù không gặp Phật
th́ tôn giả tự ḿnh tu tập cũng đạt
được giác ngộ, chứng được quả
vị Độc giác. V́ vậy mà không ai ngạc nhiên khi
thấy Phật đặc biệt coi trọng tôn giả
và đă dành cho tôn giả một địa vị trọng
yếu trong tăng đoàn. Hôm ấy Phật cũng nhân
tiện khuyên tôn giả không nên tiếp tục nếp
sống khổ hạnh mà trở lại nếp sống
b́nh thường để cho tuổi già đỡ
phải chịu lao khổ thái quá. Dù thâm cảm đối
với sự ân cần của Phật, tôn giả vẫn
không chịu thay đổi nếp sống khổ hạnh
của ḿnh. Tôn giả thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Nếp sống khổ hạnh đối với con
không có ǵ là khổ sở thái quá cả, trái lại con là
một nếp sống vô cùng an vui. Con không phải lo
lắng ǵ về cơm ăn áo mặc, không liên quan ǵ
đến sự được mất của
người đời, thật là một nếp sống
hoàn toàn thanh tịnh, tự do và giải thoát. Bạch
Thế Tôn! Lẽ dĩ nhiên là người ta sẽ cho
rằng con sống như vậy là chỉ sống cho riêng
ḿnh, không như các sư huynh con là Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, v.v... từng gánh
vác trách nhiệm hoằng dương Phật pháp, không
sợ khó khăn, không tiếc thân mạng, chỉ cốt
làm sao cho bánh xe pháp được quay măi, cho mọi chúng
đều được thấm nhuần pháp vị,
đều được ân hưởng pháp lạc,
nhưng dù không đủ nhiệt t́nh đối với
công việc hoằng pháp, con vẫn không bao giờ quên
được ân đức của Thế Tôn đối
với con; và v́ để báo đền ân đức
ấy của Thế Tôn mà con càng cố giữ nếp tu
tập khổ hạnh. Con trộm nghĩ, chúng sinh
được cứu độ là c̣n nhờ vào sự giáo
hóa của tăng đoàn. Những vị làm công tác
hoằng pháp sẽ trở thành những vị pháp sư
gần gũi nhất của dân chúng; cho nên, trước
hết tự bản thân họ - cũng tức là tự
bản thân của tăng đoàn - phải được
kiện toàn th́ công việc hoằng pháp mới hoàn toàn ích
lợi. Nhưng bản thân của tăng đoàn cần
phải được kiện toàn như thế nào? Con
nghĩ, chỉ có một cách duy nhất là tăng đoàn
phải có một nếp sinh hoạt thật nghiêm túc
để từ đó mà nồi dưỡng đức
hạnh cho cá nhân ḿnh. Trong giáo pháp của Thế Tôn th́
hạnh đầu đà là một phương thức sinh
hoạt nghiêm túc nhất. Phải tu tập nếp sống
này th́ mói chịu được khó nhọc, mới có
thể nhẫn nại, mới có thể sống đạm
bạc, mới có thể nhất tâm nhất đức và
v́ pháp v́ người. Bạch Thế Tôn! Con cũng v́
muốn góp phần trực tiếp củng cố tăng
đoàn và đồng thời gián tiếp làm lợi lạc
cho chúng sinh nên con vẫn hoan hỉ tiếp tục nếp
sống khổ hạnh. Xin Thế Tôn tha thứ cho tội
cố chấp của con!
Phật rất
hoan hỉ nh́n Đại Ca Diếp, rồi nh́n xuống
đại chúng nói:
- Quí thầy đă
nghe rơ những lời của trưởng lăo Đại Ca
Diếp chưa! Trong tương lai, nếu chánh pháp của
Như Lai bị hủy diệt th́ không phải là do thiên ma
hay ngoại đạo phá hoại, mà chính là do tăng
đoàn hủ hóa, băng hoại! Đại Ca Diếp
đă nói rất đúng. Muốn hoằng dương
Phật pháp để cho ánh sáng chân lí vĩnh viễn
rọi chiếu ở thế gian th́ điều tiên
quyết là tăng đoàn phải được củng
cố; mà muốn củng cố tăng đoàn th́ mọi
người phải sống nếp sống thật nghiêm
túc. Chánh pháp của Như Lai, phải có những vị
như Đại Ca Diếp mới có đủ khả
năng và tư cách để chủ tŕ.
Hướng về
tôn giả Đại Ca Diếp, Phật bảo:
- Đại Ca
Diếp! Vậy th́ thầy hăy trở về chỗ ngụ
để tiếp tục tu tập theo con đường
thầy đă chọn. Như Lai không ép thầy nữa. Bất
cứ lúc nào muốn gặp Như Lai, thầy cứ tùy
tiện đến vói Như Lai!
13.-
KẾ THỪA Y BÁT CỦA PHẬT:
Thời gian qua mau,
bấy giờ Phật đă 80 tuổi thọ. Duyên hóa
độ của Phật ở thế gian cũng đă
măn. Tin Phật sắp nhập niết bàn đă
được truyền khắp nơi cho chư tăng ni
biết. Trước đó, tôn giả Mục Kiền Liên
đă tuẫn giáo, và tôn giả Xá Lợi Phất cũng
nối tiếp nhập diệt. Giờ đây,
trước khi nhập niết bàn, Phật cũng đă
nghĩ đến việc chọn người thừa
kế để chủ tŕ công cuộc hoằng pháp cũng
như để lănh đạo giáo đoàn. Chỉ c̣n hai
vị có thể được chọn: lớp già th́ có
Đại Ca Diếp, lớp trẻ th́ có A Nan. Trong hai
vị này th́ tôn giả Đại Ca Diếp đă từng
được trao cho “kho tàng của cái thấy mầu
nhiệm” (chánh pháp nhăn tạng) ở pháp hội Linh
Sơn thuở nọ, cho nên đă mặc nhiên
được Phật chấp nhận là người
thừa kế tôn vị của Phật.
Phật nhập
niết bàn tại thành Câu Thi Na (Kusiangara - Kusinara). Hôm ấy
tôn giả Đại Ca Diếp không có mặt. Tôn giả
đang hướng dẫn tu học cho năm trăm
vị t́ kheo ở tận phương Bắc, nước
Đạc Xoa Na Ḱ. Vừa được tin, tôn giả quá
đau thương, tức tốc dẫn theo năm
trăm vị ấy, đi ngày đêm không nghỉ
để về Câu Thi Na. Đến nơi, tôn giả
thấy có vị th́ mặt buồn ngồi yên lặng, có
vị th́ nằm lăn ra đất khóc lóc thảm
thiết, nhưng có vị trong nhóm “lục quần t́ kheo”
th́ lại đang hân hoan nói:
- Quí vị làm ǵ mà
phải khóc thương như vậy? Phật nhập
niết bàn rồi chúng ta mới được tự do.
Lúc c̣n sống th́ ông già ấy nói năng ǵ cũng cốt
để bó buộc chúng ta, kềm chế chúng ta. Ông
ấy cứ hay nói cái này không tốt, cái kia không đúng. Ông
ấy nói nhiều quá, làm phiền chúng ta quá! Bây giờ ông
già ấy đă nhập diệt rồi, chúng ta
được nhẹ nhàng, thoải mái biết mấy!
Một v́ t́ kheo
muốn đuổi vị ấy ra khỏi phạm vi
hỏa đàn, nhưng tôn giả ngăn lại, bảo
vị “lục quần t́ kheo:
- Đức
Thế Tôn đă nhập diệt niết bàn, mọi
người đều đau buồn v́ mất nơi
nương tựa. Sao thầy lại dại dột
cười vui và nói lên những lời sai quấy như
vậy!
Hôm ấy đă là
ngày thứ bảy sau ngày Phật nhập diệt. Hỏa
đàn và mọi thứ chuẩn bị cho lễ trà t́
đều đă sẵn sàng. Tôn giả vào đến chỗ
đặt kim quan th́ một chân của Phật tḥ ra
khỏi kim quan. Tôn giả không cầm được
nước mắt, vội vàng đảnh lễ và
bạch:
- Kính lạy
Thế Tôn! Xin Thế Tôn yên tâm. Chúng con sẽ nương
theo bước chân của Thế Tôn mà đi tới.
Tôn giả nói xong
th́ chân Phật thu trở lại vào kim quan, và hỏa đàn
liền tự nhiên bốc cháy. Từ đó, trách nhiệm
lưu truyền chánh pháp đă do tôn giả gánh vác.
14.-
KẾT TẬP THÁNH ĐIỂN:
Chín mươi ngày
sau khi Phật diệt độ, đại hội kết
tập pháp tạng được cử hành.
Trướ
hết, việc chọn lựa địa điểm và lo
những chi phí cho đại hội đă là những
việc khó nhọc cho tôn giả Đại Ca Diếp. Các
tu viện Trúc Lâm và Ḱ Viên đều quá rộng lớn,
hơn nữa, lại có rất nhiều quí vị t́ kheo
chưa chứng quả li dục. Cuối cùng, tôn giả
đă quyết định chọn Tất Bát La (Pippaliguha),
một hang đá thật rộng răi, ẩn kín, ở phía
Đông Nam thành Vương Xá, để làm địa
điểm kết tập. Trong đại hội này,
năm trăm vị A La Hán đệ tử xuất sác
của Phật đă vân tập và đă suy tôn quí vị tôn
giả Đại Ca Diếp, A Nan, A Na Luật, Ưu Ba Li
và Phú Lâu Na lên hàng thượng thủ. (Lúc này quí vị
đệ tử lớn khác của Phật như Kiều
Trần Như, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, La Hầu La, đều đă nhập
niết bàn; c̣n Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên th́ không
thấy vết tích.- Chú thích của người dịch).
Trước tiên,
với tư cách thủ tọa, tôn giả Đại Ca
Diếp đă trách cứ tôn giả A Nan ngay trước
mặt đại chúng về sáu khuyết điểm, mà
quan trọng nhất là cho tới giờ phút đó tôn
giả A Nan vẫn chưa chứng thánh quả A La Hán.
Lời trách cứ của tôn giả thật oai nghiêm không
thua ǵ Phật, khiến cho tôn giả A Nan không dám nói
năng, chỉ biết nhận lănh để thi hành.
Từ ngày thứ hai của đại hội trở
đi, lần lượt, tôn giả A Nan tụng lại
các kinh, tôn giả Ưu Ba Li tụng lại các giới
luật, và tôn giả Phú Lâu Na tụng lại các
điều nghị luận, hoàn thành ba kho tàng quí báu của
Phật pháp. Pháp vũ cam lộ của Phật, kho
thánh điển rộng lớn như biển cả mà
chúng ta c̣n được thừa hưởng ngày hôm nay,
chính là do ân đức của tôn giả Đại Ca
Diếp vậy.
Khi Phật c̣n
tại thế, trong khi quí vị tôn giả anh tài vốn là
các đệ tử thủ túc của Phật, như Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên, hoạt động rất
tích cực ở trong cũng như ngoài giáo đoàn, th́ tôn
giả Đại Ca Diếp chỉ lặng lẽ tu
khổ hạnh; thỉnh thoảng lắm mới có vài
hoạt động bố giáo. Nhưng từ sau khi hai vị
tôn giả kia và Phật lần lượt nhập diệt
th́ tôn giả mới lộ rơ ra là một người có
đầy đủ khả năng và oai đức
để lănh đạo giáo đoàn. Lúc bấy giờ, tôn
giả quả thật là khối đá tảng của
đạo pháp.
Thái độ
của tôn giả rất là bảo thủ, không giống
với tinh thần cấp tiến của hai tôn giả Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Cho nên những phong
cách tu hành ẩn dật, rừng núi, khổ hạnh và
bảo thủ của Phật giáo ngày nay, đă chịu
ảnh hưởng phần lớn từ tôn giả
Đại Ca Diếp, điều đó không thể
phủ nhận được.
15.-
HẸN GẶP NHAU Ở PHÁP HỘI LONG HOA:
Khoảng hai ba
mươi năm sau ngày Phật nhập niết bàn, tôn
giả Đại Ca Diếp bỗng nảy sinh niệm
chán đời.
Tôn giả nghĩ:
“Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của
ta. Như cha mẹ thương cho nên, ân đức của
Người đối với ta sâu rộng như
biển. Để báo đền phần nào ân đức
ấy, ta đă tận lực hoằng truyền chánh pháp,
mong được trường tồn măi đến ngàn
sau. Bây giờ th́ ta đă già nua quá rồi, yếu
đuối quá rồi, đâu c̣n làm ǵ được
nữa; chi bằng ta nhập niết bàn th́ có phải là
đúng lúc không!”. Năm ấy tôn giả đă trên
một trăm tuổi thọ.
Suy nghĩ như
vậy, tôn giả liền t́m đến tịnh thất
của tôn giả A Nan, phó chúc pháp tạng cho A Nan thừa
kế rồi lần lượt đến từng ngôi
tháp thờ xá lợi Phật cúng dường lễ bái. Sau
đó tôn giả trở về thành Vương Xá để
từ biệt vua A Xà Thế, nhưng quân cận vệ cho
tôn giả biết là nhà vua đang ngủ. Tôn giả bèn
rời thành Vương Xá đi về hướng núi Chân
Gà, cách thành hơn tám dặm về phía Tây Nam. Núi này gồm
có ba ngọn cao chót vót, làm thành h́nh chân gà. Từ lưng
chừng núi trở xuống toàn là cỏ rậm, lưng
chừng núi trở lên th́ toàn là rừng cây sầm uất.
Khi tôn giả lên đến núi th́ cả ba ngọn tự
nhiên đồng mở ra, để lộ một chỗ
ngồi. Tôn giả liền lấy cỏ lót thành một
chiếc đệm và ngồi xuống, rồi tự nói
với ḿnh: “Nay ta phải lấy chiếc áo chằm
để che chở và dùng sức thần thông để
giữ ǵn thân xác này, đợi đến sáu triệu
bảy trăm ngàn năm sau, khi đức Bồ Tát Di
Lạc giáng trần thành Phật th́ ta lại t́m đến
bái kiến và trợ giúp Người giáo hóa chúng sinh".
Tôn giả nói xong th́ cả ba ngọn của núi Chân Gà
liền khép lại, giấu kín nhục thân của tôn
giả.
Vua A Xà Thế khi
biết được tin tôn giả nhập diệt th́
buồn thưong không kể xiết, lập tức t́m
đến bái kiến tôn giả A Nan và mời cùng đi lên
núi Chân Gà. Khi hai vị đến nơi th́ ba ngọn núi
lại đồng loạt mở ra, để lộ cho họ
thấy tôn giả Đại Ca Diếp đang ngồi ngay
ngắn trong tư thế thiền định. Hai vị
liền cúng dường lễ bái rồi lui xuống,
tức th́ ba ngọn núi đóng lại như cũ ...