Lịch Sử Kết Tập Kinh-Luật-Luận
Lần Thứ Nhất
Thích Phước
Sơn
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập
Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500
vị đại Tỳ kheo tại giảng
đường Trùng Các, bên ḍng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá
Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong
số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đă đắc quả A
La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
Bấy giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói
với các vị Tỳ kheo: «Này chư hiền, trên
đường tôi trở về thành Câu Thi (Kusinàrà)
để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần
cuối cùng, khi hay tin Ngài nhập Niết bàn, th́ có một
việc đáng buồn xảy ra: Trong khi các Tỳ kheo khóc
than thảm thiết, không thể kiềm chế
được ḷng thương tiếc Đức Thế Tôn,
có người lảo đảo trên mặt đất,
bước đi không nổi, th́ Tỳ kheo Bạt Nan Đà
(Upananda) đang đi trước họ, bảo họ im
lặng và nói: «Vị trưởng lăo ấy thường
dạy chúng ta nên làm như thế này, không nên làm như
thế kia; nên học những điều này, không nên
học những điều kia, thật là phiền
toái.Bọn chúng ta ngày nay mới thoát được nỗi
khổ ấy, tùy ư muốn làm ǵ làm, không c̣n ai ngăn cản
nữa.V́ sao các ông lại thương tiếc khóc than?«. Ta
nghe lời nói ấy, cảm thấy đau đớn và lo
âu. Ngày nay, tuy Phật đă Niết bàn, nhưng giới
luật vẫn c̣n đó, chúng ta phải hợp sức
kết tập lại giới luật chớ để cho
Bạt Nan Đà cấu kết cùng bè đảng phá hoại chánh
pháp.
Các Tỳ kheo đều tán đồng lời nói
của tôn giả Đại Ca Diếp, và thưa rằng:
«Thưa trưởng lăo, A Nan thường hầu cận
Thế Tôn, Thầy ấy thông minh, nghe nhiều, ǵn giữ
kho tàng chánh pháp đầy đủ, nay ta nên mời
Thầy vào trong số những người kết tập
luật tạn”.
Tôn giả Ca Diếp liền bảo: «A Nan c̣n
ở địa vị cần phải học (hữu
học), c̣n bị tham ái, sân hận, si mê và sợ hăi chi
phối, không nên cho tham dự”.
Thế nhưng, lúc này tôn giả A Nan đang
ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường
thuyết pháp cho 4 chúng. Mọi người nghe pháp đông
đúc chẳng kém ǵ khi Phật tại thế. Tại
đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt
Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, v́ không khí ồn
ào không thể du hí trong tam muội giải thoát, bèn quán
chiếu xem A Nan đă giác ngộ hay chưa, th́ thấy
rằng A Nan c̣n ở bậc hữu học, liền
đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ:
« Ngồi dưới chỗ cây
vắng
Tâm hướng
đến Niết bàn.
Thiền
định chớ phóng dật
Nói nhiều có ích
chi?«
A Nan nghe vị
Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại
biết việc Ca Diếp không cho ḿnh tham dự kết
tập luật tạng nên đầu đêm, giữa
đêm và cuối đêm đều siêng năng đi kinh
hành, mong cầu được giải thoát, nhưng
vẫn chưa đạt được. Đến lúc
nửa đêm, thân thể mỏi mệt cực độ,
thầy định nằm nghĩ một chút, liền
nghiêng đầu xuống gối, khi đầu vừa
chấm gối, th́ bỗng dưng dứt hết lậu
hoặc. Các Tỳ kheo biết thế bèn thưa với Ca
Diếp: « Đêm qua A Nan đă được giải thoát,
giờ đây nên cho thầy vào trong số người
kết tập luật tạng«. Ca Diếp liền chấp
nhận đề nghị ấy. Thế rồi tôn giả
chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập; v́
ở đây có đầy đủ các phương
tiện và thực phẩm.
Bấy giờ, 500 vị La Hán liền đến
thành Vương Xá. Trong tháng đầu mùa hạ, họ lo
sửa chữa pḥng ốc và chuẩn bị ngọa
cụ; tháng thứ hai tọa thiền để
hưởng pháp vị giải thoát; đến tháng thứ
ba mới tập họp lại một chỗ. Thế
rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả
Ưu Ba Ly kết tập Luật tạng, và
được đại chúng chấp thuận.Ca Diếp
bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật
chế trước nhất, chế tại đâu,
người nào sai phạm, phạm về tội ǵ v.v...
Ưu Ba Ly tŕnh bày rằng: Phật chế giới dâm
trước nhất, do Tu Đề Na (Sudinna) vi phạm
đầu tiên v.v...Một người hỏi, một
người đáp và cuối cùng hỏi lại đại
chúng, đại chúng cũng hoàn toàn nhất trí với
sự tŕnh bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này
kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất gồm
đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và
được đặt tên là Bát thập tụng luật
(Bộ luật được đọc đến 80
lần).
Tiếp theo, tôn giả Ca Diếp đề
cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và
được đại chúng nhất trí.Tôn giả A Nan
lần lượt kết tập các kinh sau đây:Tăng
nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà,
Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật
thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà
tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh
dài kiết tập thành một bộ gọi là
Trường A Hàm, những kinh trung b́nh kết tập
lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh
nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo,
Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên
kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm.
Những kinh lần lượt nói từ một pháp
tăng dần đến mười một pháp kết
tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm.
ngoài ra tập họp các kinh nói bao quát nhiều vấn
đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng.
Thế rồi,tôn giả Ca Diếp tuyên bố: «Từ nay
chúng ta đă kết tập giáo pháp hoàn tất. Từ nay
trở đi, những ǵ Phật không chế định
th́ không được tùy tiện chế định,
những ǵ Phật đă chế định th́ không
được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn
học tập những ǵ Phật đă chế
định«.
Tôn giả A Nan bấy giờ thưa với tôn
giả Ca Diếp: «Chính bản thân tôi từng nghe Phật
dạy rằng: «Sau khi ta Niết bàn, nếu thấy
những giới nào có tính cách nhỏ nhặt, các
ngươi có thể loại bỏ«.
Ca Diếp liền hỏi: «Thầy cho những
giới nào là nhỏ nhặt?«.
A Nan đáp: «Không biết«.
- V́ sao không biết?
- V́ tôi không hỏi Thế Tôn.
- V́ sao không hỏi?
- V́ bấy giờ thân Phật đang bất an,
sợ làm năo loạn Ngài.
- V́ thầy không hỏi ư nghĩa những vấn
đề ấy, nên phạm tội Đột cát la, phải
tự ḿnh nhận tội và sám hối.
- Thưa Đại đức, không phải là tôi
không tôn kính giới mà không hỏi ư nghĩa những vấn
đề ấy nhưng v́ sợ làm phiền Đức
Thế Tôn, nên không hỏi. Trong vấn đề này, tôi
không thấy ḿnh phạm tội, nhưng v́ kính trọng và
tin tưởng Đại đức, nên tôi xin sám hối.
- Khi thầy vá y Tăng già lê cho Thế Tôn,
thầy đă dùng chân đạp lên y, do đó, phạm
tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức, không phải là tôi
không kính trọng Phật, nhưng v́ lúc đó không có ai
cầm y,nên tôi phải dùng chân đạp lên y để
vá...(nt).
- Thầy đă ba lần cầu xin Thế Tôn cho
phép nữ giới xuất gia trong chánh pháp, nên phạm
tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức, không phải là tôi
không tôn kính pháp, nhưng v́ bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề Cù Đàm Di
từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng
thành, rồi Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác. Công ơn
ấy cần phải báo đáp, nên tôi mới ba lần
cầu thỉnh Thế Tôn cho phép nữ giới xuất
gia...(nt).
- Khi Phật sắp nhập Niết bàn đă
hiện tướng nói với Thầy rằng: Nếu
người nào đạt được bốn thần
túc, muốn giữ thọ mạng một kiếp hoặc
hơn một kiếp đều có thể làm được,
Đức Như Lai đă thành tựu vô lượng thiền
định, và đă ba lần hiện tướng nói
với thầy như thế mà thầy không cung thỉnh
Phật trụ thế một kiếp, hoặc hơn
một kiếp, nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức, không phải tôi không
muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài, nhưng v́ ác
ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không thưa
thỉnh... (nt).
- Ngày xưa, Phật đă ba lần nhờ
thầy đi lấy nước cho Phật uống, mà
rốt cuộc thầy không dâng nước cho Phật, nên
phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức, không phải là tôi
không dâng nước cho Phật, nhưng v́ bấy giờ có
500 chiếc xe vừa đi qua phía trên ḍng sông khiến cho
nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi
không lấy nước cho Thế Tôn...(nt).
- Thầy đă cho phép nữ giới lễ Xá
lợi Phật trước mọi người, nên
phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa Đại đức, không phải tôi
muốn cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật
trước nhưng v́ trời sắp tối, họ vào
thành không kịp, nên tôi mới cho phép...(nt).
Tiếp theo, đại hội cứu xét
những giới nào có thể loại bỏ,tôn giả Ca
Diếp tŕnh bày: « Nếu chúng ta xem chúng học pháp
(những pháp cần phải học) là những giới
nhỏ nhặt có thể loại bỏ th́ các Tỳ kheo
khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề đề
xá ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể
loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba la
đề đề xá ni là những giới nhỏ
nhặt, th́ các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba
dật đề cũng là những giới nhỏ
nhặt v.v... giờ đây, chúng ta không thể khẳng
định giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại
bỏ một cách tùy tiện th́ bọn ngoại đạo
sẽ bảo: «Pháp của sa môn Thích tử giống như
mây khói, khi thầy c̣n sống th́ những pháp do thầy
chế định các đệ tử tuân thủ một
cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn,
họ không chịu thực hành nữa«. Do vậy, tôi xin
khẳng định lại: «Những ǵ không do Phật
chế th́ không được tự ư chế định,
và những ǵ do Phật chế định th́ không
được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn
học tập những ǵ mà Phật đă truyền
dạy«.
Sau khi nghe tŕnh bày, tất cả đại chúng
đồng thanh nhất trí với lời tuyên bố
của tôn giả Ca Diếp.
Lúc này trưởng lăo Phú Lâu Na đang ở
phương Nam, nghe Phật Niết bàn tại thành Câu Thi,
và các trưởng lăo Tỳ kheo đang kết tập
Tỳ Ni pháp tạng tại thành Vương Xá, liền
dẫn đồ chúng đến đó tham dự. Nhưng
khi đến nơi, đại hội kết tập
vừa xong.Do đó, trưởng lăo yêu cầu đại
hội đọc tụng lại một lần nữa
để trưởng lăo và đồ chúng cùng nghe. Đại
hội đă hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu
ấy.
Trong đại hội kết tập này,
được các trưởng lăo sau đây chủ tŕ:
1. Trưởng lăo A Nhă Kiều
Trần Như làm đệ nhất Thượng
tọa
2. Phú Lâu Na làm
đệ nhị Thượng tọa
3. Đàm Di làm
đệ tam thượng tọa
4. Đà Bà Ca Diếp
làm đệ tứ Thượng tọa
5. Bạt Đà Ca
Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6. Đại Ca
Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7. Ưu Ba Ly làm
đệ thất Thượng tọa
8. A Na Luật làm
đệ bát Thượng tọa.
V́ cuộc kết
tập này vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều, không
ít, nên được gọi là cuộc kết tập giáo
pháp của 500 vị La hán (ngũ phần luật, ĐTK.1421,
tr 190b- 192a).
So sánh và nhận xét
1. Nhận xét tổng quát:
- Luật ngũ
phần tŕnh bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ tŕnh bày
về sự kết tập.
- Luật tứ phần, ngoài phần tŕnh bày
sự kiện kết tập, c̣n nói thêm đôi nét về lúc
Phật Niết bàn.
- Luật Thập tụng tŕnh bày tương
đối phong phú nhất, v́ c̣n thêm nhiều chi tiết lúc
Phật Niết bàn.
2.
Những vị chủ tŕ cuộc kết tập:
- Luật Ngũ
phần (xem lại trước)
- Luật Tứ phần ghi: a) Đà Ê La Ca Diếp, b)
Trưởng lăo Bà bà Na, c) Đại Ca Diếp, d)
Trưởng lăo Đại Châu Na.
Luật Thập tụng ghi: a) A Nhă Kiều
Trần Như, b) Trưởng lăo Quản Đà, c) Thập
Lực Ca Diếp, d) Ma Ha Ca Diếp.
3.
Những vấn đề Ca Diếp chất vấn A Nan:
- Luật Ngũ
phần (tóm tắt những tŕnh bày trên): a)- A Nan không
hỏi Phật những giới nào là nhỏ nhặt có
thể loại bỏ, b)- A Nan đạp chân lên y Tăng
già lê của Phật, c)- A Nan đă xin Phật cho phụ
nữ xuất gia, d)- A Nan không xin Phật trụ thế lâu
hơn nữa mà để Phật Niết bàn, e)- A Nan không
lấy nước cho Phật uống khi Phật đang
cần. f)- A Nan đă cho phép nữ giới lễ xá lợi
Phật trước nhất.
- Luật Tứ phần: Bộ này đề
cập đến 7 điều.Riêng điều thứ hai
khác hẳn hai bộ kia, như sau: Phật đă ba lần
yêu cầu A Nan làm người cúng dường mà A Nan
nhất quyết không nhận. C̣n các điều 1, 3 , 4, 5,
6, th́ giống như các điều 1-5 của Ngũ
phần, chỉ đảo lộn vị trí. Điều 7
cuối cùng th́ viết: A Nan không ngăn nữ giới
khiến họ làm bẩn chân Phật (1) (ĐTK, 1428, tr 966a).
- Luật Thập tụng: 5 điều
trước giống như Luật ngũ phần, chỉ
đảo lộn vị trí. Riêng điều thứ sáu,
luật này nói «A Nan đă để lộ âm tàng
tướng của Phật cho nữ giới xem (2) (ĐTK
1428, tr 449b).
4-
Một số khía cạnh khác:
a. Địa
điểm kết tập: cả ba bộ đều
nhất trí cho là tại thành Vương Xá.
b. Thời gian kết tập: cả ba bộ
đều đồng ư cho rằng vào mùa hạ năm
Phật Niết bàn.
c. Số người tham dự kết tập:
cả ba bộ đều ghi nhận con số 500 vị La
hán.
d. Người phấn khởi nhất khi hay
Phật nhập Niết bàn: cả ba bộ đều cho
là Tỳ kheo Bạt Nan Đà, một Tỳ kheo bán thế
xuất gia khi đă lớn tuổi.
e. Tất cả đều đồng ư giữ
nguyên những ǵ Phật chế, nhưng tùy nghi áp dụng,
không thêm cũng không bớt.
g . Vấn đề tạng Luật: cả 3
bộ đều nhất trí cho rằng kết tập
Luật tạng trước do Ưu Ba Ly đảm trách,
Kinh tạng sau, do A Nan thực hiện,
- Bộ Ngũ
phần: chỉ nói kết tập tạng Luật và
tạng Kinh. Hai bộ kia th́ bảo kết tập cả
Luận tạng và do A Nan phụ trách, như sau:
- Bộ Tứ phần nói: điều ǵ liên quan
đến những việc làm có nạn hay không có nạn,
đều tập họp lại thành tạng Luận.
- Bộ Thập tụng nói: Phật dạy
rằng ai phạm 5 tội - sát sinh, trộm cắp, tà dâm,
vọng ngữ, uống rượu th́ sau khi chết sẽ
đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn,
đó là tạng Luận. Bộ này nói rơ: Từ nay trở
đi, mở đầu tất cả các bộ Kinh,
Luật, Luận đều dùng câu «Như thị ngă
văn, nhất thời ....« (Tôi nghe như vầy, một
thuở...)
Có một
điều khiến chúng ta phải lưu ư:tuy xuất phát
từ một đại hội kết tập mà khi
tường thuật lại vẫn có những điều
dị biệt. Đó là do tŕnh độ ghi nhận,
phương thức tŕnh bày và quan điểm của
mỗi bộ phái. Thế nhưng, đặc biệt
tư liệu này nằm trong luận tạng,
được bảo tŕ khá tốt, và tương
đối c̣n giữ được tính chất nguyên
thủy và trung thực, chưa bị t́nh trạng «tam sao
thất bổn« làm cho sai lạc. V́ vậy, khi đề
cập đến lịch sử kết tập Tam tạng
giáo điển, chúng ta có thể yên tâm phần nào trong
việc dẫn chứng về phương diện sử
liệu./.
* Chú thích:
(1) Tôn giả Ca Diếp chất vấn A Nan: «V́
sao thầy không ngăn cản nữ giới để
họ làm bẩn chân Phật?«, A Nan đáp: «không phải tôi
cố ư làm như vậy, nhưng v́ tâm hồn nữ
giới rất mềm yếu, nên khi đảnh lễ chân
Phật, họ khóc lóc làm rơi nước mắt trên chân
Phật, khiến chân Phật bị nhiễm bẩn«.
(2) Tôn giả Ca Diếp hỏi A Nan: «V́ sao
thầy để lộ âm tàng của Phật cho nữ
giới xem?«, A Nan đáp: «V́ nữ giới phúc đức
mỏng manh, nên muốn cho họ xem tướng âm tàng
của Phật. Khi thấy rồi họ sẽ nhàm chán cái
thân nữ giới, sau đó mong được cái thân nam
tử, nên tôi cho họ xem«.
Source: Nguyệt san Giác Ngộ, Sài G̣n, 1999-2000