Mười Vị Đệ Tử Lớn
của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả PHÚ LÂU NA
(Purna - Punna)
(Vị giảng sư tài giỏi nhất)
1.-
NGƯỜI ĐẦY ẮP T̀NH THƯƠNG:
Đối với
đệ tử Phật, việc tu học để thoát
li sinh tử cố nhiên là quan trọng, nhưng việc
hoằng dương chân lí, thuyết pháp độ sinh
cũng quan trọng không kém. Có một người đă
cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của
gia đ́nh để sống theo tăng đoàn của
đức Phật và cống hiến trọn cuộc
sống của ḿnh cho công cuộc hoằng dương
Phật pháp, luôn luôn đem nhiệt t́nh và ḷng từ bi
trải khắp chúng nhân, không bao giờ chán nản hay thất
vọng trước những nghịch cảnh của
thế gian, đó là tôn giả Phú Lâu Na.
Hoằng pháp là
một công tác vô cùng khó khăn, v́ nó đ̣i hỏi
người thực hiện công tác phải có đầy
đủ cả hai yếu tố quan thiết, là “khế
lí” và “khế cơ”. Trong hàng ngàn đệ tử
của đức Phật, Phú Lâu Na đă chứng tỏ,
không những là có đầy đủ hai yếu tố
quan thiết đó, mà c̣n có cả những đức tính
đặc biệt khác nữa, cho nên đă được
tôn xưng là người có tài thuyết pháp đứng vào
bậc nhất! Khả năng đó đă được
hàm chứa trong tên gọi của tôn giả.
Thật ra, tên
của tôn giả rất dài. “Phú Lâu Na” chỉ là tên gọi
vắn tắt của “Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử” (Purnamaitrayaniputra
- Punnamantaniputta). Cái danh hiệu dài dằng dặc ấy
chính là tượng trưng cho tài thuyết pháp của tôn
giả, kéo dài vô tận, như núi cao, như nước chảy;
nó bộc lộ nhiệt t́nh vô biên, ḷng từ vô cùng. Cho nên,
nếu được dịch ra th́ danh hiệu ấy
của tôn giả có nghĩa là “người đầy
ắp t́nh thương (Măn Từ Tử).
2.-
QUẢ VỊ SAU KHI XUẤT GIA:
Phú Lâu Na ở trong
một gia đ́nh đầy đủ hạnh phúc, tuy không
phải là giàu sang bao trùm thiên hạ nhưng cũng
thuộc vào hạng có tiếng tăm của xứ Ấn Độ
thời bấy giờ. Tôn giả rất được
cha mẹ yêu quí, cưng chiều, nhưng v́ sớm ư
thức được rằng, tài sản vật chất
cũng như t́nh thương yêu gia đ́nh, đến
một ngày nào đó cũng sẽ mất mát, cách chia, và quan
yếu nhất cho đời người là phải t́m cho
được một thứ tài sản cao quí, vĩnh
cửu - đó là chân lí. Cho nên tôn giả đă quyết chí
cắt bỏ sợi dây trói buộc thế gian, qui y theo
Phật, phát nguyện đem đời ḿnh phụng sự
cho công cuộc phát huy chân lí. Với quyết tâm ấy, sau
khi xuất gia không lâu, tôn giả đă chứng A La Hán -
quả vị cao nhất của hàng Thanh Văn, dứt
trừ hết mọi phiền năo, thoát li sinh tử, có
thể vận dụng thần thông để đi hành hoá
khắp nơi một cách tự tại.
3.-
ĐƯỢC PHẬT THỌ KÍ:
Một lần
nọ, trong một buổi pháp thoại, đức
Phật đă thuật rất nhiều chuyện về
những nhân duyên của nhiều tiền kiếp xa xưa.
Những câu chuyện này đă làm cho Phú Lâu Na vô cùng xúc
động. Tôn giả liền đứng dậy, sửa
áo lại cho ngay ngắn, đến trước Phật,
đảnh lễ, rồi với tâm ḷng đầy thành
kính, tôn giả đứng yên lặng chiêm ngưỡng
từ nhan của Phật ... Trong giây phút thiêng liêng ấy,
tôn giả quả thực nh́n thấy rơ ràng công đức
cao ṿi vọi của đức Thế Tôn mà ngôn từ
thế gian không thể nào diễn tả đầy
đủ được! Tôn giả chỉ biết dùng hai
tay đập vào ngực ḿnh để mong đức
Phật soi thấu được tâm nguyện của ḿnh!
Thật giống như “dùng tâm ấn tâm”, đức
Phật quả nhiên đă thấu rơ tâm trạng thầm kín
của Phú Lâu Na. Ngài khai thị:
- Phú Lâu Na! Thầy
là người tu học tinh tấn, không khi nào giải
đăi; lại luôn luôn tùy lúc, tùy nơi, đă từng giúp
Như Lai hoằng dương chánh pháp. Ở trong bốn
chúng đệ tử của Như Lai, thầy đă
từng giáo hóa, khai thị, làm cho mọi người
được nhiều lợi lạc. Biện tài
thuyết pháp của thầy đứng vào bậc
nhất! Trải qua vô lượng kiếp về sau,
thầy sẽ thành Phật ngay tại thế giới này,
và đức Phật ấy sẽ có danh hiệu là Pháp Minh
Như Lai.
Lời thọ kí
của đức Phật đă đem đến cho Phú Lâu
Na niềm pháp hỉ vô biên và ḷng cảm kích sâu xa không cùng.
Tôn giả cung kính đảnh lễ Phật, đi nhiễu
ba ṿng, rồi trở về chỗ ngồi, trong khóe
mắt c̣n long lanh những giọt lệ xúc động.
Nhưng sự kinh
nghi của đại chúng đă không ngoài dự liệu
của đức Phật, cho nên Ngài liền dạy:
- Này quí thầy!
Quí thầy có hiểu được sự việc Như
Lai mới vừa thọ kí cho thầy Phú Lâu Na không? Chỉ
v́ thầy thuyết pháp rất giỏi mà trong tương
lai nhất định sẽ thành Phật ngay tại
thế giới này, hiệu là Pháp Minh Như Lai. Quí thầy
cũng nên khen ngợi Phú Lâu Na là người đứng
đầu trong số những thầy có biện tài
thuyết pháp trong tăng đoàn. Phú Lâu Na đă thâm nhập
biển pháp mênh mông của Như Lai, có thể đem
lại lợi ích cho tất cả chúng bạn cùng tu
học; có thể nói rằng, trong pháp hội, trừ
Như Lai ra, không ai có thể so sánh được với
Phú Lâu Na về biện tài ngôn luận xảo diệu.
Hơn nữa, quí thầy cũng nên biết rằng, Phú Lâu
Na không phải chỉ giúp Như Lai tuyên dương chánh
pháp, mà sự thật, trải qua chín mươi ức cơi
Phật trong quá khứ, thầy cũng đă từng giúp
các đức Phật tuyên dương chánh pháp, và cũng
đều được khen ngợi là người
thuyết pháp số một. Xin quí thầy hăy cùng nh́n về
Phú Lâu Na và hăy tự làm cho ḿnh tiến bộ như vậy.
Tôn giả Phú Lâu Na
được đức Phật thọ kí đă là
một sự kiện vinh diệu tột cùng, dù có đem
mũ kết bằng ngọc anh lạc đội lên đầu
cũng không thể bằng được; v́ kể từ
giờ phút đó,tôn giả đă chân vào địa vị
tôn kính của một bậc “đạo sư” rồi
vậy.
4.-
NƯỚC PHẬT ĐỜI VỊ LAI:
Trong tương
lai, tôn giả Phú Lâu Na sẽ thành Phật. Lúc đó, nếu
có công năng và đầy đủ duyên lành, mọi
người đều có thể phát nguyện văng sinh về
quốc độ của Ngài để tu tập. H́nh
trạng của quốc độ ấy như thế nào?
Đức Phật dạy:
- Quốc
độ của đức Pháp Minh Như Lai lúc ấy,
địa thế bằng phẳng, không có núi khe lồi
lơm, cũng không có gai góc sỏi đá; các thứ châu báu
như vàng bạc châu ngọc trải đầy mặt
đất; đền đài lầu gác đều cao
đến mây xanh. Trong thế giới đó không có các
cảnh giới khổ đau như địa ngục,
ngạ quỉ, súc sinh; người sinh về đó
đều là hóa sinh, phi hành tự tại, không có ư niệm
về dâm dục; không có ư niệm về ngă và
những ǵ thuộc về ngă; tất cả mọi
người đều có được các tiện nghi và
nhu cầu một cách tự tại. Trong quốc đó cũng
không có những ngăn cách hạn hẹp về chủng
tộc của con người; không có sự phân biệt
mạnh yếu; không có oán ghét, hận thù, lường
gạt, cưỡng đoạt và xâm chiếm; không có tranh
chấp hơn thua; không có chiến tranh. Tất cả
mọi người đều sống với nhau trong tinh
thần ḥa hợp, tôn kính và ngợi khen. Bởi vậy,
thế giới này lúc đó không c̣n có tên là “Ta Bà” mà là
một thế giới trong sạch, thuần thiện,
giống như thế giới Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà.
Những
điều Phật dạy là hoàn toàn chân thật; bởi v́
tôn giả Phú Lâu Na đă dùng chính cái công đức
thuyết pháp của ḿnh để trang nghiêm cho nước
Phật ấy. Đó cũng chính là thành quả quí báu
đạt được của một người
đă trải qua vô số kiếp tận tụy cho công
việc tuyên dương chánh pháp.
5.-
LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH:
Phú Lâu Na hết sức
nhiệt thành đối với công việc hoằng pháp là
chính v́ để giải thoát sinh tử và cứu
độ chúng sinh, tuyệt đối không v́ tham cầu
danh lợi. Bởi vậy tôn giả rất lấy làm
buồn ḷng khi thấy có những vị đệ tử
Phật, ḿnh mặc áo pháp, nhưng cách sinh hoạt của
họ hoàn toàn không v́ Phật pháp, mà chỉ v́ lợi
lộc bản thân. Nguyên nhân là v́ lúc bấy giờ uy tín
của Phật và tăng đoàn đang tỏa rộng
khắp nơi, cảm hóa được các các vị
quốc vương đang trị v́ các vương
quốc trong bán đảo Ấn Độ. Sau khi qui y
với đức Phật, nhiều ông vua đă hạ
lệnh, phàm những người phạm tội
đại h́nh, không thể tha thứ, nhưng nếu
chịu qui y theo Phật gia nhập tăng đoàn sống
đời xuất gia, th́ tội dù có nặng đến
đâu cũng được xá miễn. Tuy biết
rằng sự việc ấy sẽ khiến cho tăng
đoàn thanh tịnh của ḿnh sẽ trở thành một
nơi rồng rắn hỗn tạp, nhưng v́ ḷng từ
bi vô biên, như biển cả chứa nước từ
trăm sông, thấy tội nhân đau khổ không thể
nhẫn tâm không cứu độ, cho nên đức Phật
đă chấp nhận cho họ xuất gia. Từ đó,
trong tăng đoàn mới trộn lẫn những phần
tử kém đức hạnh, không có việc xấu ǵ mà
không làm. Họ lợi dụng thánh đức của
Phật để mưu cầu danh lợi; thậm
chí họ c̣n dám làm cái hành động tệ hại nhất
là đem Phật mà buôn bán. Đối với hạng t́ kheo
này, tôn giả Phú Lâu Na vẫn thường hay dùng lời
ngay thẳng để khuyên bảo:
- Thưa chư
huynh đệ! Chúng ta không thể nào làm các hành động
đi ngược lại với lời dạy của
đức Thế Tôn. Chúng ta không thể khuyên mọi người
bố thí trong khi chính chúng ta lại ham thích và cất
giữ tiền bạc cho riêng ḿnh. Không thể nào, trong khi
bảo cho mọi người biết cái hại của
năm dục đối với thân tâm họ th́ chính chúng
ta lại vui thú và tự trói buộc ḿnh trong ao tù năm
dục. Chúng ta rất may mắn có được
đức Thế Tôn làm thầy, th́ phải thấy
rằng, đó là duyên lành ngàn đời khó gặp. Cho nên
bất cứ việc làm nào của chúng ta cũng không
được trái nghịch với giáo chế của
đức Thế Tôn, không được để
phạm vào các giới điều, qui củ của
đức Thế Tôn. Điều tối kị là chúng ta
không bao giờ làm cho mọi người mất ḷng tin
nơi Phật pháp. Sở dĩ chúng ta được
xuất gia học đạo là v́ đức Thế Tôn
từ bi, muốn cho chúng ta có cơ hội để sám
hối diệt tội. Vậy, nếu chúng ta không chịu
nương theo giáo pháp để lấy lại ánh sáng,
không yêu mến tăng đoàn, không nhiệt tâm với
việc hoằng pháp lợi sinh, th́ dù đức Thế Tôn
có v́ ḷng từ bi mà thu nhận chúng ta trong lúc này, rồi th́
trong tương lai chúng ta cũng đem lại cho chính ḿnh
được ǵ tốt đẹp. Đức Thế Tôn
thường dạy, con người đừng sợ
tội lỗi; có lỗi mà biết sửa lỗi th́
tức khắc trở thành người trong sạch. Dù là một
người thật tầm thuờng trong tăng chúng,
điều đó cũng không lấy ǵ làm quan hệ;
nhưng nếu là một kẻ chỉ biết tự
tư tự lợi, hành động không cần biết
tới đại chúng, không đếm xỉa ǵ
đến lời dạy của đức Thế Tôn th́
nguy hiểm vô cùng. V́ đồng với chư huynh đệ
cùng thờ một Thầy, cùng học một Thầy, mà
tôi xin chân thành thưa những điều trên cùng chư
huynh đệ. Dù chư huynh đệ có đánh
mắng tôi th́ cũng không quan hệ ǵ, chỉ cần làm
sao cho Phật pháp được hưng thịnh, cho chúng
sinh được lợi lạc. Tôi mong mỏi từ nay
chư huynh đệ sẽ phát tâm tu học chân thành, luôn
luôn y theo giáo huấn của đức Thế Tôn mà
thực hành.
Phật biết rơ
Phú Lâu Na là người như vậy, cho nên cũng
thường khen ngợi, trong tăng đoàn, tôn giả là
người biết khuyên bảo và khai hóa.
6.- MUỐN CHO
PHẬT PHÁP ĐƯỢC TRUYỀN BÁ KHẮP NHÂN GIAN:
Phú Lâu Na là
người thâm trầm, thường ngày làm việc ǵ
cũng rất cẩn trọng. Đối với
người nào hay việc ǵ xảy ra trong tăng đoàn,
tôn giả đều đắn đo, suy nghĩ chín
chắn nhiều lần mới dám bày tỏ ư kiến.
Chỉ riêng đối với công việc hoằng pháp th́
rất mau mắn, nhiệt t́nh. Bất cứ có
được cơ hội nào để gieo rắc
hột giống bồ đề là nhất định tiến
tới, không cần biết đến đắc thất
hay lợi hại cho cá nhân ḿnh.
Trong tăng
đoàn, số người phụ giúp Phật công việc
hoàng pháp độ sinh cũng nhiều, nhưng kể
số người chịu khó lặn lội trong nhân
quần xă hội để bố giáo mà không mong cầu
lợi dưỡng, không sợ ma nạn, không sợ khó
khăn khổ nhọc, th́ ít ai sánh được với
Phú Lâu Na. Có một số quí vị, tuy theo Phật học
kinh luận đầy bụng, nhưng đối với
chúng sinh th́ không đủ từ tâm và nhiệt t́nh. Họ
không quan tâm đến nỗi khổ sinh tử của
người đời, mà cứ tự giam ḿnh trong tháp ngà
tự măn. Lại có một số quí vị khác, đă không
nhiệt tâm đối với sự nghiệp độ
sinh mà lại c̣n để bị vướng xă hội
bằng những giao t́nh trái đạo. Đối với
cả hai hạng người này, tôn giả không bao giờ
làm ngơ.
Một hôm trên
đường hành hóa, khi đi ngang qua một khu rừng
tịch mịch, tôn giả trông thấy một số
vị t́ kheo đang ẩn cư tu hành ở trong đó. Tôn
giả đến trước họ, cung kính chắp tay:
- Thưa chư
vị đại đức! Đă lâu tôi được
biết chư vị ẩn cư trong chốn núi rừng,
không để cho ḿnh bị ch́m nổi theo theo thế tục.
Nhân cách của chư vị thật thanh cao, tôi rất
lấy làm kính ngưỡng, nhưng tôi cũng
được biết rằng, chư vị c̣n là
những sứ giả, vâng theo từ mệnh của
đức Phật để đi giáo hóa mọi nơi,
tại sao chư vị không đến với nhân quần
xă hội để cứu độ chúng sinh?
Các vị t́ kheo
ấy vừa thấy th́ biết ngay đó là Phú Lâu Na.
Họ rất vui mừng, liền mời ngồi, rồi
đáp lại:
- Thưa
đại đức! Chúng tôi cũng đă từng đi
bố giáo các nơi, nhưng chúng sinh thật là khó hóa
độ. Đức Thế Tôn bảo chúng ta đem pháp
vị cam lộ ban phát cho người đời, nhưng
họ lại cho đó là ǵ dơ bẩn không thể
nếm được. Họ ngu si, ương ngạnh,
cố chấp, và chỉ lo mê đắm trong biển
dục vọng. Họ chỉ biết sát sinh để cúng
tế quỉ thần cầu phước mà không biết
rằng họ đang tạo ra những nghiệp nhân cho ác
đạo. Chúng ta cố đưa cánh tay từ bi ra
để cứu vớt, nhưng họ nhất
định không chịu ngoảnh đầu ngó lại.
Thưa đại đức, không phải ai ai cũng có thể
nhất thời đi được trên con
đường rộng lớn của chân lí. Hăy cứ
để họ đi theo con đường của
họ. Một khi họ đă gánh chịu các đầy
đủ các quả báo đau khổ, và khi nào nhân duyên
đă chín mùi th́ tự nhiên là họ sẽ biết quay
đầu trở về.
Nghe qua các lời
ấy, tôn giả hiểu rằng quí vị t́ kheo này
cũng đă từng gặp rất nhiều trở
lực, khó khăn trên bước đường hoằng
hóa, khiến cho nhiệt tâm của họ đă trở nên
nguội lạnh. Tuy nhiên, tôn giả vẫn cố gắng
thuyết phục và cổ lệ họ:
- Thưa chư
vị huynh đệ! Sự nhận thức của chư
vị về con đường tu tập rất chính
đáng, tôi rất cảm phục! Nhưng ư kiến
của chư vị về việc hoằng pháp độ
sinh th́ tôi thấy không được đúng lắm.
Nếu Phật pháp dễ hoằng dương và chúng sinh
dễ hóa độ th́ đâu cần có sự góp sức
của chúng ta trong công tác ấy. Chính v́ cuộc đời
đầy dẫy những xấu xá dơ bẩn, và
việc hoằng pháp độ sinh th́ vô vàn khó khăn,
vả lại, cũng để báo đáp ân đức sâu
dầy của đức Thế Tôn, mà chúng ta phải nên
dũng mănh, tinh tấn để thực hiện công tác to
lớn và quan trọng này. Là những đệ tử
xuất gia của đức Thế Tôn, chúng ta phải
lấy việc hoằng pháp làm việc nhà, lấy việc
lợi sinh làm sự nghiệp, chứ không nên coi tăng
đoàn là nơi lánh nạn hay viện dưỡng lăo;
lại cũng không nên quan niệm rằng, đă xuất
gia làm t́ kheo thi chỉ lo giải quyết những sinh
hoạt của riêng ḿnh, c̣n tất cả việc ǵ của
người đời đều bỏ mặc, không
cần phải để tâm tới. Nếu không hoằng
dương Phật pháp, nếu không hóa độ chúng sinh,
và cho rằng những công việc ấy không ích lợi ǵ
cho ḿnh, đó là đi ngược lại những giáo
huấn của đức Thế Tôn. Với tâm nguyện
từ bi, đức Thế Tôn sẽ không bằng ḷng khi
biết được chư vị có quan niệm như
vậy. Một người rất nghèo khổ, đến
nỗi chỉ dám xin một xu, một cắc để
sống qua ngày, mà chư vị bỗng đem đem gia tài
cả vạn đồng để cho, th́ người
ấy có nghi ngờ cái ư tốt của chư vị hay
không? Cũng như vậy, sở dĩ người
đời không tiếp nhận được Phật pháp
là v́ họ quá nghèo thiếu mà bỗng dưng chư vị
đem cho họ một gia tài Phật pháp đồ sộ,
th́ làm sao họ có khả năng tiếp nhận! Thưa
chư vị huynh đệ! Chúng ta đang ôm ấp một
t́nh thương vô hạn, một nhiệt t́nh sung măn, th́
hăy đem niềm vui chánh pháp trải khắp nhân gian; hăy
đem ánh sáng trí tuệ, t́nh thương và oai đức
của đức Thế Tôn chia khắp cho người
cùng hưởng thọ, khiến cho tự thân họ
dần dần trở thành nơi tịnh độ trang
nghiêm. Đó là trách nhiệm của kẻ xuất gia, không
thể trốn tránh, không thể từ chối. Vậy
giờ đây, Phật pháp ở nước Bạt Sa (Vatsa
- Vamsa) vẫn chưa được hưng thịnh, xin
chư huynh đệ hăy cùng với tôi đến đó
để hoằng hóa.
Chân t́nh và nhiẹt
tâm của tôn giả đă làm cho quí vị t́ kheo ẩn
cư kia vô cùng xúc động. Họ đă hoan hỉ và
hăng hái cùng tôn giả lên đường về
vương quốc Bạt Sa ...
7.-
THÁI ĐỘ TRONG KHI HÀNH HÓA:
Với một
chiếc b́nh bát, Phú Lâu Na đă vân du cùng khắp đó
đây, vừa xin ăn vừa hành đạo, trải qua
thiên sơn vạn thủy, chẳng khác nào cuộc sống
của một thi nhân hay một họa sĩ. Khi th́ ở
vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), lúc th́ ở
vương quốc Kiều tát La (Kosala); hôm nay th́ ở
thành T́ Xá Li (Vesali), ngày mai lại đến thành Ca Thi
(Kasi),... Số người được tôn giả
cảm hóa, dẫn dắt về với Phật pháp
thật vô cùng đông đảo, không thể nào đếm
hết được. Trong tăng đoàn thật khó có ai
có thể so sánh được với tôn giả về
phương diện này. Ngay cả đến những
nguyên nhân dù có ương ngạnh, cố chấp
đến đâu, mà hễ được tôn giả lân
mẫn giáo hóa th́ tâm ư cũng trở nên thuần thục và
hân hoan tiếp nhận Phật pháp. Do những biệt tài
mà tôn giả được thành công như vậy?
Nhiều vị trong đại chúng rất muốn học
hỏi, v́ vậy, một hôm nhân lúc nhàn đàm, một
vị đă hỏi tôn giả:
- Thưa sư
huynh! Trên bước đường hành hóa của sư
huynh, dù là nơi thảo nguyên thôn dă, mà khi sư huynh đă
đặt chân tới th́ nơi đó cũng trở thành thánh
địa trang nghiêm; tất cả mọi người,
hễ ai nghe được pháp âm của sư huynh th́
đều có được sự tĩnh lặng, an
lạc. Dự thành công này trong công cuộc hoằng pháp,
ngoài đức Thế Tôn ra th́ trong đại chúng khó ai có
thể so sánh bằng sư huynh được. Vậy làm
cách nào mà sư huynh có được cái oai đức
như thế?
Một cách khiêm
cung, tôn giả trả lời:
- Thật ra th́ tôi
không biết là tôi có được những oai đức
ǵ, chỉ có một điều là lúc nào tôi cũng nghĩ
nhớ đến đức Thế Tôn. Lúc nào cũng
vậy, trước khi đi hành hóa tôi đều không quên
âm thầm cầu xin đức Thế Tôn hộ tŕ, giúp cho
tôi hoàn thành sự nghiệp hóa độ, làm cho mọi
người đều được an lạc, giải
thoát. Tôi không cần người ta biết đến
Phú Lâu Na mà chỉ mong mỏi ai ai cũng biết
đến bậc Đạo Sư toàn giác của chúng ta.
Cho nên, những ǵ đă cảm hóa được
người đời, đó chính là đức Phật
của chúng ta cùng với giáo pháp giác ngộ của Người,
chứ cá nhân tôi th́ đâu có xứng đáng ǵ mà đề
cập tới!
Tất cả vinh
quang, Phú Lâu Na đều đem qui về cho đức
Phật. Quí vị t́ kheo hiện diện đều cúi
đầu kính phục. Rồi họ nói tiếp với vẻ
lo lắng:
- Chúng tôi thấy
sư huynh sống quá kham khổ! Sư huynh đă làm
việc không hề nghỉ ngơi, ngoài việc thuyết
pháp độ sinh c̣n phải kinh hành, thiền tọa;
vậy mà sư huynh không chịu dùng những thức ăn
uống bổ dưỡng cho thân thể th́ làm sao có
đủ sức khỏe để hành đạo!
Tuy rất cảm
động trước chân t́nh của các bạn
đồng tu, Phú Lâu Na vẫn đáp lại một cách
khẳng khái:
- Tôi xin cảm
tạ sự quan tâm của chư vị huynh đệ.
Chúng ta đang sống trong biển giáo pháp của
đức Phật, một chút công hạnh như vậy
đâu có đáng ǵ để gọi là tân khổ.
Đức Thế Tôn của chúng ta đă từng trải
qua bao kiếp tu hành, độ sinh, có khi một ngày chỉ
ăn có một hột mè hoặc một hột lúa, có khi
đem bố thí đầu, mắt, hoặc cả thân
mạng, th́ cái tân khổ ấy c̣n có thể h́nh dung
được chăng! Cứ sau mỗi lần đi hành
hoá, tôi lại trở về để được
ngồi trước mặt Người, được
nghe những lời dạy bảo của Người, và
chính cái pháp vị cam lồ ấy là món bổ dưỡng
tốt nhất, quí nhất cho huệ mạng của tôi.
Ở những nơi tôi hành cưóc vân du, tất cả
cỏ cây sông núi đều đón chào, mỉm cười
và khích lệ tôi; ánh sáng trí tuệ của đức
Thế Tôn lúc nào cũng bảo vệ thân thể tôi; tâm
của Người luôn luôn sống động trong tâm tôi.
V́ vậy mà không bao giờ tôi cảm thấy bị khổ
cực. Thưa chư huynh đệ, cứ mỗi lần
tôi trông thấy hành ngàn, hàng vạn người quay về
trước đức Thế Tôn chắp tay đảnh
lễ, là tôi vô cùng vui mừng, xúc động. Tôi cũng
hướng về Người, chắp tay đảnh
lễ để xin Người thu nhận họ, khơi
dậy trong họ niềm tin chánh pháp, và gây cho họ
sức mạnh vượt tiến trên đường tu
học.
Ḷng chân thành
của tôn giả Phú Lâu Na lại càng làm cho những
người bạn tu vô cùng kính phục. Họ đều
chắp tay cúi đầu tán thán công đức của tôn
giả.
8.-
ĐÂU CŨNG LÀ NHÀ:
Trên
đường hành hóa, tôn giả Phú Lâu Na đă chu du
khắp chốn nhân gian, sống cuộc đời như
cánh bèo trôi nổi, không bao giờ có nơi cư trú nhất
định. Ban ngày th́ hoặc ở trên đại lộ,
hoặc nơi ngơ hẻm, hay chốn công viên, tùy duyên hóa
độ; đêm đến th́ hoặc ở sườn
núi, hoặc trong rừng cây, hay bên bờ sông, tĩnh
tọa một ḿnh; bước chân vô định như
nước chảy mây trôi, dừng lại ở đâu th́
ở đó là nhà. Cũng có lúc, v́ lợi ích của việc
tu học, tôn giả cũng vận động xây cất
giảng đường, tịnh xá, nhưng khi giảng
đường, tịnh xá hoàn thành th́ tôn giả mời
chư tăng đến cư trú hành đạo, c̣n ḿnh th́
lại ra đi, tiếp tục con đường vô
định.
Tôn giả không bao
giờ cất giữ tiền bạc cho riêng ḿnh. Ngoại
trừ ba chiếc áo, một b́nh bát và một tọa
cụ, tôn giả không c̣n mang theo ḿnh một thứ ǵ khác.
Tôn giả cũng không bao giờ bận tâm tính toán trong vấn
đề áo cơm. Mang b́nh bát đi xin ăn, tôn giả
không phân biệt các thí chủ giàu nghèo, tốt xấu; không
khen chê thức ăn ngon dở, bổ dưỡng hay không
bổ dưỡng, v́ đối với tôn giả, chỉ
có pháp vị cam lồ của Phật mớí là món bổ
dưỡng hạng nhất trên đời.
Một hôm đang
hành hóa tại thành Câu Li (Koliya), tôn giả t́nh cờ gặp
lại một người bạn cũ trước ở
cùng quê. Sau khi chào mừng thăm hỏi, người
bạn nói:
- Thưa
đại đức! Tôi nghe nói mỗi ngày đại
đức đều bôn ba đó đây để hành hóa.
Không biết đại đức bận rộn những
ǵ dữ vậy! Từ ngày đại đức đi
xuất gia đến nay, chưa từng lần nào
đại đức trở về thăm quê cũ, bà con
họ hàng ai cũng mong nhớ, Đại đức ra
đi đă lâu năm, ruộng vườn, nhà cửa, gia
sản đều không có, sao mà nghèo khổ đến
thế này! Bao giờ th́ đại đức trở
về thăm nhà?
Phú Lâu Na trả
lời:
- Thưa thí
chủ! Được gặp lại thí chủ hôm nay, tôi
thật vui mừng vô hạn. Tôi quả là rất bận
rộn, v́ luôn luôn phải lo làm sao cho mọi người
đều xa ĺa được đau khổ và đạt
được an vui, hạnh phúc. Tôi bây giờ đă là
đệ tử của Phật, tới đâu cũng là
gia hương, với ai cũng là người thân
thuộc. Tôi không c̣n phải tự trói buộc ḿnh trong
những ruộng vường và gia sản riêng tư;
những thứ đó vốn dĩ là vô thường,
huyễn hóa. Tôi rất vui được đi khắp
đó đây để hoằng pháp. Tôi là sứ giả
của chân lí, và đang đắp đường cho chúng
sinh đi đến nơi giác ngộ. Tôi xin cám ơn thí
chủ và xin nhờ thí chủ khi nào về quê th́ nói hộ
rằng, tôi xin cám ơn tất cả mọi người
đă hằng mong nhớ đến tôi. Rồi tôi cũng
phải trở về một lần để thăm nom
và giúp ích họ. Vậy đến lúc nào có thể trở
về th́ Phú Lâu Na này sẽ tức khắc trở về.
- Thưa
đại đức! Mới đó mà cách xa nhau đă
nhiều năm! Tôi không ngờ là sau khi theo Phật xuất
gia, tinh thần của đại đức lại
phấn chấn, tích cực đến thế! Đại đức
luôn luôn chỉ v́ mọi người mà không nghĩ ǵ
đến bản thân ḿnh. Tôi vô cùng kính phục. Sau này, lúc
nào đại đức trở về thăm quê cũ th́
nhất định chúng tôi sẽ nghênh đón long trọng,
v́ lúc đó đại đức sẽ đem ánh sáng
Phật pháp về làm lợi ích cho dân làng chúng tôi.
- Một lần
nữa xin cám ơn thí chủ. Nhất định tôi
sẽ về đúng như nguyện vọng của thí
chủ.
Giă biệt
người bạn đồng hương, tôn giả
lại tiếp tục lên đường hành hóa.
9.-
PHƯƠNG PHÁP GIÁO HÓA:
Phú Lâu Na quả
thật là một vị có biệt tài nói pháp không ai
bằng. Bao nhiêu phương pháp giáo hóa mà đức
Phật từng dùng để độ sinh như dùng
phương tiện để nói pháp, tùy bệnh cho
thuốc, xét rơ căn cơ để dạy bảo v.v... tôn
giả đều sử dụng được
đến độ tuyệt hảo. Tôn giả lúc nào
cũng tự bảo, nói pháp là v́ chúng sinh và cho chúng sinh,
chứ không phải là v́ ḿnh và cho chính ḿnh. Những
đạo lí cao sâu huyền diệu th́ chỉ dành cho
một số ít người thượng căn thông
tuệ; c̣n đối với đa số quần chúng th́
tôn giả chỉ dùng những giáo pháp dễ học, dễ
hành tŕ, để cho ai ai cũng có thể tiếp nhận
và hành tŕ được. Có thể nói, dùng các giáo pháp khác
nhau để giáo hóa cho mỗi hạng người khác
nhau, là sở trường của tôn giả Phú Lâu Na.
Có lần,
đứng trước một số thính chúng gồm toàn
các vị y sĩ, tôn giả hỏi họ:
- Thưa quí
vị! Quí vị có thể chữa trị những cơn
đau nhức, bệnh tật cho người đời,
nhưng đối với những chứng bệnh nan y về
tâm lí như bệnh tham lam, bệnh giận dữ, bệnh
ngu si v.v... th́ quí vị có cách trị liệu nào không?
- Thưa
đại đức! Những người thầy
thuốc như chúng tôi có thể chữa trị
những chứng bệnh của cơ thể như
nhức đầu, đau bụng v.v... c̣n những
bệnh về tâm lí như tôn giả vừa nói th́ chúng tôi không
có cách ǵ trị được. Vậy đại
đức có thể trị được không?
- Được!
Giáo pháp của Phật như nước cam lồ, có
thể rửa sạch mọi thứ dơ bẩn chứa
trong ḷng người. Ba phép học là giới,
định, và tuệ cũng giống như
“vạn linh đơn”, có thể chữa lành các tâm bệnh
tham sân si của chúng sinh.
Có khi đối
trước các vị quan lại, tôn giả hỏi:
- Với trách
nhiệm và quyền hạn của một quan chức, quí
vị có thể trị tội những người
phạm tội, nhưng quí vị có biện pháp ǵ
để làm cho người ta đừng phạm tội
chăng?
- Thưa
đại đức! Tuy rằng đă có quốc pháp,
nhưng quốc pháp đó cũng không thể làm cho
người ta đừng phạm tội.
- Thưa quí
vị! Ngoài quốc pháp ra, quí vị và toàn thể nhân dân nên
hành tŕ giáo pháp của Phật. Nếu ai ai cũng tin
nhận và hành tŕ theo Năm điều răn cấm
và Mười điều lành th́ nhất định
sẽ không có ai c̣n phạm tội.
Một hôm, nhân
đi ngang qua một làng nọ, Phú Lâu Na dừng lại bên
bờ ruộng để giáo hóa những nông phu đang làm
ruộng. Tôn giả khai thị:
- Thưa quí
vị! Quí vị cày ruộng, trồng lúa, tạo
lương thực để nuôi dưỡng thân thể,
đó là công việc vô cùng hữu ích cho mọi
người. Nhưng hôm nay tôi xin mách thêm cho quí vị
một phương pháp làm ruộng phước để
nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị. Quí vị
có muốn biết không?
- Làm ruộng
phước để nuôi dưỡng huệ mạng là
cái ǵ, xin đại đức chỉ dạy cho! Chúng tôi
đang muốn nghe.
- Quí vị hăy tin
nhận giáo pháp của Phật, hăy phụng sự Tam
Bảo. Đối với quí vị sa môn, hăy hết ḷng
cung kính. Đối với các người bệnh hoạn,
nên tận tâm săn sóc. Đối với các việc công
ích từ thiện, nên nhiệt t́nh ủng hộ.
Đối với cha mẹ, phải giữ trọn
niềm hiếu thuận. Đối với người
trong làng xóm, nên nêu cao những điều tốt mà bỏ
đi những điều xấu. Không nên giết hại
các loài vật một cách bừa băi. Đó là những cách
thức làm ruộng phước tốt nhất để
nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị.
Nhờ những
phương pháp giáo hóa khéo léo như vậy mà rất
nhiều hạng người khác nhau trong xă hội đă có
được cơ hội để qui y Tam Bảo, hành
tŕ Phật pháp, mà các giới y sĩ, quan lại và nông dân
vừa nêu trên là những ví dụ điển h́nh.
Tôn giả không có trú
xứ cố định, cũng không có phương pháp
giáo hóa nào nhất định.
Có lúc th́ nói pháp ngay
ở nơi lộ thiên công cộng; có lúc th́ chỉ dạy
riêng cho một gia đ́nh. Khi th́ dùng lời lẽ tốt
đẹp để ca ngợi đức Phật; khi th́
thi triển thần lực để khơi dậy ḷng tin
nơi người đời. Nhờ vậy, giáo pháp
của đức Phật đă dễ dàng được
người đời tiếp nhận, hành tŕ.
10.-
NÓI PHÁP CHO VUA TẦN BÀ SA LA:
Tôn giả Phú Lâu Na
cũng biết vận dụng thần thông trong việc hóa
độ. Khi vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) bị con là A Xà
Thế (Ajatasatru - Ajatasattu) giam trong ngục tối, chính tôn
giả đă cùng với tôn giả Mục Kiền Liên
(Maudgalyayana - Moggallana), vâng giáo chỉ của Phật,
từ không trung đi thẳng vào trong nhà ngục để
nói pháp và truyền trao Tám điều răn cấm cho
vua.
Tần Ba Sa La là vua
của nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Trong các vị
vua chúa của các vương quốc thuộc lănh thổ
Ấn Độ thời bấy giờ, ông là người
đầu tiên qui y làm đệ tử Phật. Về sau,
chính con của ông, thái tử A Xà Thế, v́ nghe lời xúi
giục của đại đức Đề Bà
Đạt Đa (Devadatta), đă bắt ông giam vào ngục
thất, không cho ăn uống, mong cho ông chết sóm
để lên ngôi kế vị.
Đối với
đứa con ngỗ nghịch như vậy ông vẫn
không oán giận, mà chỉ quán chiếu nhân duyên nghiệp
quả để lấy đó làm niềm an ủi cho chính
ḿnh. Càng chịu đau khổ ông càng nhớ đến
lời Phật dạy: Dù cho là trời, đất, mặt
trời, mặt trăng, núi Tu Di, biển cả v. v..., không
có ǵ là không thay đổi. Có thành th́ có hoại. Có thịnh
tất có suy. Có hợp phải có tan. Có sinh tức có
tử. Có vui ắt có khổ. Có mừng là có lo. Ở
thế gian không có cuộc vui nào là kéo dài vĩnh viễn,
nhưng đau khổ th́ triền miên bất tận ...
Dù đă quán
tưởng như vậy, nhưng ông vẫn c̣n có
điều bứt rứt không yên khi nghĩ đến
kiếp lai sinh của ḿnh. Giữa lúc đó th́ hai vị tôn
giả Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên xuất hiện. Phú
Lâu Na đến ngồi gần bên ông, nói giọng thật
nhỏ chỉ vừa đủ cho nhà vua nghe:
- Thưa đại
vương! Bần đạo vâng lănh từ mệnh
của đức Thế Tôn đến đây để
hầu chuyện với đại vương. Đức
Thế Tôn chỉ dạy, sắc thân này đă chiêu cảm
nghiệp lực th́ phải nhận chịu quả báo
đau khổ. Tốt hơn hết là phải để
cho nghiệp báo được kết thúc; v́ điều
tối quan trọng của người tu hành là tiêu trừ
nghiệp báo để đạt được giải
thoát. Nhưng đâu phải chỉ có người ở
trong lao ngục mới là bị trói buộc, bị mất
tự do! Sự thật th́ những người không
bị giam trong ngục vẫn bị trói buộc, bị
mất tự do; mà những thứ đang cầm tù họ
chính là tiền bạc, danh vị, sắc đẹp, tham
lam, hận thù. Nói chung, cơi Ta Bà này chính là một nhà tù vĩ
đại vậy. Bất luận là có bị giam cầm
hay không th́ người đời vẫn không tránh khỏi
cái chết; v́ trong cái sống nhất định đă có
cái chết rồi! Vậy cái chết không phải là cái
đáng sợ, mà điều đáng làm cho ta lo sợ là sau
khi chết ta không có được một cảnh giới
tốt đẹp để đi về. Cho nên đức
Thế Tôn đă nhắn lời tâu với đại
vương, xin đại vương hăy nhất tâm chuyên
niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà
(Amitabuddha); hăy thành khẩn phát nguyện văng sinh về thế
giới Cực Lạc (Sukhavati), nơi Phật A Di Đà
đang giáo hóa. Đó là một quốc độ hoàn toàn an
lạc và giải thoát.
Nghe mấy lời
trên của Phú Lâu Na, vua Tần Bà Sa La cảm thấy
rất được an ủi. Vâng lời Phật
dạy, ông nhiếp niệm quán tưởng, rồi an
tịnh văng sinh ...
11.-
TINH THẦN GIÁO HÓA:
Tôn giả Phú Lâu Na
thuyết pháp độ sinh mà không cầu được
cung kính, không tránh chỗ khó khăn để t́m nơi
dễ dàng; trái lại, gặp những địa
phương càng khó khăn hóa độ bao nhiêu th́ tôn
giả càng phấn chí nhiệt tâm bấy nhiêu, cố làm sao
cho Phật pháp phải được truyền bá tại
những nơi đó.
Một lần
nọ, sau khi mùa an cư kết thúc, Phú Lâu Na lại
muốn lên đường hoằng hóa. Tôn giả bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn,
xin cho con được đến nước Du Lô Na
(Surapatanta) để hoằng pháp!
Dù rất hoan hỉ
đối với lời thỉnh cầu này, nhưng v́
biết việc giáo hóa ở Du Lô Na thật là vô cùng khó
khăn và nguy hiểm, cho nên Phật bảo:
- Phú Lâu Na, Giáo hóa
chúng sinh là việc làm lợi ḿnh lợi người.
Như Lai rất hoan hỉ để thầy hoàn thành chí
nguyện. Có điều, thầy đi bất cứ
nơi nào cũng được, nhưng nếu đi Du Lô
Na th́ Như Lai không yên ḷng. Vậy hà tất thầy
phải đi Du Lô Na! Thầy nên chọn một địa
phương khác, Như Lai sẽ tiễn thầy lên
đường.
- V́ sao vậy,
bạch Thế Tôn! Không phải là bất cứ nơi nào
có chúng sinh th́ chúng con đều có thể đến sao?
- Phú Lâu Na! Thầy
nên biết, Du Lô Na là một nước nhỏ ở xa xôi
hẻo lánh, v́ đường giao thông không tiện lợi
nên văn hóa không được mở mang. Dân chúng ở
đó hầu hết là lỗ măng, hung dữ và quen tính
bạo đông. Người ở các nơi khác, một khi
đă đến nơi đó th́ khó có ai hi vọng giữ
toàn tính mạng trở về. Nay thầy đến đó
Như Lai sợ sẽ xảy ra chuyện nguy hiểm
chăng!
Nhưng tôn giả
cương quyết thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Thạt con không thể dùng lời lẽ ǵ để
diễn đạt được ḷng cảm kích của
con đối với t́nh thương yêu bảo bọc của
Thế Tôn dành cho chúng con. Càng cảm kích ân đức
của Thế Tôn mà con càng hân hoan được xả thân
dể phụng sự chánh pháp và phụng sự chúng sinh.
Hôm nay, chính v́ Du Lô Na là một nơi chưa được
khai hóa, mà từ trước đến nay chưa có vị
nào phát tâm đến đó giáo hóa, cho nên con càng cảm
thấy ḿnh không thể nào không đi đến đó
được. Con cũng biết, đi đến xứ
này là điều rất nguy hiểm, nhưng v́ chí
nguyện tuyên dương chánh pháp mà con phải quên đi
sự an nguy của bản thân. Vậy xin Thế Tôn từ
bi hứa khả cho.
Đức Phật
vô cùng hoan hỉ đối với tinh thần “v́ pháp quên
ḿnh” của Phú Lâu Na, nhưng v́ để cổ lệ thêm
tinh thần cho đại chúng. Ngài tiếp tục hỏi
tôn giả:
- Phú Lâu Na! Thầy
nói đúng lắm! Phàm là đệ tử của Như Lai
th́ phải lấy sự hoằng hóa làm một trong
những điều trọng yếu của công phu tu
tập, nhưng nay thầy đi đến xứ Du Lô Na
giáo hóa, nếu dân chúng ở đó không chịu tiếp
nhận sự giáo hóa của thầy, mà c̣n mắng chửi
thầy th́ sao?
- Bạch Thế Tôn!
Nếu họ chỉ mắng chửi con th́ con nghĩ
họ vẫn c̣n người tốt chứ chưa
đển nổi dă man lắm đâu, v́ họ chưa dùng đến
gậy gộc để đánh con.
- Nhưng nếu
họ dùng gạch đá ném thầy, hay dùng gậy gộc
đánh thầy th́ sao?
- Bạch Thế Tôn!
Con nghĩ họ vẫn c̣n là người tốt v́ họ
chưa dùng đến dao kiếm để đâm cho con
bị thương tích nặng.
- Nhưng nếu
họ dùng dao kiếm để đâm thầy đến
bị thương tích nặng th́ sao?
- Bạch Thế Tôn!
Nếu chỉ có thế th́ con nghĩ họ vẫn là
người tốt, v́ dù sao th́ họ vẫn c̣n chút ít nhân
tính, chưa đến nỗi giết con chết một
cách thảm khốc.
- Nhưng nếu
họ giết chết thầy th́ sao?
- Bạch Thế Tôn!
Nếu điều này xảy ra th́ con lại càng cám ơn
họ, v́ giết chết cái sắc thân này của con
tức là họ giúp con vào cảnh giới niết bàn,
cũng như giúp con dùng thân mạng này để báo đáp
thâm ân của Thế Tôn. Sự việc này nếu xảy ra
th́ đối với con không phải điều
chướng ngại, nhưng chỉ có một điều
đáng tiếc là con chưa kịp làm ǵ để giúp ích
cho họ mà thôi.
Đức Phật
khen ngợi:
- Phú Lâu Na! Thầy
quả thật xứng đáng là một vị đệ
tử lớn của Như Lai, Bất cứ là tu tập
hay hoằng hóa, thầy đều học được
đức tính nhẫn nhục của Như Lai. Tâm và
cảnh ở trong tự thân thầy lúc nào cũng tĩnh
lặng. Bây giờ th́ thầy đi được
rồi, Như Lai và đại chúng đưa thầy lên
đường.
Được
đức Phật cổ lệ, tôn giả vô cùng cảm
động, quyết tâm càng được tăng
cường, tưởng như không thứ ǵ có thể làm
cho lay chuyển. Tôn giả đảnh lễ đức
Phật và lên đường đi Du Lô Na
12.-
CÔNG VIỆC GIÁO HÓA Ở DU LÔ NA:
Sau khi lạy từ
giă Phật và đại chúng, tôn giả Phú Lâu Na nhắm
hướng Du Lô Na thẳng bước.
Tiều quốc Du Lô
Na, đất đai khô cằn, dân cư nghèo khổ.
Khắp nơi chỉ toàn là núi cao, sông rạch. Toàn quốc
không có một đô thị phồn hoa nào, cũng không có
lấy một thôn trang dân cư trù mật. Nếp sinh
hoạt của người dân gần giống như
thời tiền sử. Bởi vậy, khi mới
đặt đến xứ này, với t́nh huống
ấy, Phú Lâu Na cơ hồ như không có cách ǵ để
thực hiện sứ mệnh.
Trước khi
đến đây, tôn giả đă chuyẩn bị bọc
phương ngôn thổ ngữ của dân Du Lô Na, nhưng
trong công việc truyền giáo, ngoài ngôn ngữ ra c̣n đ̣i
hỏi phải có nhiều điều kiện khác nữa.
Giữa tôn giả và dân địa phương, tuy vấn
đề ngôn ngữ không trở ngại, nhưng chiếc
b́nh bát và áo cà sa trên người của tôn giả,
đối với họ quả là những thứ ǵ
thật quái dị. Tôn giả biết rằng đối
với một nơi mà nền văn hóa c̣n quá lạc
hậu như vậy, nếu không khéo léo th́ không dễ ǵ
khơi dậy trong dân chúng ḷng tín ngưỡng đối
với Phật pháp. Nói cho họ nghe những giáo lí cao sâu
mầu nhiệm chỉ là vô ích. Vậy cách tốt nhất
và cấp thiết nhất hiện tại là giúp họ
cải thiện nếp sinh hoạt hàng ngày; bởi v́ công
việc giáo hóa luôn luôn không thể thực hiện tách
rời nếp sinh hoạt của quần chúng. Cho nên,
tạm thời tôn giả không bộc lộ cái thân phận
sa môn của ḿnh, mà chỉ đóng vai một vị y sĩ,
suốt ngày chỉ cặm cụi với công việc
thăm bịnh và chăm sóc bịnh nhân.
Phú Lâu Na có thể
chữa trị được mọi chứng bịnh
thông thường, và khi chữa bịnh, tôn giả cũng
nhiệt thành như khi hoằng pháp. Bất luận là làng
xa xóm gần, bất luận là sáng sớm hay đêm khuya,
hễ biết nơi nào có người bị bịnh th́ dù
có phải trèo non lội suối, tôn giả cũng nhất
định phải tới nơi để cứu
chữa. Bởi vậy, bịnh nhân một khi trông thấy
tôn giả là vui mừng như thấy được
cứu tinh; và nhờ đó mà bịnh dù nặng cũng
được chóng khỏi.
Ngoài vai tṛ của
một thầy thuốc, tôn giả c̣n đảm trách
cả công việc của một thầy giáo. Tôn giả
dạy họ học chữ nghĩa và học những lí lẽ
của cuộc sống. Ban ngày tôn giả dạy họ cách
thức cày cấy gieo trồng, phương pháp sắp
xếp công việc nhà cửa, cùng cách xử sữ giữa
mọi người trong gia đ́nh; buổi tối, tôn
giả tụ tập họ lại để chỉ bày
về việc giữ ǵn năm điều răn cấm
và thực hiện mười điều lành. Bằng
phương pháp đó, chẳng bao lâu, tôn giả đă khiến
cho rất nhiều người ở Du Lô Na qui y Tam
Bảo. Chính tại tiểu quốc này, tôn giả đă thu
nhận năm trăm đệ tử giỏi và đă
kiến tạo năm mươi ngôi chùa.
(Có sách nói rằng, có
hai vị tôn giả cùng có tên là Phú Lâu Na; Một vị là Phú
Lâu Na Măn Từ Tử - Punna Mantaniputta, quê ở gần thành
Ca T́ La Vệ, được Phật khen ngợi là có
biệt tài thuyết pháp bậc nhất. Một vị là
Phú Lâu Na Du Lô Na - Punna Sunasarata, một thương gia ở
Du Lô Na - một ḥn đảo ở ngoài biển Đông
của Ấn Độ, đến Xá Vệ nghe Phật
thuyết pháp rồi xin xuất gia. Sau khi chứng quả A
La Hán, tôn giả đă trở về quê hương Du Lô Na
hóa độ - Chú thích của người dịch).
13.-
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA VỊ GIẢNG SƯ:
Đức Phật
từng có huấn thị về mười đức tính
của một vị giảng sư. Đối với
mười đức tính này, tôn giả Phú Lâu Na lúc nào
cũng thuộc nằm ḷng và lấy đó làm kim chỉ nam
để thực hiện trong suốt suộc đời
hoằng pháp lợi sinh. Mười đức tính ấy
là:
1) Hiểu rơ ư
nghĩa của giáo pháp.
2) Có thể diễn
nói cho người khác hiểu được.
3) Ở trước
hạng thính chúng nào cũng không sợ sệt.
4) Nói năng hoạt
bát, lưu loát, ứng đối không bị trở
ngại.
5) Biết dùng
phương tiện tùy theo căn cơ người nghe.
6) Tŕnh bày theo thứ
tự hợp lí để cho ai cũng có thể hành tŕ
dễ dàng.
7) Tác phong nghiêm túc.
8) Cần mẫn và
nhiệt thành.
9) Không thối chí
nản ḷng.
10) Nhẫn nhục
nhưng đầy uy lực.
Tuy tha phương
giáo hóa nhưng tâm niệm Phú Lâu Na không bao giờ rời xa
Phật. Mỗi lần đức Phật có duyên sự
đặc biệt hoặc có cuộc pháp thoại quan trọng,
tôn giả dù ở xa ngàn dặm cũng cố gắng
trở về tu viện để thăm hỏi Phật
và tô bồi tri kiến. Lần này, sau khi hoằng hóa ở
Du Lô Na, tôn giả cũng đă trở về tu viện
đảnh lễ Phật. Đức Phật vừa
thấy tôn giả bước ra từ chỗ ngồi
của đại chúng th́ ḷng tràn đầy hoan hỉ,
liền mở lời khen ngợi:
- Phú Lâu Na đă
về đấy ư! Như Lai và cả đại chúng
đều mong nhớ thầy. Việc hóa độ
của thầy ở Du Lô Na có được tốt
đẹp không? Thầy đă giúp Như Lai rất
nhiều trong việc tuyên dương chánh pháp. Cả
về phương diện thể xác lẫn tinh thần,
thầy đều biết bảo toàn hoàn hảo
để cho thân thể luôn luôn khỏe mạnh và ḷng tin
tưởng nơi Tam Bảo không hề bị lay
chuyển. Ḷng từ bi, đức điềm đạm
và tài trí nơi thầy, phẩm hạnh, phong cách cùng thanh âm
của thầy, có thể nói không điều ǵ là không toàn
vẹn. Phú Lâu Na! Thầy đă làm cho Như Lai hoàn toàn yên
tâm về công việc giáo hóa tại tiểu quốc Du Lô Na.
Ngưng một chút,
Phật dạy tiếp:
- Này quí thầy! Trong
giáo đoàn của Như Lai th́ Phú Lâu Na xứng đáng
được gọi là vị giảng sư số
một. Quí thầy cũng nên cố gắng giống
như Phú Lâu Na vậy.
14.-
KHÔNG ĐỒNG Ư VỚI TÔN GIẢ ĐẠI CA DIẾP:
Thời gian trôi vô
t́nh như ḍng nước chảy. Năm tháng đến
đi vô thường như bánh xe quay. Hoa mùa Xuân, trăng
mùa Thu, nóng mùa Hạ, lạnh mùa Đông; một ngày trôi qua
rồi một ngày lại đến; năm cũ đi
rồi năm mới liền theo; cái ứng thân của
Phật nơi thế giới Ta Bà này cũng theo năm
tháng đổi thay ấy mà ngày càng già đi. Cho đến
một ngày kia, khi ở tuổi 80, đức Phật
đă nhập niết bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagara -
Kusinara). Tất cả đệ tử đều vô cùng bi
ai. Tôn giả Phú Lâu Na lúc đó đang hành hóa tại phương
xa, nghe tin, tức tốc dẫn đệ tử về
thành Câu Thi Na để thọ tang, nhưng khi tôn giả
về đến nơi th́ lễ trà t́ kim thân của
Phật đă hoàn tất từ lâu. Tôn giả đau xót vô
cùng, nhưng rồi cũng tự an ủi rằng, báo thân
Phật tuy không c̣n, nhưng pháp thân Phật vẫn tồn
tại; giáo pháp chính là đức Phật.
Được
biết tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakasyapa -
Mahakassapa) đang cùng với năm trăm vị t́ kheo tôn
túc khác nhóm họp tại núi Ḱ Xà Quật để kết
tập những kinh luật Phật đă dạy, tôn
giả liền đến đó xin tham dự. Đại
chúng trông thấy Phú Lâu Na đều rất lấy làm hoan
hỉ. Tôn giả Đại Ca Diếp nói:
- Thầy về
thật đúng lúc. Đại chúng kết tập giáo pháp
của đức Thế Tôn đă sắp xong, và tin
rằng thầy cũng sẽ đồng ư với
đại chúng.
Sau khi lắng nghe
cẩn thận những kinh luật đă được đọc
tụng, tôn giả phát biểu:
- Thưa đại
chúng! Công việc kết tập giáo pháp của đức
Thế Tôn do đại chúng chủ xướng, làm cho tôi
hết sức kính phục. Hầu hết những điều
đă được kết tập tôi rất đồng
ư, chỉ riêng ở tạng Giới Luật, phần
nói về “Tám điều liên quan đến cách ăn
uống” (thức ăn để qua đêm, thức
ăn nấu riêng trong pḥng ngủ của ḿnh, thức
ăn do tự ḿnh nấu lấu, thức ăn không do cúng
dường mà do tự ḿnh đi lấy, ăn buổi sáng
sau khi thức dậy, theo người ta lấy thức
ăn đem về, những thứ trái cây tạp nhạp,
các thức ăn sản sinh ra từ trong nước ao tù -
chú thích của người dịch), đại chúng cho
rằng cả tám điều này đều bị cấm
chỉ th́ tôi không đồng ư, v́ trái bổn ư của
đức Thế Tôn. Nếu tám điều ấy bị
cấm chỉ th́ sẽ rất bất tiện cho tăng
đoàn. Vả lại trước đây, gặp những
lúc gạo thóc đắt đỏ, vật thực khó
kiếm, hoặc xảy ra nạn đói th́ đức
Thế Tôn cũng đă từng cho phép áp dụng tám
điều này.
Tôn giả
Đại Ca Diếp nghiêm nghị trả lời:
- Thầy nói rất
đúng. Đức Thế Tôn đă có lúc cho phép áp dụng
tám điều đó, nhưng chỉ những khi gặp
phải t́nh h́nh đặc biệt mà thôi.
Thế là cuộc
tranh luận xảy ra và chẳng có biện pháp nào giải
quyết. Sau cùng th́ tôn giả Phú Lâu Na nhượng bộ:
- Thế th́ tôi không
có cách ǵ khác. Từ nay tôi chỉ tự minh hành xử theo
những điều ǵ mà chính trước đây tôi đă
nghe và lĩnh ngộ được từ nơi
đức Thế Tôn, c̣n th́ tùy quí sư huynh.
Nói xong, tôn giả cáo
biệt chúng hội, tiếp tục lên đường hành
hóa.
Về sau, tôn giả
nhập diệt vào lúc nào, tại đâu, không ai biết
được, và cũng không có cách ǵ để khảo
chứng. Chúng ta chỉ biết được rằng, sau
khi Phật nhập diệt, tôn giả vẫn giữ
nhiệt t́nh hoằng hóa như khi Phật c̣n tại
thế. Nội dung cuộc tranh luận với tôn giả
Đại Ca Diếp vừa rồi đă cho chúng ta
thấy, trong khi tôn giả Đại Diếp rất
bảo thủ đối với giáo pháp th́ tôn giả Phú
Lâu Na lại có tư tưởng tự do, phóng khoáng
hơn.