Mười Vị Đệ
Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả CA CHIÊN DIÊN
(Katyayana - Kaccayana,
Kaccana)
(Vị luận sư lỗi lạc nhất)
1.- THI ĐUA
DIỄN THUYẾT VỚI ANH:
Tại thôn Nhĩ
Hầu (có thể cũng tức là kinh thành Ưu
Thiền Ni, Ujayana - Ujjeni - chú thích của người
dịch) của vương quốc A Bàn Đề
(Avanti) ở miền Nam Ấn Độ, có một gia
đ́nh hào phú thuộc chủng tộc Bà la môn, rất
được mọi người kính trọng. Đó là
gia đ́nh của tôn giả Ca Chiên Diên. Thân phụ của
tôn giả được phong chức quốc sư
của quốc vương đương thời. Gia đ́nh
ấy có ruộng đất rộng lớn, nuôi hàng
trăm nô bộc, có quyền thế lớn, có gia sản
lớn, có thể nói, đó là gia đ́nh danh giá bậc
nhất của vương quốc.
Thật ra, tên
của tôn giả là Na La Đà (Nalaka), c̣n Ca Chiên Diên là
họ. Bởi v́ sau này tiếng tăm của tôn giả
trở nên lừng lẫy, cho nên mọi người đă
lấy họ làm tên để gọi tôn giả, rồi
thành quen.
Tôn giả là
người con thứ hai trong gia đ́nh. Anh của tôn
giả là một người tư chất thông minh,
tướng mạo anh tuấn, tính t́nh hào sảng. Sau khi
theo cha xuất gia, và trở thành một vị sa môn của
Bà la môn giáo, ông một ḿnh đi chu du cầu học. Ông
đă đi rất nhiều nơi, học với rất
nhiều vị minh sư, cho nên được thông
hiểu nhiều về học thuật, lại có
được nhiều kĩ năng. Khi tự thấy
rằng ḿnh đă công thành danh toại, ông trở về
cố hương. Một ngày nọ, ông triệu tập
đông đảo dân chúng lại để giảng kinh Vệ
Đà, và công nhiên tự cho ḿnh là người thông
tuệ nhất về triết học Vệ Đà.
Ca Chiên Diên từ
trước đến giờ chưa hề bước
chân ra khỏi cửa, nay thấy người anh trở
về dựng đài giảng kinh Vệ Đà, bèn cũng dựng
đài đối diện với anh, cũng thông báo mời
dân chúng để để nghe ḿnh giảng luận về
triết lí Vệ Đà. Nhờ có biện tài vô ngại,
nhờ nêu lên được những điểm quan
yếu, sâu xa, Ca Chiên Diên dần dần đă thu hút hết
số thính giả của người anh, Thính giả b́nh
luận với nhau rằng: “Ông em xem ra giỏi hơn ông
anh rất nhiều!”.
Nghe ḷi b́nh phẩm
này, người anh, vốn bản tính hiếu thắng,
đă tỏ ra rất hậm hực, và ghen tức với
Ca Chiên Diên, nhưng cả hai anh em đều không ai
chịu nhường ai, lời qua tiếng lại, cuối
cùng đem nhau đến trước thân phụ để
nhờ phân xử. Vói thái độ rất bực tức,
người anh nói trước:
- Thưa cha! Xin cha
hăy dạy bảo thằng em ương ngạnh của con
đi! Nó đă làm mất mặt con quá rồi. Con đă
từng đi chu du tham học lâu năm, chẳng lẽ
lại không bằng nó! Trong khi con thuyết giảng, nó
lại muốn đương đầu với con,
cũng dựng đài thuyết giảng, dẫn dụ
hết thính chúng của con về cho nó ...
Cậu thiếu
niên Ca Chiên Diên không tỏ vẻ ǵ sợ hăi, giải thích:
- Xin cha xét cho!
Học vấn là một việc công khai, ai cũng có
quyền học hỏi, nghiên cứu và diễn thuyết.
Anh con thích đi các nơi để học hỏi, c̣n con
th́ chỉ thích ở nhà để tự nghiên cứu
lấy. Con không hề muốn phải giỏi hơn anh
con, mà chỉ muốn biết rằng trong bao năm nằm
nhà cố gắng tự học lấy, con có thu nhập
được chút ít kết quả nào không. Rơ ràng là,
kết quả của bao năm chu du cầu học, anh con
đă mang về nặng trĩu cái tâm hơn thua; c̣n con
nằm nhà chỉ thật ḷng học tập mà thôi. Con không
muốn phiền cha phải lo lắng dạy bảo, chúng
con có thể tự biết lo cho ḿnh, hi vọng anh con cũng
biết nghĩ như vậy.
Cha làm quốc
sư, đối với hai con đều thương yêu
rất mực, đứng trước cảnh này cũng
chẳng biết xử trí ra sao. Cuối cùng ông đem câu
chuyện bàn với vợ, gởi Ca Chiên Diên về ở
với sa môn A Tư Đà (Asita) để học tập,
như vậy sẽ tránh được chuyện anh em xích
mích.
2.-
SỰ DẠY DỖ CỦA ÔNG CẬU:
Đạo sĩ A
Tư Đà ở miền Nam của vương quốc, là
cậu ruột của Ca Chiên Diên. Ông vừa học
rộng, vừa có thần thông, cho nên rất nổi
tiếng ở khắp Ấn Độ thời đó. Khi
thái tử Tất Tạt Đa (Siddhartha - Siddhatta) ở
thành Ca T́ La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu), ở vương
quốc Thích Ca (Sakya) vừa đản sinh, ông liền
được vua Tịnh Phạn (Suddhodana) triệu
kiến để xem tướng cho thái tử. Ông tâu vua
rằng: “Vị thái tử hiền minh này về sau
sẽ xuất gia học đạo và sẽ đạt
được quả vị giác ngộ vẹn toàn.
Rất tiếc thần nay tuổi đă già, sợ không
sống được cho đến ngày Ngài thành
đạo. Thần tuy không được diễm phúc
học tập giáo pháp của Ngài, nhưng thần nhất
định dạy bảo đám hậu bối của
thần sẽ phải học tập giáo pháp đó”. Nói
xong, v́ quá tủi thân, ông đă không cầm được
nước mắt.
Từ ngày
được cha mẹ gửi gấm về đây. Ca
Chiên Diên rất được đạo sĩ A Tư
Đà cưng quí. Ông đă đem tất cả cái gia
sản tinh thần của ông truyền dạy lại
hết cho đứa cháu thông tuệ của ḿnh. Để
đáp lại, Ca Chiên Diên cũng hết sức siêng năng
chăm chỉ để không phụ tấm ḷng hoài
vọng của ông cậu. Chẳng bao lâu, cả tứ
thiền, ngũ thông, Ca Chiên Diên đều hoàn toàn chứng
đắc. Từ đó, Ca Chiên Diên không c̣n nghĩ
tưởng ǵ đến gia đ́nh nữa. Thứ
nhất, chàng không muốn dựa vào uy tín và quyền
thế của thân phụ để được
người đời kính trọng; thứ nh́, nghĩ
đến người anh hiếu thắng của ḿnh,
chàng biết là không thể nào cùng ở chung
được. Do đó, chàng quyết chí tự lập
để xây dựng một tương lai cho chính ḿnh.
Thỉnh thoảng song thân có cho người xuống
gọi chàng về thăm nhà nhưng chàng đă khéo léo
từ tạ, không về.
Đạo sĩ
thấy cháu ḿnh không c̣n bị ràng buộc bởi sợi dây
gia đ́nh nữa, một hôm ông bảo chàng:
- Cháu ạ! Cứ
như chí nguyện của cháu hiện giờ th́ trong
tương lai cháu nhất định sẽ trở thành
một nhân vật lỗi lạc, nhưng chầu cần
phải gặp minh sư chỉ dạy mới
được. Cái kiến thức hạn hẹp của
cậu, nay không c̣n đủ để đáp ứng cho cái
sở học và sở cầu của cháu nữa. Hiện
giờ cậu biết có một đấng Đại Giác
đă ra đời. Đợi đến khi Người
thành Đạo rồi th́ cháu hăy mau t́m đến xin tu
học với Người.
Ca Chiên Diên nghe
cậu nói, ḷng nửa tin nửa ngờ, đối với
câu bảo rằng, tương lai chàng sẽ trở thành
một nhân vật lỗi lạc, th́ chàng tin
tưởng hoàn toàn mà không có chút ǵ hoài nghi cả.
Một ngày nọ,
đạo sĩ dẫn Ca Chiên Diên đi về
hướng kinh thành Ba La Nại (Varasai - Baranasi),
vương quốc Ca Thi (Kasi). Khi đến vùng phụ
cận của vườn Nai (Mrgadava - Migadaya) th́ ông
dừng lại, dựng một căn nhà nhỏ để
hai cậu cháu cùng ở. Sau khi chỗ ở đă ổn
định, đạo sĩ bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày
phải cầu nguyện ba lần rằng: “Cầu
nguyện cho đấng Đại Giác sớm thành đạo”.
Rồi một hôm khác nữa, đạo sĩ lại
bảo chàng:
- Cháu ạ! Theo
cậu dự đoán th́ đấng Đại Giác ấy
sẽ thành đạo trong một ngày rất gần
đây. Sau khi thành đạo, nhất định
Người sẽ đến vườn Nai quay bánh xe pháp
trước tiên. Cậu chỉ biết đến thế
thôi, c̣n Người sẽ giác ngộ chân lí ǵ, nói pháp ǵ,
sợ rằng cậu không có đủ phước
đức để nghe được. Cháu hăy ghi nhớ
lấy, sau khi đấng Đại Giác ấy chứng
đạo rồi th́ cháu hăy mau mau theo Người mà xin tu
học.
Sau khi dặn ḍ Ca
Chiên Diên mọi điều cẩn thận, đạo
sĩ A Tư Đà tạ thế. Từ đó, dù không c̣n
được minh sư dắt dẫn nữa, nhưng
với kiến thức và tài năng của ḿnh, Ca Chiên Diên
vẫn có một chỗ đứng vinh quang trong xă hội.
Dù ông không có ư dựa vào cái uy thế quốc sư của
thân phụ, cũng như cái danh tiếng lẫy lừng
của ông cậu sa môn A Tư Đà, nhưng xă hội
quần chúng vẫn trông vào những thứ hào quang ấy
mà kính trọng và cúng dường ông; để rồi,
thật là đáng tiếc, v́ ngày một đắm ch́m vào
cái vũng danh vọng và lợi dưỡng ấy, Ca Chiên
Diên đă quên mất “đấng Đại Giác” mà ông
cậu đă từng ân cần dặn ḍ phải t́m
đến để xin tu học.
3.-
BÀI KỆ THẦN BÍ:
Ca Chiên Diên tự
cho ḿnh là bậc đắc đạo, đương nhiên
là phải nhận được cung kính cúng dường
của người đời, hà tất phải trông mong
ở một “đấng Đại Giác” nào nữa!
Bởi vậy, không bao lâu sau ngày đạo sĩ A Tư
Đà tạ thế, ông không c̣n hàng ngày cầu nguyện
để sớm gặp “đấng Đại Giác”
nữa.
Một thời
gian khá lâu sau đó, tại một nơi đồng
trống ở vùng phụ cận thành Ba La Nại,
người ta bỗng đào được nhiều di
tích của một thành phố xưa. Trong số các cổ
vật đó, có một tấm bia khắc một thứ
cổ tự ǵ đó trông giống như một bài kệ,
mà không ai đọc được cả. Truyền
thuyết trong dân chúng nói rằng, giả sử có
người đọc được văn bia ấy
đi nữa th́ về ư nghĩa đích thực của nó
cũng chỉ có “đấng Đại Giác” mới
hiểu được mà thôi.
Một hôm,
quốc vương của thành Ba La Nại tuyên bố
trước các triều thần:
- Nước ta
vừa phát hiện được một số cổ
vật quí báu của thời xưa, trong đó có một bài
văn bia. Vậy các khanh hăy cố gắng đọc cho được
văn bia ấy để các nước láng giềng
khỏi chê cười nước ta không có người tài
giỏi. Trong ṿng bảy ngày, nếu không ai đọc
được th́ trẫm sẽ tước bỏ hết
quan chức của các khanh.
Dù vua đă có
lệnh gắt gao, nhưng các vị triều thần
vẫn lấy mắt nh́n nhau, v́ từ trước
đến giờ đă có ai từng trông thấy thứ chữ
ấy bao giờ đâu! Rơ ràng là không ai có biện pháp nào
cả. Cuối cùng họ chỉ biết cùng nhau lập
kiến nghị tŕnh lên quốc vương, yết
bảng tuyên cáo cho nhân dân toàn quốc, nếu ai có thể
đọc được bài kệ khắc trên tấm bia
ấy th́ sẽ được tưởng thưởng
gái đẹp, vàng bạc cùng các báu vật khác.
Bảng tuyên cáo
của triều đ́nh đă được yết lên, và
tin tức ấy được loan truyền tới ta Ca
Chiên Diên. Ông hồi tưởng, đạo sĩ A Tư
Đà trước kia không những đă dạy cho ông
tất cả các loại văn tự hiện lưu hành
trong dân gian, mà c̣n dạy rất nhiều loại văn
tự của các cơi trời nữa. Bởi vậy, chàng
rất tự tin là ḿnh sẽ đọc được
thứ văn tự khắc trên tấm bia cổ kia.
Quả nhiên, Ca
Chiên Diên đă đọc được bài văn bia
ấy. Đó là một bài kệ được viết
bằng thứ văn tự Phạm Thiên mà chỉ có
những người đă chứng thần thông mới
hiểu thấu được. Ông đến trước
đức vua phiên dịch bài kệ ấy như sau:
Vua
của các vị vua là ai?
Thánh của các bậc thánh là ai?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là người trí?
Làm sao xa ĺa được dơ bẩn?
Làm sao chứng đạt được niết bàn?
Ai
ch́m đắm trong biển sinh tử?
Ai tiêu dao tự tại trong cơi giải thoát?
Lâu nay không ai
đọc được bài kệ thần bí đó
cả, bây giờ có nhà bác học Ca Chiên Diên là người
đầu tiên đọc được. Chẳng bao lâu,
bài kệ ấy đă được truyền tụng ra
khắp nước. Nhưng người ta chỉ
đọc lên bài kệ thôi, c̣n ư nghĩa của nó th́ không
ai hiểu được, mà ngay cả Ca Chiên Diên cũng
không giải thích nổi. Mỗi câu kệ là cả một
vấn đề to lớn. Người ta cố dùng
những học thuyết đương thời
để giải đáp, nhưng v́ không có giải đáp
nào rốt ráo, trọn vẹn, cho nên nghi vấn này lại
sinh ra nghi vấn khác, rốt cuộc họ vẫn ở
trong cái ṿng lẩn quẩn.
Ca Chiên Diên dù
được nhà vua công nhận là người học
rộng tài cao quán chúng, nhưng v́ không thông hiểu
được ư nghĩa của bài kệ cho nên vẫn
bị nhà vua quở trách. Vua lại hạ lệnh tăng
giá thêm cho giải thưởng để cầu cho
được bậc cao nhân giải đáp ư nghĩa bài
kệ.
Ca Chiên Diên vẫn
không chịu thua, bèn hứa với quốc vương,
nội trong bảy ngày nhất định ông sẽ
giải đáp được.
4.-
RỐT CUỘC RỒI CŨNG T̀M ĐẾN ĐẤNG
ĐẠI GIÁC:
Ông trở về
nhà, để hết tâm tư suy nghĩ. Nhưng những
vấn đề được nêu ra trong bài kệ đâu
có thể dùng tâm trí suy nghĩ mà làm cho sáng tỏ
được! Những vấn đề đó nhất
định phải có một bậc Đại Giác mới
mong giải đáp được. Khi đă nghĩ như
thế, và không đă hoàn toàn không c̣n trông cậy vào tài trí
của ḿnh nữa, Ca Chiên Diên bèn đi các nơi để
cố t́m những bậc cao minh giúp đỡ. Ông lần
lượt đi thỉnh giáo các vị học giả uyên
bác, tiếng tăm lừng lẫy lúc bấy giờ như
Phú Lan Na Ca Diếp (Puranakasyapa - Puranakassapa) trong nhóm Lục
Sư chẳng hạn, nhưng kiến giải của
họ bất quá cũng chỉ như ông là cùng. Rốt
cuộc, chân ư của bài kệ vẫn không ai làm sáng tỏ
được. Đến lúc Ca Chiên Diên cảm thấy là ḿnh
đă “đụng tường” rồi, bấy giờ ông
mới sực nhớ là có “đấng Đại Giác”
đă ra đời! Nhớ th́ có nhớ đấy,
nhưng ông vẫn không chịu đi t́m Ngài để
thỉnh giáo. Ông nghĩ rằng, bài kệ kia là văn
tự Phạm Thiên, đến như những đạo
sĩ Bà la môn lăo thành, có đầy đủ tư cách và
quyền uy mà cũng không hiểu được th́
đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi kia làm sao
hiểu nổi!
Rồi ông lại
suy nghĩ, trước giờ lâm chung, cậu ḿnh đă
dặn ḍ cẩn thận, đă lập đi lặp
lại đến mấy lượt rằng, sau khi
đấng Đại Giác đă thành đạo rồi th́
ḿnh phải t́m đến để cầu xin tu học,
nhưng đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi
như vậy, làm sao có thể là một đức Phật,
một bậc đại giác với công hạnh viên măn
được!
Nhưng cuối
cùng ông lại tự bảo, sự ngộ đạo
đâu có thể dựa vào tuổi tác già trẻ mà xác
quyết! Do vậy, ông đă quyết định lên
đường t́m về vườn Nai.
Sau khi
được bái kiến đức, Phật, Ca Chiên Diên
mới biết rằng lời dạy của cậu ḿnh lúc
trước quả thật không sai. Ông chưa biết
được trí tuệ của Phật rộng lớn
đến thế nào, nhưng mới nh́n thấy dung quang
uy nghi của Ngài th́ ông đă sinh niềm cung kính vô bờ
bến. Ông liền chắp tay, đọc lên nguyên văn
bài bệ và cầu xin Phật chỉ dạy. Ngài cũng
dùng kệ để giải đáp:
Vua của các vua là vị thiên vương cung trời
thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác
Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền năo là
người trí.
Dứt bỏ được tham sân si th́ ĺa
được dơ bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ th́
chứng niết bàn.
C̣n vướng mắc vào ngă và pháp là c̣n ch́m đắm trong
biển sinh tử.
Thấy rơ được pháp tánh duyên khởi th́ tiêu dao
tự tại trong cơi giải thoát.
Mỗi lời
giải đáp của đức Phật đều như
thấm sâu vào tim phổi của Ca Chiên Diên, khiến cho
những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy
lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch. Ông vui
mừng đến nỗi, đă trải qua một lúc khá
lâu mà không thốt lên được tiếng nào! Lời
khai thị của đức Phật đă như một
động lực mạnh mẽ, làm cho ông tỏ ngộ
và bắt đầu đặt chân vào thế giới
của chân lí. Cuối cùng, ông đọc lại nguyên
văn bài kệ của Phật dạy, rồi đảnh
lễ và lui ra ...
Ca Chiên Diên trở
vào hoàng cung bệ kiến quốc vương, đọc
bài kệ của Phật cho nhà vua và toàn thể triều
thần nghe. Sau đó, ông tuyên bố cho tất cả mọi
người biết là ông sẽ trở lại vườn
Nai ngay để xin qui y làm đệ tử Phật ...
5.-
KHUYÊN NIỆM TAM BẢO:
Rốt cuộc
rồi Ca Chiên Diên cũng được ánh sáng trí tuệ
của bậc Đại Giác chiếu rọi và đă
trở thành một trong những vị đệ tử
ưu tú, đứng hàng đầu trong giáo đoàn. Ca Chiên
Diên hoan hỉ vô cùng, v́ không những tự ḿnh đă
được cứu độ, mà c̣n làm tṛn
được tâm nguyện của đạo sĩ A
Tư Đà. Tôn giả vốn dĩ đă là một nhân
vật phi phàm, nay lại được theo Phật
xuất gia và chứng quả A La Hán, th́ tài trí ấy
lại càng siêu việt. Tôn giả đă thông hiểu
rất nhiều kinh luận ngoại đạo, cho nên
điều phát nguyện đầu tiên của tôn giả
là phải đưa những người bạn kia ra
khỏi con đường mê lầm để quay về
tiếp nhận chân lí và nương tựa nơi Tam
Bảo.
V́ có tâm nguyện
như vậy, cho nên tôn giả, lúc sống trong tu viện
th́ đem hết tâm lực để tu học, c̣n lúc ra bên
ngoài th́ cũng đem hết tâm lực để hoằng
truyền chánh pháp. Giáo pháp cứu đời do đức
Phật khám phá, giờ đây nhờ có sự hoằng hóa
tích cực của Ca Chiên Diên mà được phổ
cập dễ dàng trong nhân quần xă hội. Tôn giả cho
rằng, được làm sứ giả của
đức Như Lai là một vinh hạnh tột cùng
của đời ḿnh; và cũng v́ ḷng nhiệt thành ấy
mà tiếng tăm của tôn giả trở nên lừng
lẫy, như mùi thơm của hoa bay tỏa khắp
nơi, ai nghe đến tên cũng đều tỏ ḷng
kính nể.
Một lần
nọ, đức Phật trở về quê hương Ca
T́ La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi
theo Phật có tôn giả Ca Chiên Diên. Phật và đại
chúng tạm trú tại thôn Hạ Lị. Trong thời gian
lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một
vị trưởng giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên
muốn đích thân đến dùng Phật pháp để
tiêu trừ bệnh khổ cho ông ta.
Tôn giả
đến trong lúc vị trưởng giả đang
nằm trên giường bệnh. Tôn giả hỏi thăm:
- Thưa
trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói
trưởng giả không được khỏe nên sai tôi
đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đă
cho mời thầy thuốc đến chữa trị
chưa?
Vị
trưởng rất cảm động trả lời:
- Con xin cám ơn
đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh
của con đă đến lúc quá nặng rồi, không c̣n hi
vọng ǵ chữa được. Rất nhiều thầy
thuốc đều đă bảo như vậy.
- Vậy xin
trưởng giả hăy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong
nhờ uy đức lớn lao của Tam Bảo mà tâm ư
của trưởng giả được thanh tịnh,
rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
- Thưa
đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng
được hộ tŕ Tam Bảo để đam
lại lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam
Bảo những ǵ ḿnh có chứ đâu dám yêu cầu này
nọ nơi Tam Bảo!
- Trưởng
giả nói rất đúng! Cơi thế gian là vô thường,
chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta
được thường trú măi măi. Thân thể phải
bị bịnh tật, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo
làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có
đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân
để xây dựng cuộc sống chung cùng. Bịnh
hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hăy biết
tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền đến
Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả,
sức người thi có giới hạn mà ánh từ quang
của Tam Bảo th́ trải khắp mọi nơi, nếu
chúng ta thành tâm cần cầu th́ ánh từ quang ấy sẽ
rọi chiếu đến.
Nghe lời khuyên
của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên
niệm Tam Bảo. Ông cảm thấy thân tâm dần dần
trở nên an lạc và bệnh t́nh cũng ngày càng thuyên giảm.
6.-
TUYÊN DƯƠNG GIÁO PHÁP B̀NH ĐẲNG:
Cũng như các
vị đệ tử lớn khác của đức
Phật, tôn giả Ca Chiên Diên có khi th́ ở bên cạnh
Phật để tu học, có khi th́ đi vân du các nơi
để giáo hóa độ sinh. Phương pháp giáo hóa
giữa tôn giả và tôn giả Phú Lâu Na (Purna - Punna) có
chỗ không giống nhau. Trong lúc Phú Lâu Na thường hay
thuyết pháp trước một cử tọa đông
đảo có hàng ngàn người th́ tôn giả chỉ thích
giáo hoá cho từng người một; v́ theo tôn giả, khi
một người đối mặt với một
người th́ không khí nói chuyện có vẻ thân mật
hơn, do đó mà lời nói dễ được
người đối diện chú ư và ghi nhớ sâu
đậm hơn. Điều đó quả thật không
sai, v́ bất luận là ai, hễ được nghe
lời chỉ dạy của tôn giả th́ đều
hết ḷng tin tưởng và có ấn tượng tốt
đối với tôn giả.
Một lần
nọ, khi đức Phật ngự tại tu viện Ḱ
Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đă một ḿnh vượt
rừng rậm đi về hướng Tây, đến du
hóa ở vương quốc Ma Du La. Khi đến nơi,
trước hết tôn giả t́m hiểu dân t́nh và học
hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt
của dân địa phương. Sau đó tôn giả
mới t́m vào kinh thành để yết kiến quốc
vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương
hỏi:
- Đại
đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn
thuộc ḍng giống Bà la môn cao quí, nhưng lại đi
qui y làm đồ đệ của sa môn Cồ Đàm
vốn thuộc ḍng giống Sát Đế Lị; như
vậy chẳng hóa ra là đại đức đă tự
hạ thấp ḿnh quá sao?
- Thưa
đại vương! Làm đệ tử Phật,
chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ
thấp ḿnh, trái lại đó là điều vinh quang cùng
tột của đời tôi.
- Lạ lùng
thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra
từ miệng Phạm Thiên của ḿnh để làm
đệ tử của ông Phật ḍng Sát Đế Lị
th́ có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc
vương tỏ rơ thái độ kinh rẻ như
vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó
chịu, vẫn từ ḥa đáp lại:
- Thưa
đại vương! Trước đây, khi c̣n là một
đạo sĩ Bà la môn, tôi cũng đă từng có cái nh́n
giống hệt như đại vương vậy,
nhưng từ khi nghe được những lời
chỉ dạy của đức Phật, tôi mới
biết là ḿnh đă có những nhận thức đầy
sai lầm. Xă hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau
chẳng qua là v́ có các chứng nghiệp khác nhau, đại
khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công
nông v.v... Đó chỉ là vấn đề phân công làm
việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y
cứ vào đó để lập thành các giai cấp cao
thấp, phân chia chủng tộc sang hèn th́ hoàn toàn là
những lợi dụng vô lí và phi pháp. Bất cứ ở
giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. Ngày
nay, ngay trong ḍng Bà la môn cũng đầy dẫy những
phần tử làm nhiều việc xấu xa như tà dâm,
giết người, và hầu hết đều là
những người bảo thủ, tà kiến. Vậy có
thể bảo đó là những người tôn quí bậc
nhất hay sao. Bởi thế, sự tôn quí hay thấp hèn
của con người không phải do chủng tộc hay
giai cấp cao thấp sinh ra. Bất luận là ở
chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có
công phu tu học, có giác ngộ và chứng quả th́
đều là người trong sạch, cao thượng,
đáng tôn quí.
Quốc
vương nghe xong mấy lời này th́ bừng tỉnh
ngộ, tự nói với ḿnh: “Đúng rồi, ta thật
quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ
trước đến giờ chỉ dành để giam
cầm hạng Thủ đà la, c̣n hạng Bà la môn phạm
tội th́ không hề hấn ǵ cả. Thật chẳng
lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân
chúng!”
Ḷng hối cải
đă lộ rơ trên nét mặt quốc vương. Thấy
thế, tôn giả thuyết phục thêm:
- Thưa
đại vương! V́ vậy mà đại vương
nên tin phụng và thực hành chánh pháp. Phật là bậc
đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng
ta qui y làm đệ tử của Người để
t́m thấy con đường tự do giải thoát. Đó
là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta.
Quốc
vương nước Ma Du La đă tin tưởng và
tiếp nhận giáo pháp b́nh đẳng của Phật. Ông
nhờ tôn giả Ca Chiên Diên giới thiệu ông đến
xin qui y làm đệ tử Phật. Sau đó ông hạ
lệnh đại xá thiên hạ, trả tự do cho
tất cả tù nhân oan ức, quyết tâm chỉnh
đốn lại nền chính trị, không hùa theo kẻ mạnh
để chèn ép người yếu, hủy bỏ
những luật lệ bất b́nh đẳng đă có
từ trước, quốc pháp được áp dụng
đồng đều cho tất cả người dân,
không phân biệt và ḱ thị giai cấp. Từ đó toàn dân
trong vương quốc được sống trong hân
hoan, an b́nh và thịnh vượng. Mọi người đều
cảm ơn đức giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên
và đều thấm nhuần đức từ bi, b́nh
đẳng của Phật pháp.
7.-
LUẬN VỀ TƯ CÁCH TRƯỞNG GIẢ:
Từ
khi biết được tôn giả Ca Chiên Diên tuyên
dương giáo pháp b́nh đẳng của đức
Phật th́ hầu hết giới Bà la môn đều
phẫn nộ. Họ quyết t́m cơ hội đánh
bại tôn giả, nếu không th́ họ sẽ không thể
nào ngóc đầu lên được, nhưng rồi họ
đă không làm ǵ được. Các đạo sĩ Bà la
môn, dù ở cấp bậc nào, chỉ cần nghe vài câu
đối đáp giản dị của tôn giả là
liền bị khuất phục.
Một hôm, tại
thành Ba La Nại, khi tôn giả đang cùng với mấy
vị t́ kheo khác thọ trai trên một bờ hồ th́
một cụ già ḍng Bà la môn t́m đến gây hấn.
Thoạt tiên cụ chống gậy đứng im lặng
bên cạnh tôn giả. Cụ nghĩ rằng, nếu
tôn giả trông thấy cụ th́ nhất định
phải đứng dậy nhường chỗ cho cụ.
Nhưng, thật là ngoài ư muốn của cụ, tôn giả
vẫn an nhiên, làm như không hề biết có cụ
đang đứng bên cạnh. Tức giận đến
không thể nào chịu được nữa. cụ bèn
lớn tiếng quát tháo:
- Các ông làm ǵ
vậy? Thấy một vị trưởng giả già
cả như ta đây mà không đứng dậy
nhường chỗ hay sao?
Quí vị t́ kheo
nghe thế hoảng kinh, tức khắc đứng dậy
mời cụ ngồi, nhưng riêng Ca Chiên Diên th́ vẫn
ngồi thản nhiên, nh́n cụ nói:
- Cụ là ai, Có ǵ
mà cụ nóng giận quá vậy? Chúng tôi đang thực hành
giáo pháp cung kính, nhưng hiện chỗ này đâu có
vị nào là bậc trưởng giả tiền bối của
chúng tôi!
Cụ lại
nộ khí xung thiên, liền đưa cây gậy lên, chỉ
vào cḥm râu bạc của ḿnh, nói như thét:
- Ta tuổi
lớn chừng này, râu đă bạc mà không đáng là
trưởng giả hay sao? Các ngươi có chịu kính
trọng ta không
Vẫn với
giọng rắn rỏi, tôn giả nói:
- Cụ ư?
Không! Cụ không đáng xưng là trưởng giả, và cũng
không đáng nhận được sự kính trọng
của chúng tôi.
Cụ già nhảy
dựng người lên, dùng gậy chỉ ngay vào mặt
tôn giả, la lớn:
- Ngươi coi ta
không ra ǵ phải không?
Ca Chiên Diên vẫn
b́nh tĩnh:
- Chính cái giọng
nói và cử chỉ thô lỗ, dữ dằn của cụ
đă chứng tỏ cụ không xứng đáng là bậc
trưởng giả, không xứng đáng để chúng tôi
kính trọng. Dù cho là người trong ḍng Bà la môn, tuổi
tác có cao đến tám chín mươi, tóc bạc răng
long, mà người ấy không có đức độ và tác
phong đứng đắn, đam mê ngũ dục, không
chế ngự được các tính xấu tham, sân, ganh,
tị, th́ cũng không khác ǵ một đứa trẻ
không được dạy dỗ. Trong khi đó, nếu
một thanh niên trẻ tuổi mà có cuộc sống
giải thoát, không bị trói buộc bởi ái dục, không
có tâm mong cầu ǵ đối với thế gian, một
niệm bất b́nh cũng không nảy sinh, th́ thật
xứng đáng là bậc trưởng giả, và sẽ
được chúng tôi hết ḷng kính trọng.
Ông cụ nghe Ca
Chiên Diên giảng giải, không c̣n biết phải trả
lời ra làm sao, bèn im lặng bỏ đi một mạch.
8.-
ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ Ở
NGƯỜI TUỔI CAO:
Khuất phục
được ông lăo ḍng Bà la môn, nhưng đâu phả́
như thế là được yên! Thanh danh của tôn
giả càng lớn th́ sự căm ghét của tín đồ
Bà la môn đối với tôn giả lại càng dâng cao.
Một người Bà la môn khác, rất giỏi biện
luận, nghe nói Ca Chiên Diên đă không tỏ ra cung kính
đối với bậc trưởng bối của ḿnh,
lại c̣n chê bai biện bác đến nỗi vị ấy
phải cứng miệng, không đối đáp được
lời nào th́ tức giận vô cùng. Dù đang ở một
nơi rất xa, ông ta cũng cố t́m đến Ba La
Nại để cật vấn Ca Chiên Diên. Khi vừa
thấy mặt nhau, không cần chào hỏi lôi thôi, ông đă
tra vấn ngay:
- Này Ca Chiên Diên! Ta
nghe nói ngươi vốn thuộc ḍng giống Bà la môn
nhưng lại đổi đạo để làm
đệ tử Cồ Đàm, có đúng như thế
không?
Tôn giả trả
lời thật đanh thép:
- Bỏ đi
một thứ tà kiến để đi theo con
đường sáng suốt, chân chính th́ không có ǵ là lầm
lỗi cả.
- Nhưng
ngươi đâu phải là một tên vô danh tiểu
tốt! Ngươi đă từng là một con người
tinh thông uyên bác, tài danh tột bực trong hàng ngũ Bà la môn
chúng ta, nay lại đổi đạo để theo
Cồ Đàm, chỉ một điều đó cũng không
thể tha thứ được. Đă thế,
ngươi c̣n ráo riết tuyên dương Phật pháp
để khuyến dụ bao nhiêu tín đồ Bà la môn khác
theo gương ngươi đổi đạo, hành vi
đó của ngươi hết sức vô lễ!
- Người sáng
suốt có bổn phận vạch rơ cho bạn bè ḿnh
biết con đường sai lầm thuở trước,
đó là lời chỉ dạy phát xuất tâm từ bi
rộng lớn của đức Phật.
Muốn ǵ th́
muốn, ông ta vẫn không bẻ găy được cái ư chí
sắt đá của tôn giả. Tuy vậy, ông vẫn không
chịu thua. Sực nhới lại mục đích ban đầu
khi đi đến đây, ông đổi giọng:
- Ca Chiên Diên! Tôi
lại xin hỏi ông điều này. Tôi nghe nói, sau khi theo
Phật làm t́ kheo, ông đă không c̣n kính trọng các vị
trưởng lăo Bà la môn. Thấy họ, ông đă không đứng
dậy nghinh tiếp, cũng không ngồi chung, có quả
như vậy không? Nếu đó là sự thật th́
tôi nghĩ rằng, dù có là t́ kheo đi nữa th́ ông
cũng không nên cư xử như vậy.
Giọng tôn
giả cũng trầm hẳn xuống, nhưng vẫn
thẳng thắn:
- Câu hỏi
của ông vừa rồi là hoàn toàn đúng sự thật.
Sau khi tôi quay về nương tựa nơi đức
Phật để tu học th́ không c̣n cung kính và phụng
sự các trưởng lăo Bà la môn nữa, và việc đó
cũng rất đúng với chánh pháp. Tôi hiện thời
đă chứng được quả thánh. Cho nên việc tu
chứng không thể đem tuổi tác cao thấp mà so sánh
được, nghi thức và chánh pháp cũng không thể
làm cho xáo trộn được ...
Như bị thu
hút, người cứ im lặng lắng nghe Ca Chiên Diên
giảng giải, càng suy nghĩ càng thấy hổ thẹn
cho ḿnh, nghẹn lời không nói ǵ thêm được. Cuối
cùng th́ ông ta tỉnh ngộ, cởi bỏ tà kiến, xin
theo tôn giả làm đệ tử Phật.
Cứ như
thế, tôn giả đă dùng lời lẽ sắc bén
của ḿnh để giáo hóa cho không biết bao nhiêu
người ngoại đạo “cải tà qui chánh”, quay
về và nương tựa nơi Tam Bảo.
9.-
NGUYÊN NHÂN TRANH GIÀNH:
Một hôm, Ca Chiên
Diên đang đi khất thực trên đường
phố, một đạo sĩ Bà la môn đến
đứng trước mặt khẩn khoản:
- Đại
đức! Thật tôi có duyên lành cho nên hôm nay mới
gặp được đại đức. Tôi có
điều thắc mắc muốn thỉnh giáo, xin
đại được giải đáp cho!
- Xin đừng
khách sáo làm ǵ! Ông có ǵ thắc mắc xin cứ tŕnh bày.
- Tôi thấy trên
đời này, Sát đế lị th́ tranh giành với Sát
đế lị, Bà la môn th́ tranh giành với Bà la môn. Họ
cứ tranh giành như vậy là tại v́ nguyên nhân ǵ?
- Tại v́ họ
bị tham dục mê hoặc.
- Bà la môn tranh giành
nhau, Sát đế lị tranh giành nhau đều là vị
bị tham dục mê hoặc, vậy th́ trong tăng đoàn
của đại đức, t́ kheo tranh giành vớí t́ kheo
là tại v́ nguyên nhân ǵ?
- Tại v́ họ
c̣n chấp ngă và chấp pháp.
Đạo sĩ
Bà la môn bèn nhắm mắt, ṿ đầu, tỏ vẻ
như đang suy nghĩ về những điều Ca Chiên
Diên vừa nói. Cái cử chỉ nhắm mắt, ṿ
đầu ấy, ông cố t́nh làm thật hết sức
quái dị để cho mọi người hai bên
đường phải chú ư. Sự việc một
đạo sĩ và một t́ kheo chất vấn nhau ở
ngiữa phố đă làm cho người ta ngạc nhiên
rồi, huống chi vị đạo sĩ kia lại c̣n
cố ư làm ra bộ tịch hết sức quái dị! Cho
nên kẻ hiếu ḱ cứ ùn ùn kéo đến vây kín chung
quanh hai vị như thể đi xem một vở hài
kịch.
Đạo sĩ
Bà la môn “diễn xuất” như thế một hồi lâu,
bỗng ông mở mắt ra, đắc chí nói:
- Lời của
tôn giả thật là công minh, chính trực và hợp lí, và
như thế, theo tôi nghĩ, trên đời này không có
một người nào là không có tham dục, chấp ngă và
chấp pháp!
Tôn giả đáp
không chút do dự:
- Có chứ!
Thầy tôi là đức Phật, hiện thời đang
giáo hoá tại thành Xá Vệ, là bậc đại giác
ngộ, không c̣n bị tham dục mê hoặc, không c̣n
chấp ngă và chấp pháp. Người là bậc đạo
sư của ba cơi, là bậc mô phạm cho cả loài
trời và loài người.
Đến đây,
bỗng nhiên người ta thấy thái độ của
đạo sĩ Bà la môn đă hoàn toàn thay đổi,
cử chỉ cao ngạo đă biến mất, nét mặt tự
măn đă đổi ra thành khẩn, có vẻ như trong ḷng
đang trải qua một cơn chuyển biến cực
mạnh .. Thế rồi ông ta xin tôn giả Ca Chiên Diên
giới thiệu để được qui y làm
đệ tử Phật.
16.
RĂN DẠY THIẾU NIÊN VÔ LỄ:
Sở dĩ các
giáo sĩ Bà la môn đă gây nhiều cuộc tranh chấp
với tôn giả Ca Chiên Diên là v́ tôn giả chẳng
những đă xuất thân từ chủng tộc Bà la môn,
mà vốn c̣n là một vị chức sắc cao cấp, có
danh vọng lớn, rất được kính trọng
trong đạo Bà la môn; và lẽ đương nhiên,
sự đổi đạo của tôn giả phải là
một biến chuyển vô cùng trọng đại, đă
gây chấn động mănh liệt trong giới tôn giáo
thần quyền đó. Những kẻ luôn luôn t́m cách gây
hấn với tôn giả dĩ nhiên là rất nhiều,
nhưng dù sao cũng có một số người vẫn
giữ được t́nh bạn tốt đẹp
với tôn giả.
Một dạo
nọ, tôn giả về cố hương là thôn Nhĩ
Hầu (thuộc vương quốc A Bàn Đề)
để hành hóa. Trong thôn có một đạo sĩ Bà la
môn tên Lỗ Ê Giá, dù biết Ca Chiên Diên đă qui y theo
Phật, ông vẫn giữ ḷng cung kính đối với tôn
giả như xưa.
Một hôm, một
số đệ tử trẻ tuổi của Lỗ Ê Giá
lên núi đốn củi. Đám thiếu niêu này, khi đi
đến trước một hang đá th́ trông thấy Ca
Chiên Diên đang thiền tọa trong đó. Chúng chỉ
trỏ cười cợt:
- Tụi bây ơi!
Có ông sa môn đầu trọc đây nè!
- Coi nè, tụi bay
ơi! Ông sa môn đầu trọc có cái ǵ ngộ lắm!
Mỗi đứa
một câu, đám trẻ cứ thế làm huyên náo cả
lên. Nhưng trong bọn cũng có đứa biết
điều, cố ngăn mấy đứa kia lại:
- Này, tụi bây!
Không nên vô lễ đối với vị sa môn này. Ông
ấy là người vẫn được thầy chúng ta
hết sức kính trọng đó!
Mạc dù đă có
người khuyên bảo, nhưng bọn trẻ ĺ lợm
kia vẫn lớn tiếng trêu ghẹo; thậm chí có
đứa c̣n ném đá vào hang nữa! Ca Chiên Diên bây giờ
bèn đứng dậy, bước ra khỏi hang, bèn
lớn tiếng bảo bọn trẻ:
- Này các cháu! Từ
trước người Bà la môn vẫn tu hành chân chính, không
hề phạm đến ngũ dục; và bây giờ th́
họ lại cưới vợ, sinh con, không khác ǵ
người thế tục. C̣n những hành vi của các
cháu ngày hôm nay th́ cũng không khác giới bọn trẻ con
lêu lỏng vô học. Sao các cháu có thầy mà không nghe lời
thầy dạy?
Tiếng nói
của tôn giả uy nghiêm như tiếng gầm của
sư tử, khiến cho bọn trẻ khiếp vía không dám
mở miệng trả lời, nhưng trong ḷng th́ tức lắm.
Chúng bèn chạy vội trở về mách hơn mách kém
với thầy là Lỗ Ê Giá. Nghe vậy, ông tức
giận vô cùng, bảo bọn trẻ:
- Ta xưa nay
đối với hắn vẫn một ḷng kính trọng,
sao hôm nay hắn lại vô cớ mắng nhiếc thầy
tṛ chúng ta! Ta nhất định phải đến gặp
hắn để biết phải quấy một phen.
Nói xong, với
vẻ mặt hầm hầm, Lỗ Ê Giá nhắm
hướng hang đá đi thẳng, ḷng những
tưởng phen này không thể nào để cho Ca Chiên Diên
“phách lối” được nữa. Nhưng ông đâu có
ngờ, khi đến nơi và thấy được
tướng mạo trang nghiêm của Ca Chiên Diên, rồi nghe
rơ được lời tŕnh bày thẳng thắn của
tôn giả về sự việc của bọn trẻ
vừa xảy ra, cơn tức giận của ông bỗng
tan đi, và ḷng khởi lên một niềm hối hận vô
bờ. Không biết nói ǵ hơn, ông chỉ cúi đầu im
lặng .. Biết là cơ hội hóa độ đă
đến, tôn giả bèn khai thị:
- Này người
bạn hiền, xin hăy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và
sự tu hành của chúng ta là nhằm mục đích
giải thoát khỏi ṿng sinh tử, để cho cuộc
sống đạt được an lạc, tự
tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ
nghề nghiệp để sinh sống. Hiện nay,
những tu sĩ Bà la môn ĺa bỏ gia đ́nh để
sống theo nếp sống phạm hạnh của
người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần
đông họ đều chỉ có cái h́nh tướng trá
ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho
người giống như việc kinh doanh để sinh
nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành
đoạt lợi, cốt thỏa măn cái tư dục
của ḿnh; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà la môn ngày
nay đều lo t́m những thứ ǵ ở ngoài tâm, cũng
chẳng phải mong cầu phước báo ở cơi
Trời hay cơi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói
vượn về những hiện tượng này nọ
của vũ trụ, nào có mấy người biết chính
ḿnh là ai! Thầy của tôi là đức Phật.
Người chính là đấng cứu tinh của nền
tôn giáo lẩn quẩn, bế tắc hiện nay. Nếu ông
vẫn c̣n coi tôi là bạn tốt th́ xin ông hăy dứt bỏ
những tà kiến cũ, dứt bỏ hết vọng
chấp, đem cái tâm hồn trong sạch theo tôi về qui y
với đức Thế Tôn để tu học.
Lỗ Ê Giá thành
khẩn:
- Đại
đức nói rất phải. Bây giờ mọi việc tôi
đều xin nhờ đại đức chỉ bảo
cho ...
11.-
LÍ VÔ THƯỜNG:
Có một lúc
đức Phật hành hóa tại vương quốc A Bàn
Đề. Một hôm, trước đông đảo thính
chúng gồm chư vị t́ kheo, t́ kheo ni, cận sự nam
và cận sự nữ, đức Phật bảo tôn
giả Ca Chiên Diên thay thế Ngài đối trước
đại chúng giảng nói về giáo lí “Vô thường”.
Tôn giả vâng mạng đảnh lễ Phật, rồi
nói với đại chúng:
- Kính thưa toàn
thể chư vị thiện tri thức! Tất cả
mọi người mọi vật, đă có hợp th́
sẽ phải có tan, có sinh th́ ắt có tử, có thành th́ có
hoại. Tất cả các pháp hữu v́ trên thế gian
như núi sông đất đá cỏ cây, mọi hiện
tượng thiên h́nh vạn trạng trong vũ trụ,
đều không thể thoát ra ngoài nguyên lí vô thường
này. Khi mùa Xuân đến th́ trăm hoa đua nở,
nhưng lúc gió Thu thổi về th́ lá vàng lả tả ĺa
cành. Con người ta lúc tuổi trẻ th́ má hồng xinh
đẹp nhưng vừa trải qua mấy mùa nóng
lạnh th́ liền trở thành tóc hạc da gà. Làm
người, nếu không giải thoát ra khỏi cái kiếp
vô thường th́ cái sinh mạng ngắn ngủi và tạm
bợ kia, thật quả là đau buồn và cô độc.
Xem như hạt sương mai đọng trên cánh hoa kia,
bất quá là nó chỉ tồn tại cho đến khi mặt
trời mọc là cùng. Rồi chính mặt trời đó
nữa, nó đem vô lượng tia sáng chiếu soi cùng
khắp thiên hạ là thế, nhưng rồi nó cũng
phải ch́m mất trong đêm đen tăm tối. Vợ
chồng ái ân nồng thắm là thế, nhưng khi cái già
rồi cái chết đến với một người
th́ người kia dù muốn cũng không thay già thế
chết cho nhau được. Con cháu dù có hiếu thuận
đến mức nào đi nữa, khi ta chết, bất quá
th́ chúng nó cũng chỉ biết ngồi vây quanh mà khóc than
thương tiếc, chứ làm sao mà đảo
ngược cơn vô thường để kéo ta sống
lại! Chúng ta cũng không thể nào trông cậy vào vàng
bạc, của cải, danh vị và quyền thế, v́
tất cả những thứ đó đều không
chắc thật. Nếu không thấy rơ đạo lí vô
thường th́ chúng ta sẽ bị những màu sắc
rực rỡ của thế gian mê hoặc. Non xanh
nước biếc của thiên nhiên là thế, con
người kiện khang mạnh khỏe là thế, xă
hội đèn sáng rượu nồng là thế ..., tất
cả, mới nh́n cứ tưởng toàn là những thú vui
cùng cực, nhưng sự thật th́ chỉ là những
nơi hầm hố hại người, bởi v́ ở
những nơi đó đều luôn luôn sẵn có cơn vô
thường mai phục! Nếu chúng ta quán chiếu kĩ
càng th́ sẽ thấy những ǵ trên thế gian cũng
đều là hư ngụy lọc lừa, chỗ nào
cũng có quỉ quái hại người; chỉ có nhân
quả và nghiệp lực là không bao giờ lừa lọc.
Nghiệp lực theo ta như bóng theo h́nh; dù sống, dù
chết, lúc noà nó cũng theo ta bén gót. Cho nên, thưa chư
vị thiện tri thức, những người đang
theo con đường tu học như chúng ta, cần
phải tinh tấn phấn đấu với con ma vô
thường, bằng cách tuân theo giáo huấn của
đức Đạo Sư, cần mẫn tu tập,
đạp nát cơi vô thường, phá tung lưới sinh
tử, và đạt được cái kiếp sống
vĩnh cữu, không sinh không diệt ...
12.-
LÀM CÁCH NÀO ĐỂ BÁN NGHÈO MUA GIÀU?
Một hôm, sau khi
hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường
trở về tu viện Ḱ Viên ở thành Xá Vệ. Giữa
đường, tôn giả trông thấy một thiếu
phụ ôm một ṿ nước, ngồi khóc lóc thảm
thiết bên bờ sông, t́nh cảnh có vẻ rất
thương tâm. Sợ người thiếu phụ v́ quá
thất ư mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn
giả vội vàng đến hỏi thăm:
- Thưa bà! Có
chuyện ǵ làm bà đau khổ đến nổi khóc lóc
thảm năo như vậy?
Nghe có người
hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
- Thôi ông hỏi han
làm ǵ, dù có nói cũng vô ích thôi!
- Thưa bà! Xin bà
cứ nói! Tôi là đệ tử của đức
Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết
được bất cứ vấn đề khó khăn
nào.
- Ông không có cách nào
giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy
dẫy những hoàn cảnh không b́nh đẳng,
người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời
một vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp,
suốt đời chịu khổ, và cũng v́ cái nghèo
đă đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên
hiện giờ tôi không c̣n muốn sống làm ǵ trên cơi
đời này nữa!
Nói xong mấy
lời ấy th́ thiếu phụ vật vă lăn lộn
như có ư muốn liều ḿnh. Tôn giả hoảng hốt,
vội nhanh chân đứng chận trước mặt
thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:
- Thưa bà! Xin bà
đừng quá thất vọng như vậy! Bà hăy b́nh tâm
nh́n lại thử xem, trên đời này người nghèo
nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một ḿnh
bà! Lại nữa, người nghèo không hẳn là bất
hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh
phúc. Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao
cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn
người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày
cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận, ganh
ghét giày ṿ, đó mới là đau khổ, đó mới là
bất hạnh. Cho nên làm người, chỉ cần có
được cuộc sống b́nh an là tốt nhất, c̣n
cái nghèo đâu đáng để cho ta đau buồn!
- Bởi v́ ông là
một vị sa môn nên c dửng dưng với sự
thế, chứ kẻ tục như tôi th́ đâu
được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là
kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở
vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô
dịch cho người, không có một chút th́ giờ
rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, lại c̣n bị người
chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng
chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi tớ
chúng tôi, muốn sống cũng không được mà
muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi
bị hành hạ như vậy là chỉ v́ cái nghèo mà ra, sao
ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho
người ta đau khổ?
- Thôi th́ cứ cho
là bà có lí, nhưng dù sao th́ tôi cũng khuyên bà đừng
đau buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức
chẳng những thoát được cái nghèo mà c̣n phát tài nữa.
Thiếu phụ
lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
- Cách ǵ, thưa
đại đức?
- Giản dị lắm!
Bà đă bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem
cái nghèo ấy bán cho người khác đi?
- Đại
đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán
được th́ hóa ra trên đời này chẳng c̣n ai
nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái
nghèo!
- Tôi chịu mua, bà
hăy bán cho tôi đi!
- Cái nghèo lại có
thể bán được, và cũng có người như
đại đức chịu mua, nhưng rất tiếc
là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
- Bằng cách
bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo
của mọi người đều có nguyên nhân. Sở
dĩ người ta nghèo là v́ kiếp trước
người ta tham lam keo kiệt, không biết bố thí và
tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là v́
kiếp trước người ta biết bố thí và tu
phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách
tốt nhất để bán nghèo mua giàu.
Nghe mấy lời
khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng
cảm thấy như tâm trí ḿnh vừa được khai
sáng, dù vậy, bà vẫn c̣n có điều thắc mắc:
- Thưa
đại đức! Bây giờ th́ con thấy tâm trí con
đă được sáng tỏ. Con hiểu được
lời dạy của đại đức rồi,
nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ
vật ǵ gọi là của riêng; ngay cả cái ṿ nước
này cũng là của người chủ tham lam độc
ác ấy, con đâu biết lấy ǵ để cúng
dường cho đại đức!
Ca Chiên Diên
đưa cái b́nh bát của ḿnh ra trước mặt
thiếu phụ:
- Không nhất
thiết phải có tiền bạc hay của cải
mới bố thí được. Mỗi khi thấy
người khác bố thí mà ḿnh khởi niệm hoan hỷ,
đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có
thể trút nước trong cái ṿ bà đang có sang b́nh bát này
cho tôi. Thế tức là bà bố thí cho tôi đó!
Tới đây th́
thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà
nguyện luôn luôn y theo lời dạy của tôn giả mà
thực hành, và không c̣n thấy bị đau khổ v́
cảnh nghèo nữa.
13.-
BIẾN ÁI T̀NH THÀNH T̀NH THƯƠNG RỘNG LỚN:
Một lần khác
tôn giả đến giáo hóa ở một tiểu quốc thật
xa xôi, và cư trú trong khu rừng tre của một vị
trưởng giả nọ. Bấy giờ, quốc
vương của nước ấy đang gặp
chuyện đau buồn. Đó là, bà hoàng hậu rất
được nhà vua sủng ái vừa mới qua
đời. Nhà vua vô cùng đau xót nhớ thương,
suốt ngày chỉ ngồi than thở khóc lóc, đến
nỗi không thiết ǵ ăn uống, luôn cả việc
triều chính cũng không màng tới! Nhà vua không làm sao quên
được cái thời gian ái ân mặn nồng xưa,
cho nên đă truyền lệnh cho các vị đại
thần phải đem thi thể của hoàng hậu ngâm
trong dầu mè để khỏi bị rửa nát, rồi
hàng ngày ông cứ đến đứng trước thi
thể ấy nói: “Cái miệng này sao bây giờ không nói
với ta một lời nào! Sao hai cánh tay này bây giờ không
c̣n ôm ta nữa! Ái khanh ơi! Sao không nh́n ta một cái đi?
...”
Nhà vua bi ai quá
độ, và không biết t́nh trạng này đến bao
giờ mới dứt được! Các vị đại
thần lo lắng lắm. Họ nhiều lần khuyên nhà
vua đừng quá đau buồn như thế nhưng ông
không tự chủ được. Ông nói, nếu muốn
ông hết đau buồn, cách tốt nhất là hăy làm cho
hoàng hậu sống lại! Nhưng trên đời này
có ai đủ khả năng làm được việc
đó? Quyền thế và cao sang tột phẩm như nhà
vua mà vẫn phải bó tay!
Trong cơn bối
rối ấy, các vị đại thần bỗng nhớ
ra là hiện ở trong nước ḿnh có đại
đức Ca Chiên Diên đang hành hóa. Họ nghĩ, một người
có oai đức lớn, có cách nói năng khéo léo như
thế th́ nhất định sẽ có cách làm cho nhà vua
dứt được đau khổ, chẳng những
thế, có khi c̣n làm cho thần trí nhà vua sáng suốt, dơng mănh
hơn lên để lo việc triều chính cũng chưa
biết chừng! Họ bèn dâng kiến nghị:
- Tâu đại
vương! Hiện giờ có đại đức Ca Chiên
Diên là một vị đệ tử lớn của
đức Phật, đang du hóa tại nước ta.
Vị đại đức ấy có thần thông lớn,
có oai đức lớn, trí thức uyên bác, không có ǵ là không
biết, luôn cả văn bia xưa khắc bằng chữ
Phạm Thiên mà ông ta cũng đọc thông suốt! Tâu
đại vương! Chúng thần xin đại
vương đi t́m để yết kiến vị
đại đức ấy, may ra ông ta có thể giúp ích
được cho đại vương.
Nghe vậy, nhà vua
hỏi dồn dập:
- Ông ấy có
thần thông ư? Ổng có thể làm cho hoàng hậu
sống lại được không?
Câu hỏi của
nhà vua làm cho các vị đại thần lúng túng. Họ
không biết trả lời làm sao cho phải. May thay, trong
số các vị đại thần này, có một vị
đă từng được nghe tôn giả Ca Chiên Diên
thuyết pháp. Ông ta nhanh trí tâu:
- Tâu đại
vương! Vị đại đức ấy có thể
làm cho hoàng hậu sống lại được hay không th́
chúng thần không dám nói chắc. Theo ư thần, trong trường
hợp này, chỉ có việc đi thỉnh đại
đức tới đây th́ mới có thể biết
chắc được.
Nhà vua chấp
thuận lời đề nghị ấy, và lập tức
mang lễ vật lên đường. Đến khu
rừng tre, vừa trông thấy tôn giả là nhà vua
đề cập ngay đến chuyện làm sao cho hoàng
hậu sống lại. Tôn giả bèn bẽ ngay một nhánh
cây gần đấy trao cho nhà vua, nói:
- Xin đại
vương mang cây này về để ngay trong nội cung
và bảo nó phải xanh tươi măi măi, không
được héo úa. Đại vương làm
được chăng?
- Việc này không
thể được! Nó đă bị tách ra khỏi thân cây
rồi th́ làm sao sống măi được?
- Thưa
đại vương! Nay hoàng hậu của đại
vương cũng vậy, nghiệp báo đă dứt,
mạng sống đă hết, bây giờ bảo bà sống
lại th́ làm sao được!
Đến đó
th́ nhà vua sực tỉnh ngộ, và biết rơ rằng,
đă chết th́ không thể nào sống lại
được. Thấy rơ được sự chuyển
biến trong tâm trí nhà vua, tôn giả khai thị thêm:
- Thưa
đại vương! Đại vương đang là vua
của một nước, và như thế, đại
vương là của chung toàn thể nhân dân trong
nước chứ không phải chỉ là của riêng hoàng
hậu. Xin đại vương hăy đem cái t́nh yêu dành
cho hoàng hậu mà trải rộng nó ra thành t́nh yêu bao la ban
phát đến toàn thể nhân dân. Nếu được như
vậy th́ chắc chắn là vương quốc của
đại vương sẽ phú cường và nhân dân
sẽ hạnh phúc, an lạc. Nhân dân đă được
an cư lạc nghiệp th́ họ sẽ kính trọng
đại vương chính thực là vua của họ.
Họ sẽ trung thành với đại vương và ra
sức xây dựng đất nước.
Nhà vua nghe mấy
lời khích lệ của tôn giả th́ tâm trí bừng sáng,
bỏ ngay sự đau buồn, cung kính đảnh lễ
tôn giả, trở về hoàng cung làm lễ an táng hoàng
hậu. Xong rồi, nhà vua đích thân chỉnh đốn
mọi viẹc triều chính, thương dân như
trước đây đă thương hoàng hậu, khiến
cho nhân dân ai cũng thấm nhuần ơn vua, người
người hân hoan trong đ̣i sống thanh b́nh, hạnh
phúc, an lạc, và dần dần mọi người
đều biết rằng, sở dĩ quốc
vương của họ trở thành hiền minh như
vậy là đă nhờ công đức giáo hóa của tôn
giả Ca Chiên Diên. Điều đó đă làm cho họ càng
vững tin vào Phật pháp.