Giới thiệu và lược dịch
từ “Jarvis Becomes a Buddhist” của Jarvis Master và Melody
Ermachild
http://www.trantrungdao.com/?p=247
Giới thiệu: Jarvis Jay Masters, người da đen, sinh
năm 1962 tại Long Beach, California, trong gia đ́nh 7 anh chi
em, con của bà Cynthia. Bà Cynthia bị bịnh nghiện ma
túy nên cả bảy người con của bà bị phân chia
để sống trong các nhà tạm dưỡng thuộc
chương tŕnh an sinh xă hội của
chính phủ. Cả cha của Jarvis cũng
bị bịnh ghiện và bỏ nhà đi khi Jarvis mới
vừa lên 5 tuổi. Từ đó, Jarvis, ngoài thời
gian ngắn sống với người cô, đă phải
sống từ nhà tạm dưỡng này sang nhà tạm
dưỡng khác. Hoàn cảnh đầy bất hạnh
của gia đ́nh và những cuốn hút tiêu cực ngoài xă
hội đă đẩy Jarvis, dù chỉ mới 12 tuổi,
đă nhiều lần vào tù ra khám. Khi đến tuổi 17,
Jarvis là một thanh niên nóng tính, hung dữ. Dù chưa chính tay giết chết ai nhưng Jarvis đă
từng dùng súng để hăm dọa và đánh
cướp các nhà hàng và cửa tiệm. Năm 19 tuổi,
1981, Jarvis lại vào tù San Quentin, California, sau khi bị
kết án trộm cướp có vơ trang.
Trong nhà tù anh lại tham gia băng đảng.
Năm 1985, Trung sĩ Hal
Dean Burchfield bị đâm chết trên tầng hai của nhà
tù San Quentin. Ba tù nhân
bị bắt và bị xử về tội giết
người. Andre Johnson bị xử về tội
đâm chết, Lawrence Woodard bị xử về tội ra
lịnh giết và Javis Masters bị tố cáo là đă mài
nhọn thanh sắt được dùng để đâm
Trung Sĩ Hal Dean Burchfield. Trong thời gian án
mang xảy ra, Jarvis đang bị giam trên tầng thứ tư
của nhà giam. Cả ba tù nhân đều có thể bị
kết án tử h́nh. Kết quả
vụ án, Lawrence Woodard và Andre Johnson bị kết án chung thân
suốt đời không được giảm án nhưng
Jarvis, dù không có mặt, lại bị kết án tử h́nh
chỉ v́ quá khứ đầy những tội trạng
của anh từ những ngày c̣n bé cho đến năm 19
tuổi.
Jarvis Master bị chuyển
sang khu những tù nhân chờ thọ án tử h́nh từ
1990. Từ đó, các luật sư của anh
đă tiến hành thủ tục kháng án. Tháng 2 năm
2007, Tối cao Pháp Viện California nhận xét đơn
thỉnh nguyện của nhóm luật sư biện hộ
cho Jarvis. Ngày 11 tháng Tư 2008 mới đây, Tối Cao Pháp
Viện California đă ra lịnh tiến hành thủ tục
điều trần về bằng chứng của vụ
án Trung Sĩ Burchfield. Những người ủng hộ
Jarvis tin rằng anh ta sau 17 năm trong khu tử tội
(Death Row) cuối cùng sẽ được trắng án hay ít
nhất giảm án, tuy nhiên quyết định vẫn
thuộc về tối cao pháp viện, và cho đến nay
các buổi điều trần vẫn chưa đem
lại kết quả chính thức nào.
Trong tù, Jarvis t́m hiểu
về tôn giáo và cảm thấy đạo Phật đă
đem lại cho anh sự an lạc mà từ lúc sinh ra anh
chưa được hưởng. Năm 1989 (có tài liệu cho rằng năm
1991), Jarvis phát nguyện làm môt Phật tử theo
truyền thống Tây Tạng từ Đại Sư Chagdud
Tulku ngay tại nhà tù. Đại sư Chagdud Tulku là bậc
đại sư Tây Tạng nỗi tiếng tại Tây
Phương, được công nhận là tái sanh lần
thứ 14 của Đại Sư Chagdud. Đại sư
Chagdud Tulku hoằng pháp khắp các nước Tây
phương, từ châu Âu sang châu Mỹ cho đến khi
ngài viên tịch năm 2002.
Đồng thời với
việc trở thành Phật Tử, Jarvis Master cũng trở thành một nhà văn. Trong lúc
xă hội dạy anh “Trộm cướp có vơ trang”, “Tham gia
băng đảng”, tinh thần Phật giáo đă giúp
sống lại ḷng bao dung, thương xót, t́nh yêu trong con người
vốn thiện của anh. Câu chuyện “Joe Bob lắng nghe”
( Joe Bob Listens) được đăng
tải vào số mùa Thu 1995 của tạp chí Turning Wheel. Trong tác phẩm “T́m Tự Do” (Finding Freedoom) Jarvis
kể ai những khoảng đời đất bất
hạnh và khốn khó trong thuở thiếu thời
đầy vết sẹo của ḿnh. Jarvis ngày nay không
c̣n là một thanh niên giận giữ như thuở anh
mới bước vào nhà tù San Quentin 27 năm trước
nhưng là tác giả được nhiều người
yêu mến, kính trọng, và như một Phật tử, anh
dâng hiến khả năng của ḿnh để xiển
dương tinh thần bất bạo động trong nhà
tù.
Câu chuyện sau đây
về lễ Thọ Giới (Empowerment ceremony) hay c̣n
được gọi là lễ Gia Tŕ của Jarvis theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng
được kể lại trong nhiều phần.
Phần đầu do Melody Ermachild, một Phật tử,
thành viên trong đội pháp lư của Jarvis, cũng là
người đă sắp xếp cho chuyến viếng
thăm của Đại Sư Chagdud Tulku. Phần
sau là lời kể của chính Jarvis, phần thứ ba là
đoạn trích những lời giảng của
đại sư trong buổi lễ và cuối cùng là bài
viết của Jarvis để tưởng nhớ sư
phụ ḿnh, Đại Sư Chagdud.
Melody Ermachild giới thiêu lễ Thọ
Giới cho Jarvin
Khi tôi nhận
được tin Đại Sư Chagdud Tulku có thể
đến nhà tù San Quentin để làm lễ Thọ
Giới cho Jarvis Masters, một trong những khách hàng tù
của tôi, tôi vội vả đến báo cho anh ta biết
có thể sẽ là ngày mai để chuẩn bị.
Phản ứng đầu
tiên của Jarvis là lo sợ.
Anh ta muốn tôi gọi để hủy
bỏ kế họach. Anh nghĩ ḿnh
không xứng đáng. Tôi nói với Jarvis
nếu quả thật anh không xứng đáng để
thọ giới, không xứng đáng là con người th́ có
ngài Lạt Ma Tây Tạng nào mà muốn đến gặp
anh. Nên b́nh thản và để cơ
hội tốt đẹp đến với ḿnh. Điều đó đem lại nhiều lợi
lạc cho anh. Việc nghĩ ḿnh không
xứng đáng có thể là một điều tốt v́
buổi lễ liên quan đến việc sám hối đă
làm những điều không lành trước đây. Lo
sợ là điều tốt, ai cũng vậy thôi. Lo sợ
cho thấy anh xem buổi lễ là một nghi thức quan
trọng. Buổi lễ cũng không xảy ra theo sự sắp đặt riêng của anh. Anh đang ở trong tù. Đại
Sư Chagdud Tulku rất già yếu và cũng hiếm khi có
mặt ở Mỹ. Ngài t́nh cờ có mặt ở vùng
gần đây và sẵn ḷng đến gặp anh, v́ thế
ngày mai sẽ là ngày thọ giới của anh. Nhiều việc bất trắc biết đâu
lại có thể xảy ra nhưng nếu mọi việc
đều êm xuôi th́ quả là điều kỳ diệu.
Tôi khuyên anh như thế.
Ông phụ tá quản
đốc nhà tù đă từ chối lời yêu cầu
buổi lễ được diễn ra bên trong xà-lim
của Jarvis, nơi ngài Lạt Ma có thể đặt tay lên người Jarvis. Không giống như
lễ rữa tội của đạo Thiên Chúa hay
đạo Do Thái, lễ thọ giới của đạo
Phật không được Sở Cải Huấn công
nhận. Buổi lễ v́ thế phải
diễn ra hai bên lớp kiếng cửa sổ. Đại Sư cũng không thể tặng cho
Jarvis ḿnh những thánh vật mà ngài thường dành
tặng cho các đệ tử bên ngoài nhà tù. Trên
đường đi ra, một cách thân t́nh, tôi yêu cầu
ông già bảo vệ anh ninh pḥng thăm tù cung cấp một
đường điện thoại xa để chúng tôi có
thể trao đổi một cách riêng tư.
Tôi nói với ông nhân viên an ninh già là
sẽ có một vị Lạt Ma Tây Tang thật sự
đến nhà tù. Ông ta nói chơi với tôi rằng ông có xem
phim “Con Trời” (The Golden Child) do Eddie Murphy đóng vai chính và
c̣n chọc ghẹo “Eddie Murphy cũng đến phải
không?”
Sáng hôm sau, khi tôi đến
nhà tù th́ Đại Sư Chagdud Tulku và thông dịch viên
Tsering Everest đă ngồi trên ghế dài giữa một
đám đông ngoài pḥng chờ.
Hành lang đông kín người thăm tù,
khói thuốc, tiếng người nói lớn, tiếng
trẻ em khóc lóc. Đại Sư ngồi im, những ngón tay nậu đậm đầy vết nhăn
đang lặng lẽ lần tràng hạt, đôi mắt
ngài như đang chiêm nghiệm những ǵ đang xảy
ra chung quanh. Ngài ngồi im lặng trong bộ
áo tràng với những nút màu xám phủ dài trên sàn pḥng
đợi. Đến trưa, khi gần đến
giờ mở cửa pḥng thăm, đám đông đă
chờ từ sáng sớm, càng lúc càng căng thẳng
hơn. Chính Đại Sư cũng đă
chờ hơn hai giờ. Ngay phía
trước ngài, hai người đàn bà, bằng thứ
ngôn ngữ đường phố, bắt đầu căi
nhau với một ông già chỉ v́ chuyện giành chỗ,
trong khi Đại Sư im lặng nh́n họ nói.
Khi đám đông có vẻ lắng
nghe, Đại Sư kể cho họ nghe một câu
chuyện về nhà tù người Trung Quốc đang dùng
để giam giữ dân Tây Tạng. Ngài kể rằng
người Trung Quốc bắt dân Tây Tạng đào
một hố thật sâu. Cái hố sâu đó
chính là nhà tù. Những người tù Tây Tạng
sống, ăn ở và phơi bày thân
thể họ dưới cả nắng mưa như
thế cho đến chết. Ngay cả sau
khi chết đi, họ cũng bị chôn trong ḷng hố
sâu đó. Ngài kể rằng ở Tây
Tạng có sáu mươi ngàn tù nhân bị giam giữ trong
t́nh cảnh đó.
Cuối cùng chúng tôi bắt
đầu đi vào pḥng thăm viếng. Đại Sư tháo giày và áo
tràng để được khám xét. Tôi
phải đi vào sớm lo thủ tục đưa Jarvis ra
khỏi xà-lim để chuẩn khi phần nghi lễ.
Khi Jarvis xuất hiện trong ánh đèn mờ phía bên kia tấm kiếng dơ bẩn và trầy
trụa, pḥng thăm đă đầy kín thân nhân, vợ con
đi thăm tù. Tiếng nói lớn vang dội trong hành lang, khói thuốc mịt mù khắp chúng tôi. Quang cảnh của buổi lễ thọ giới
cho Jarvis bắt đầu như thế.
Bên phía chúng tôi, người
thông dịch cầm điện thoại. Phía bên kia Jarvis
đứng sát vào mặt kiếng, áp tai vào điện
thoại, ánh sáng mờ không soi đủ khuôn mặt anh
nhưng chúng tôi cũng thấy rơ anh đang mỉm
cười và đôi mắt chứa một chút lo âu.
Đại Sư hỏi:
“Tinh thần con có minh mẫn không?”
Jarvis kể lại buổi lễ thọ
giới
Khi tôi có cơ hội
để nhận lễ thọ giới từ một ngài
Lạt Ma Phật Giáo Tây Tạng, cảm giác đầu tiên
tôi nhớ, là không xứng đáng. Và rồi đến lo sợ khi nghĩ
đến việc một buổi lễ như thế
lại được thực hiện tại nhà tù
tiểu bang bạo động như San Quentin này.
Tôi chỉ là người
mới bắt đầu tập sống trong nếp
sống Phật giáo.
Thông qua những người bên ngoài, tôi đă
bắt đầu thực hành thiền Phật Giáo. Với tôi, tôi giữ kín việc thực hành
thiền. Tôi không nói điều đó với ai,
bạn tù của tôi hay cả những ông nhân viên bảo
vệ an ninh của trại tù cũng
thế.
Sau tám năm tù, tôi vẫn
cảm nhận một nỗi lo sợ thật sự khi
gọi chính ḿnh là một Phật tử và việc khi các
bạn tù thấy tôi đang tỉnh tọa, cầu
nguyện hay thiền định. Đặc biệt, tôi cũng
rất sợ bị người khác thấy khi nhận
lễ thọ giới. Trong lúc tâm hồn
tôi vui mừng chào đón cơ hội, những tiếng nói
khác trong tôi lại đặt ra câu hỏi. Đây có thể là chặng đường khác tôi
sẽ phải đi qua? Có thể trong
tương lai tôi lại phản bội chính tôi và ư
nghĩa thiêng liêng của lễ thọ giới? Có phải tôi đă là một Phật tử? Những điều tôi phát nguyện, thực
sư, có buộc tôi phải hy sinh cuộc đời ḿnh?
Làm thế nào tôi lại có thể chống
lại tất cả những bạo động của
nhà tù?
Trong tù, không ai tin rằng
việc căi đạo là thật. Hầu hết tù nhân đều nghĩ
rằng ai đón nhận một niềm tin tôn giáo bất
ngờ chẳng khác ǵ tham gia một tṛ chơi hay lừa
dối để được ra khỏi tù sớm.
Tôi dành gần một
năm cố gắng vượt qua những hoài nghi đó,
từng điều một, thông qua việc thực tập
và thông qua những bài giảng của ngài Chagdud Tulku, vị
Lạt Ma tôi sẽ nhận lễ. Dù sao,
tất cả lần nữa xuất hiện trong buổi
lễ. Đang ngồi dưới
nền xà lim cố gắng tỉnh tâm, tôi lại sợ.
Nhà tù dội lại tiếng nói của hàng trăm tù nhân,
cảm giác khó chịu và xung đột hiện ra cùng
một lúc.
Tôi ngồi bất
động, không ngớt niệm hồng danh đức
Quan Thế Âm Bồ Tát.
“Quan Thế Âm Bồ Tát. Xin hăy nh́n thấy con, xin giúp cho con
vượt qua những chướng ngại và cho
ước vọng của con sớm thành đạt” Tôi t́m
trong mỗi lần cầu nguyện một sức mạnh
thiêng liêng giúp tôi xua đuổi những lo âu, chuẩn
bị tinh thần chấp nhận một cách công khai
lễ Thọ Giới của ḿnh và để giúp tôi chào
đón ngày đầu tiên tôi được sống trong
tinh thần Phật giáo. Nhưng mặc dù
lời cầu nguyện này, tôi chỉ muốn giữ
việc tu tập của ḿnh trong ṿng bí mật, để
duy tŕ sự trong sạch trong tâm khi tôi thực tập thiền.
Tôi chỉ muốn có thời gian thật
tỉnh lặng trong đời sống tù đày của
tôi.
Tôi chỉ gặp
đại sư Chagdud Tulku một lần trước
đó. Tôi vô cùng xúc
động khi ngài bất ngờ đến nhà tù San Quentin
để thăm tôi. Nguyên tắc nhà tù
chỉ cho phép chúng tôi trao đổi bằng điện
thoại trong ngăn thăm viếng nhỏ, xuyên qua
cửa sổ bằng kính. Tôi cảm
nhận sự ấm áp từ tấm ḷng của
đại sư dù chỉ nh́n ngài thôi và tin tưởng
những lời giảng của ngài. Tôi hy vọng
rằng, qua những lời dặn ḍ cách tu hành trong nhà tù,
một ngày tôi sẽ có thể công khai nhận lễ
thọ giới.
Bây giờ tôi cảm
thấy may mắn được ngồi trên sàn xà-lim
chờ đợi cơ hội. Tôi nhớ một
người nào đó đă nói với tôi từ lâu rồi:
“Tất cả những ǵ ngươi cần là một tâm
hồn thuần khiết, đó là điều cần
thiết nhất. Hăy im lặng mà lắng
nghe.” Đó là những ǵ tôi đang làm.
Buổi trưa vào ngày
cử hành lễ, tôi được gọi tên. Một nhân viên an ninh c̣ng tay
và đưa tôi đến khu thăm tù. Trên
đường đi, tôi tiếp tục niệm hồng
danh đức Quan Thế Âm Bồ Tát cho đến khi
mắt tôi bắt gặp đôi mắt của đại
sư lần thứ hai trong đời tôi.
Tôi ngồi bên này cửa
kính đối diện với đại sư đang
ngồi phía bên kia. Bên cạnh ngài là
Tsering, một học tṛ gần gũi
với ngài, sẽ làm thông dịch cho chúng tôi. Melody,
bạn và cũng là một Phật tử, cũng có mặt
trong buổi lễ để mừng đón biến cố
này với tôi. Chúng tôi vui mừng chào
hỏi nhau trong lúc các khách thăm tù nh́n chúng tôi.
Tôi cầm điện
thoại lên. Phía bên kia
chị Tsering cũng đă cầm điện trên tay.
Với một nụ cười dễ thương trong
sáng trên mặt, chị hỏi thăm sức khoẻ tôi.
Tôi đáp lại bằng nụ cười và cũng
trả lời chung cho mọi
người biết là tôi mạnh khỏe. Chúng
tôi đều vui cười. Sau đó, chị Tsering
quay sang Đại Sư để nhận lời của
ngài.
Chị Tsering hỏi tôi, “Đại sư
hỏi tinh thần anh có minh mẫn không”
“Thưa vâng”, tôi đáp.
Melody Emachild: Đoạn trích từ lễ
Thọ Giới
Đại Sư: Chuyện
chúng ta không thể tiếp xúc trực tiếp không phải
là điều quan trọng. Sức mạnh của buổi
lễ là từ những lời con đang nghe. Thầy mong
con nh́n sự vật từ một góc nh́n rộng rải. Đừng đổ tội cho ai khác những khó
khăn của chính ḿnh. Con sẽ thấy một tù
nhân giận dữ là một điều đáng buồn v́
anh ta đang tạo nên ác nghiệp cho ḿnh. Với con
tất cả những điều đó giờ đă thành
quá khứ. Từ lúc này về sau.
Trước tất cả mọi người, con hăy
hứa: Tôi sẽ không giận giữ. Tôi
sẽ không làm hại bất cứ ai bằng hành
động của tôi. Đó là mối
quan tâm hàng đầu của tôi mỗi ngày, ngay cả
bằng mạng sống của ḿnh. Nếu con giữ
lời phát nguyện này, con sẽ không c̣n tạo ra bất
cứ sự đau khổ nào cho chính con trong tương
lai. Bằng lời do chính con, lập lai ba lần, hăy phát
nguyện trước các đấng thiêng liêng và mọi
người. Điều này cung cấp cho con sự b́nh an.
Giống như việc nếu không uống thuốc độc
th́ không bị đau.”
Jarvis: Từ nay trở
đi, con sẽ không làm ai đau đớn, không hảm
hại người khác dù phải mất đi mạng
sống của chính ḿnh.
Đại Sư: Lời
phát nguyện thứ hai: Từ nay về sau, con sẽ
cố gắng để làm ngưng sự khổ đau
của nhân loại và của chúng sanh muôn loài. Chúng
ta mang thân xác này từ lúc sinh ra. Đây là
phần của nghiệp, nhưng đó không phải là
tất cả sự thật. Việc
thọ giới làm thay đổi ư thức của chúng ta
về thân thể ḿnh. Bây giờ c̣n
sống đó, bây giờ đang chết đó và sẽ
biến mất đi. Có khoảng cách
giữa các phân tử. Đó cũng
chỉ là vật thể. Một
khoảng trống vô tận, một tánh không vô tận.
Có sự nối tiếp giữa thực và
mộng. Thân xác, hủy hoại và tái
sanh. Bản thể th́ đều
giống nhau. Tánh không là nền tảng
của tất cả. Trong tánh không là trí
tuệ, trí tuệ không sanh và cũng không diệt mà là
sự thật măi măi. Giống như
bầu trời….Chúng ta đặt cho chữ là chữ
tốt và chữ xấu, nhưng tất cả thật ra
chỉ là tiếng gió thổi qua giọng nói của ḿnh.
Âm thanh của bầu trời là âm thanh của
tánh không. Âm thanh là một biểu
hiện của tánh không và thân xác của con cũng vậy.
Nếu điều đó
khó hiểu, con hăy nnghĩ về một giấc mộng. Cuộc đời chỉ là
giấc mộng. Tất cả tùy
thuộc về việc tôi nghĩ về nó như thế
nào. Lấy nhà tù làm ví dụ. Con có
thể cho rằng nhà tù hẳn là một nơi xấu
nhưng một người sống trong căn nhà tuyệt
đẹp cũng vẫn tự sát th́ sao. Mồi
người phải ngồi một nơi nào đó, dù
tuyệt vời hay khốn khó. Địa
ngục chẳng ở đâu xa. Địa ngục có
ngay trong cơn ác mộng của chính con người. Địa ngục là kết quả của ḷng thù
hận trong chính ḿnh. Có hai cách để
thay đổi tâm thức. Một là suy nghĩ, suy
nghĩ và suy nghĩ , một khác là buông
xả mọi suy nghĩ ràng buộc và lắng ḷng b́nh
thản. Bản thể của tất cả
sự sống trên trái đất đều giống nhau.
Chúng đều có một mùi vị như nhau.
Khái niệm của tâm là những ǵ cho chúng ta
ư nghĩ rằng có những sinh vật xấu và những
sinh vật tốt. Giống như phim ảnh, đó chỉ
là ánh sáng chạy trên giấy bóng kính. Hăy
nhận thức tất cả điều đó như
cuốn phim trong ư thức con. Phải
hiểu rằng bản chất của thân xác con là bất
diệt và bản chất của con là thật, hoàn hảo
và thuần khiết. Đặc tính
của tâm là khai mở và hiện hữu. Ư tưởng phát xuất từ trí óc của con.
Giống như cánh cửa kiếng này,
nếu con chỉ nh́n vào tấm kiếng th́ con sẽ không
thấy ǵ cả. Nếu con nh́n vào ư tưởng con
sẽ không thấy được sự toàn hảo.
Jarvis: Bạch thầy, trong
tù, gíup đở người khác nhiều khi có thể làm
ḿnh mất mạng. Con có được xem là vẫn
giữ được những giới ḿnh phát nguyện
nếu hành xử theo ư thức mà mọi
người thường nghĩ không? Có thể con dùng
sự khôn khéo để tránh tạo ra cái chết của
ḿnh?
Đại sư: Nếu
con giúp một người mà phải đổi băng thân
xác của ḿnh th́ cũng chỉ cứu một
người. Tuy nhiên nếu con có thể trau dồi
nhận thức để giúp đở người khác
một cách tốt đẹp nhất, con có thể giúp
nhiều người, 100, 1000 hay vố số người
khác. Có ba cách: không hảm hại, giúp đở và thuần
khiết. Thực sự, rồi con sẽ
hiểu bản được bản chất thuần
khiết của chính ḿnh. Trước khi hiểu
được điều đó con sẽ cảm thấy
thiên đàng và địa ngục. Nó giống như
việc bao quanh ḿnh với hàng trăm tấm gương
soi, nếu chúng ta dơ và xấu, chúng ta sẽ thấy
người khác dơ và xấu, nếu chúng ta sạch và
tốt, chúng ta cũng sẽ thấy người khác
như vậy. Tất cả chỉ là một
chức năng của tâm. Cái cách để thực
hành là để thấy mọi người thuần
khiết dù họ hảm hại hay giúp đở con, ngay
cả loài động vật hay một người
bảo vệ an ninh nhà tù, hăy nh́n sự
thuần khiết nơi họ. Hăy nghe âm thanh
như toàn hảo, như Đức Quan Thế Âm đang
dạy. Bất cứ ai đă sanh th́
sẽ diệt….Mỗi lúc là một cơ hội để
được b́nh an, và giúp đở. Đức Quan
Thế Âm nói: con là ngài, tuyệt đối toàn hảo…..
Cuối mỗi ngày, hăy sám
hối những suy nghĩ và hành động xấu của
ḿnh và tự hứa sẽ sửa sai. Khi làm điều tốt,
tiếp tục làm. Mỗi điều
sai, sám hối và buông xả. Giống
như ḿnh đang bơi, tiếp tục mà bơi.
Jarvis: Bạch thầy, con
cảm thấy thuần khiết khi con gần gũi thầy, nhưng rồi sẽ rất
dễ dàng quên đi.
Đại sư: Hăy
cầu nguyện đức Quan Thế Âm cứu
độ. Ngài luôn ở với con, ngay trên đầu con,
giúp xóa đi những vết dơ, ban cho con sự trong
sạch và niềm vui trong cuộc sống.
[Jarvis hỏi về trường hợp
một nhà sư tự thiêu để chống chiến
tranh vùng vịnh mà anh xem trên truyền h́nh]
Điều đó có ư nghĩa ǵ?
Đại sư: Nhà sư thể hiện
t́nh thương để chấm dứt chiến tranh. Với nhà sư việc đó là tốt.
Với con, có thể là không. Nhà sư đó xem
thân xác không khác ǵ bộ áo quần. Chúng
ta, không phải ai cũng giống như vậy.
Hôm nay, con đă phát nguyện, với chúng tôi,
con trở nên một người trong gia đ́nh. Chúng tôi sẽ giúp con. Con có trong lời
cầu nguyện mỗi ngày của chúng tôi. Chúng
tôi luôn nghĩ về con.
Javis: Bạch thầy, con
thật sự cảm nhận được điều
đó, con biết ơn thầy.
*************
Buổi thăm viếng kéo
dài gần 2 tiếng đồng hồ. Sau buổi lễ, thật khó
nghe từ phía đầu dây bên tôi. Quá nhiều
tiếng ồn chung quanh. Các
tù nhân khác cùng nói trên những điện thoại nối
nhau thành một chuỗi dài, thật khó cho tôi có thể nghe
tiếng của những người đang thăm
viếng ḿnh. Tự nhiên tôi thắc
mắc, “Ồ”, “Chẳng lễ cũng ồn ào như
thế này trong buổi lễ hay sao?” Tôi cảm
thấy như vừa lấy cái nút chặn âm ra khỏi tai ḿnh – dường như tôi cũng vừa
đặt chân trở vào cánh cửa của thực tế
tù đày lần nữa.
Cuối buổi thăm
viếng, tôi nói chuyện với Melody, người ngồi
sát cửa sổ trong suốt buổi lễ. Tôi
cám ơn chị đă có mặt và nhờ chị chuyển
lời cám ơn Đại Sư và Tsering về tất
cả phước đức họ đă mang đến
cho tôi. Tôi nói với chị, tôi đă cám
ơn nhưng không nói hết lời v́ nước mắt
của ḷng biết ơn đang dâng lên, và tôi không muốn
ai thấy ḿnh đang khóc. Melody hiểu
điều đó. Chị gát điện thoại, cùng
với Đại Sư và Tsering vẫy tay
chào, ra đi. Tôi vẫy tay chào họ.
Khi tôi chờ để
được nhân viên an ninh đưa
trở về xà-lim, một tù nhân gọi qua hỏi có
phải tôi đang thực hành Phật Giáo. Tôi
ngừng một chút. Khi tôi sắp trả lời th́
một nhân viên an ninh bước
đến đứng giữa chúng tôi để lắng
nghe. Chờ khi đôi mắt ông ta nh́n đi
nơi khác, tôi đáp, “Vâng tôi là một Phật tử”.
“Phải chăng, tất cả chúng ta
đều giống nhau, cách nầy hay cách khác? Trong
cuộc đời này” , rồi tôi nh́n
ông nhân viên an ninh và nói, “Cuộc sống, tôi nghĩ, có
lẽ nên có một chút tinh thần Phật giáo như
thế trong tất cả chúng ta”.
Ông nhân viên an
ninh nhin tôi với nụ cười ngạc nhiên, rồi
bước đi. Tôi cũng thấy thật
lạ. Tôi nh́n qua cánh cửa sổ
nơi chiếc có ghế của Đại Sư vừa
ngồi, và chợt cảm thấy một niềm tin
mạnh mẻ rằng Đại Sư như vẫn c̣n
ngồi đó. Tôi hướng
đến chiếc ghế trống và cúi đầu vái ba
vái.
Jarvis Jay Masters: Tưởng tiếc thầy
Không lâu sau khi tôi
được tin đại sư Chagdud viên tịch, có
lẽ một tuần, tôi được đưa ra pḥng
thăm viếng. Tôi ngồi ở đó, nh́n xuyên qua cửa sổ,
cố gắng đóan chừng ai sẽ đến thăm
tôi. Ai lại phải dành thời gian
thông qua bao thủ tục nhà tù phức tạp để vào
thăm tôi? Tôi nghĩ về những
người từ lâu tôi chưa từng gặp lại.
Và trong mắt rưng rưng, h́nh ảnh
của thầy tôi, ngài Chagdud, đến với tôi. Tôi thầm ước đó chính là thầy đang
đến thăm tôi. Rồi tôi chợt
ư thức ngài sẽ không c̣n xuất hiện từ góc pḥng
thăm và bước tới gần cánh cửa kiếng
nầy lần nào nữa, như thầy đă đến
bao lần trước đây.
Tôi kính trọng đại
sư, như thầy và cha của tôi. Tôi nghĩ đến bao nhiêu khó khăn
thầy phải trải qua để vào được nhà
tù thăm tôi, những giờ dành cho tôi thầy phải gát
một bên bao nhiêu người khác, những giờ thầy
lẽ ra đă dành để thuyết pháp trong các
đại giảng đường với hàng ngàn
người mơ ước được quy y với
thầy, với những bài pháp của thầy. Giữa
nỗi buồn của tôi, tôi cũng biết ḿnh thật có
phước khi được chính thầy vào tận nhà tù
San Quentin để ngồi xuống trước mặt
tôi, phía bên kia cửa kiếng này.
Những năm sau, dù bịnh nặng phải ngồi trên xe lăng, thầy vẫn cố gắng vào
thăm tôi. Thầy là người đă chỉ cho tôi con
đường tinh thần tôi đang đi hôm nay.
Nh́n ra bên kia
cửa kiếng, tôi chờ người thăm tôi sẽ
đến. Ba mươi phút trôi qua, tôi
thắc mắc không biết người đến thăm
tôi đă hủy bỏ chuyến viếng thăm, nhưng
tôi ngồi nán lại, hy vọng có một người
sẽ đến. Tất cả tù nhân khác đều
đă có mặt, tôi có thể nghe được tiếng
người nói chuyện với nhau chung
quanh.
Ban tôi, Russell, và tôi, là hai
người duy nhất từ Trung Tâm Điều Chỉnh
(The Adjustment Center) được đưa đến pḥng
thăm viếng hôm đó. Russell, cũng là tù
nhân trong khu tử tội, và tôi biết anh ta khoảng
chục năm nay. Russell nhắc tôi
rằng anh ta hy vọng em gái đến thăm và muốn
tôi gặp chào cô ta. Nhưng khi cô em Russell
đi ngang tôi không kịp để ư. Hai anh em Russell
ngồi nói chuyện bên ngăn kế tôi. Tôi nghe tiếng nói nặng nề của Russell.
Anh ta dặn em gái không được đưa
mẹ đến thăm. Chắc cô em
đang bực bội v́ giọng của Russell nặng
nề, trầm trọng và gần như giận dữ.
Cơn bộc phá của Russell thật sự làm tôi chú ư.
Một trong những
điều nuối tiếc lớn nhất mà tôi đă
phải sống với nó là tôi không hề gặp mặt
mẹ ḿnh trong bảy năm đầu bị giam ở
đây, trong khi bà c̣n sống.
Và nữa, tôi đang nghĩ đến
thầy tôi và thầm ước ǵ tôi sẽ gặp mặt
ngài lần nữa.
V́ vậy, tôi thật chưng hững khi nghe Russell dặn ḍ em gái
anh ta như thế. Làm thế nào một
người như Russell, lớn hơn tôi nhiều, có
lẽ đă gần bốn mươi tuổi, lại không
muốn mẹ vào thăm? Càng nghe anh ta
dặn em dù với điều kiện ǵ đi nữa, anh
ta cũng không muốn mẹ vào thăm, ḷng tôi sống
dậy ước muốn ngày xưa, là được
thấy lại mặt mẹ ḿnh.
Russell càng nói càng lên cao
giọng: “Đừng bao giờ đưa mẹ vào đây
– Nếu em không nghe lời, th́ thôi, anh sẽ chấm
dứt, không bao giờ nói chuyện với em nữa. Anh thà bị xử tử hơn là để
mẹ thấy anh như thế này.” Tôi nghĩ
đến những người thân yêu của tôi đă qua
đời trong lúc tôi trong cảnh lao lung, không có dịp cho
tôi gặp, bởi v́ họ hay v́ tôi dù sao đă nghĩ
rằng, có thể có một lúc nào đó thích hợp hơn
đoàn tụ với nhau mà không phải cách ngăn bởi
cánh cửa kính như thế này.
Không ai thăm tôi ngày hôm
đó, suy nghĩ của tôi hoàn toàn cuốn hút vào câu
chuyện của anh em Russell.
Và, càng nghe Russell cương quyết, tôi càng
thấm sâu vào kư ức và tiếc thương của chính
ḿnh.
Tôi biết rằng với
tất cả nước mắt tôi đă nhỏ xuống
và nỗi đau sâu thẳm mà tôi đă chịu đựng
v́ mất đi cơ hội để được nh́n
vào đôi mắt mẹ, tôi nghĩ ḿnh cần phải khuyên
can Russel sớm. Dù chúng tôi sống khác
tầng, và cách sân, tôi đóan chừng có thể trao
đổi với anh ta xuyên qua lớp hàng rào.
Thật không dễ dàng
để chờ một cơ hội nói chuyện với
Russell. Gần cả tuần
lễ tôi mới có dịp thấy Russell tập thể
dục trong sân sát với sân tôi. Trời mưa suốt
đêm qua, buổi sáng hôm đó trời tuyệt
đẹp, sáng mùa đông quang đăng. Cả
hai chúng tôi đi dạo dọc hàng rào. Suốt mấy
giờ tôi cố t́m một chữ thích hợp để
bắt đầu câu chuyện giữa Russell và em gái
cậu ấy đă lọt vào tai tôi.
Cuối cùng, tôi không cố t́m kiếm lư do nữa, và
gọi Russell để nói thẳng với anh ta rằng tôi
có nghe anh ta dặn em gái đừng bao giờ đưa
mẹ vào thăm.
Điều đầu tiên
Russell nói với tôi là “Vâng, Jarvis, ḿnh cũng biết cậu
cũng chẳng muốn mang mẹ cậu đến
đây làm ǵ. Sẽ không
bao giờ có chuyện ḿnh đưa mẹ ḿnh vào nơi
tệ hại này và phải chứng kiến ḿnh như
thế này.
“Russell, mẹ ḿnh qua
đời rồi !” Tôi
trả lời.
Một
thoáng nh́n buồn trên khuôn mặt Russell, “Jarvis, ḿnh thật
xin lỗi khi nghe tin đó.”
“Vâng, Russ”, Tôi nói tiếp,
“Mẹ ḿnh chết mấy năm trước, có lẽ
cũng cùng khoảng thời gian ḿnh gặp cậu lần
đầu. Từ đó đến bây
giờ, ḿnh măi hối tiếc mỗi khi nghĩ đến
nhiều lần mẹ ḿnh đă có thể đến
thăm ḿnh. Cậu biết không? Mỗi lần ngước nh́n tấm ảm
mẹ trên tường xà-lim ḿnh ao ước
được thấy mặt mẹ ḿnh trong pḥng thăm
tù.”
“Thật vậy sao, Jarivs?” Russel đáp “Cậu không nên
thấy mẹ cậu bước vào chỗ tệ hại
như thế này chứ? Để
gặp cậu trong khu tử tội sao? Phải chen lấn trong hàng, nhiều khi bị đám
an ninh lên giọng xúc phạm? Và cũng
chỉ gặp cậu nhiều lắm là một giờ
đồng hồ? Thôi, cậu ơi, mẹ ḿnh
đối với ḿnh quá quan trọng để chỉ
nghĩ đến việc bà phải vào nơi tệ
hại mà ḿnh đă sa chân vào. Mà vào đây để làm ǵ nhỉ?
Tôi ngắt lời, “Cậu
nói để làm ǵ là nghĩa làm sao? Để làm ǵ bởi v́
mẹ cậu muốn thăm cậu. Này Russell,
bởi v́ mẹ cậu sanh ra cậu – Không có lư do nào khác
hơn.
“Lắng nghe ḿnh nói đây
Russell. Không phải v́ nơi này,
về nơi cậu đang sống, bộ quần áo
cậu buộc phải mặc, cũng không phải v́
sự kiện tên cậu đang nằm trong danh sách
những kẽ sẽ bị xử tử – Những
điều đó không bao giờ xóa được h́nh
ảnh một đứa con trai trong tấm ḷng
người mẹ. Mẹ cậu cũng thế, mẹ
cậu cũng đang đối phó với bản án tử h́nh, mỗi lúc bà nghĩ đến
nơi cậu đang sống. Bà đang
chờ, đang hy vọng, đang cầu nguyện cậu
sẽ không bị xử tử. Bà
đang chiến đấu chống lại nỗi lo
sợ bị mất cậu đi.”
“Jarvis nầy, ḿnh hiểu
những điều cậu đang nói” Russell đáp,
“Những câu nói nghiêm túc, và ḿnh cũng cảm nhận
được điều cậu đang nói. Nhưng nè, khi sa chân vào
chỗ lao tù, ḿnh đă làm mẹ ḿnh đau đớn
nhiều rồi. Bây giờ mẹ ḿnh quá già,
với tuổi 80. Thật sẽ nát ḷng
mẹ nếu bà thấy ḿnh ra nông nỗi này. Cậu biết không. Ngay cả viết thư cho mẹ ḿnh đă thấy khó khăn
rồi. Cậu cũng biết đám quản
đốc nhà giam tạo khó khăn cho người đi
thăm đến mức nào. Thật
không đáng, Jarvis, thật không đáng đi thăm chút
nào.”
“Này Russell, nghe ḿnh nói. Không phải là binh vực mẹ cậu. Bà biết cậu ở đây rồi, mặc
quần áo tù nhân. Nhưng bà cũng
hiểu sự quan trong dường nào khoảng thời
gian của bà và cậu”.
“Cậu nói thế nghĩa
là sao?” Russell hỏi
lại, “về thời gian của bà ta? Ḿnh
đă dặn em ḿnh nói với mẹ tất cả cơ
hội tốt mà các luật sư cho ḿnh biết sẽ
thắng kháng kiện và bước ra khỏi nơi này.”
“Ồ, đúng vậy sao?” Tôi nói “Rồi những ǵ
sẽ xảy ra nếu một ngày mẹ cậu, chứ
không phải cậu, chết đi? Tuần
sau? Tháng sau? Rồi sau
đó th́ sao? Những điều nằm
trong tâm thức mà cậu hằng mơ ước có
dịp để nói với mẹ cậu rồi sẽ
đi về đâu? Thấy không Russ.
Không phải về cậu – cậu ra khỏi
đây một ngày nào đó – chờ và chờ cho
điều đó đến với cậu. Không nên để thời gian lăng phí đi, không
cần phải tính toán đến việc ngày mai chúng ta
sẽ ra sao. Bởi v́ không có lời
hứa hẹn nào cả. Ḿnh biết điều
đó bây giờ, nhưng trước đây ḿnh đă không
ư thức được như vậy, thật vậy, cho
đến một ngày khi vị tuyên úy nhà tù gơ cửa xà-lim,
nh́n sâu vào mắt ḿnh và nói, “Tôi xin báo tin buồn rằng
mẹ anh đă chết.” Tôi bắt
đầu khóc trước mặt Russell. “Và cậu hăy đoán thử xem, cuối cùng ḿnh
đă được yêu cầu để làm việc ǵ cậu
biết không? Hăy đoán thử xem
những ǵ sẽ thay vào chỗ những câu nói mà ḿnh
từng mơ sẽ kể cho mẹ ḿnh nghe?
“ “Ǵ vậy? Ḿnh không biết”
Russell nói.
“Cậu đoán thử sao”, Tôi nói, “Ráng
đoán thử sao.”
“Bạn ơi, Jarvis” Russell
nói với giọng buồn.
“ Ḿnh không biết , ḿnh không ngay cả
tưởng tượng nếu mẹ ḿnh chết
đừng nói chi là mấy chuyện khác.”
“Vâng, ḿnh được yêu
cầu viết vài điều để đọc trong
lễ cầu nguyện bà”, Tôi nói, “Và ḿnh sẽ kể
cậu nghe vài điều.
Trong mỗi chữ phát xuất từ đáy tim
ḿnh, trong mỗi câu, mỗi dấu chấm, có hàng tỷ
điều nhiều hơn trong tim mà ḿnh ước ǵ
đă có cơ hội được tỏ bày với
mẹ khi bà viếng thăm ḿnh. Và nếu ḿnh
biết lúc đó những ǵ ḿnh đang biết hôm nay, ḿnh
không ngần ngại nếu chỉ có một cơ hội
được ngồi với mẹ ḿnh dù phải
ngồi trên tảng băng trôi trên biển Bắc Cực
đi nữa.
Russell và tôi đứng yên,
dựa vào hàng rào. Trong một lúc không ai nói ǵ. Chúng
tôi không cần phải nói thêm ǵ nữa. Tôi
đă hiểu ra rằng, cho đến phút này, Russell
chưa hề nghĩ đến việc mẹ anh có
thể qua đời khi anh ta c̣n ở trong tù. Trong khu tử tội, nỗi lo sợ gần
nhất của một tù nhân là cái chết của riêng ḿnh.
Điều đó cuốn hút bạn nhiều
đến nỗi mọi kẽ khác có vẻ như là
bất tử. Dường như
những người thân của bạn bên ngoài
được bảo đảm sẽ sống lâu hơn bạn.
Không biết bao lần tôi đă tưởng
tượng chính ḿnh ra khỏi nhà tù và được
ngồi cạnh đại sư Chagdud tại một trong
những nơi ẩn dật của ngài.
Trong một chốc, Russell
chỉ nh́m chầm chập vào tôi dường như anh ta
đang đến một nơi chỉ một anh ta
đến được.
Rồi, Russell nói, “Jarvis,
ḿnh không biết ḿnh đang đi đâu đây. Tất cả những năm này, mẹ ḿnh năn nỉ để vào thăm, ḿnh dám nói
với bà là không. Cậu biết không, ḿnh
thương mẹ vô cùng”.
Russell rưng rưng
nước mắt.
“Và Jarvis ơi, ḿnh là đứa con bất
hiếu lắm cậu biết không?”
“Không đâu, Russ” Tôi đáp,
“Có rất nhiều người, không phải tất cả
đêu ở trong tù thôi đâu, những người bôn ba
trong cuộc sống hàng ngày, khi mẹ của họ ở
ngay khu phố kế bên, hay chỉ một cú điện
thoại, và họ cứ tiếp tục chạy theo
cuộc sống, không buồn gọi thăm mẹ, không
buồn tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ
để mang theo trong đời ,
thật lâu sau khi mẹ họ qua đời.”
“Đúng thế Jarvis
ạ”, cậu ta nói.
“Sau khi trở về xà-lim, ḿnh sẽ ngồi
xuống viết cho mẹ ḿnh một lá thư dài. Và có thể, chỉ có thể thôi, vào Giáng Sinh, bà
sẽ có thể đến thăm ḿnh.”
“Ồ”, Tôi chọc ghẹo
Russell, “Coi chừng cậu quá xấu để có thể
gọi là món quà trong mắt của mẹ, Russ. Nhưng chắc chắn,
mẹ cậu sẽ là món quà Giáng Sinh quư giá nhất mà
cậu nhận được trong hơn mười
năm đấy, phải không?”
Chúng tôi cùng cười. Và may mắn cho tôi nữa, không những
Russell và cả tôi cũng được thăm viếng
trong ngày Giáng Sinh. Tôi c̣n có được
cơ hội gặp mẹ Russell. Tôi
lưu ư, sau buổi thăm viếng chấm dứt,
một bà cụ thấp người, hớn hở
cười, trên đường ra về, c̣n ra dấu
gởi một nụ hôn nồng thắm đến con trai
ḿnh. Bà cụ gởi nhiều nụ hôn đến
nỗi gởi cả cho tôi một hay hai nụ hôn như
thế nữa. Nhưng hơn thế, tôi
cảm thấy t́nh thương của bà dành cho Russell.
Và
cũng ngay trong lúc đó tôi chợt ư thúc đến t́nh thương
sư phụ tôi, đại sư Chagdud đă dành cho tôi. Tôi cảm nhận sự
hiện diện chan chứa t́nh thương của ngài
đang chảy xuyên suốt trong tất cả chúng tôi.
Trần Trung Đạo
Giới thiệu và dịch theo Join
the Campaign to Free Jarvis Jay Masters