Mười Vị Đệ
Tử Lớn Của
Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả TU BỒ ĐỀ
(Subhuti)
(Thể nhập diệu lí “KHÔNG” hơn ai hết)
1.-
ĐIỀM ĐẠI CÁT CỦA BÉ KHÔNG SINH:
Trong kho tàng giáo lí
của đức Phật, những phát biểu về
vũ trụ nhân sinh đă chiếm một địa
vị đáng kể, trong đó, có thể nói rằng, giáo
lí Bát Nhă là quan trọng nhất. “Bát Nhă” là ǵ? Ta có
thể giải thích một cách giản dị và đúng
đắn nhất, đó là tuệ giác về tính KHÔNG.
Không?
Đó là một đạo lí huyền diệu, khó hiểu,
nói có đă không đúng mà nói không cũng không phải, vi nó
thoát ra ngoài cặp ư niệm đối đăi có và không;
không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, mà
cũng không thể dùng trí suy nghĩ để hiểu
được. Tăng đoàn của đức Phật
có đến 1250 vị t́ kheo chứng quả A La Hán,
nhưng có thể nói, người hiểu thông suốt
diệu lí không hơn hết và thể chứng
được diệu lí ấy, là tôn giả Tu Bồ
Đề.
Nói tới Tu
Bồ Đề, chúng ta cũng nên biết đén cái
điềm lành trong lúc tôn giả vừa được
sinh ra đời, để thấy rằng tôn giả
vốn đă có cái cốt cách phi phàm từ lúc sơ sinh. (Tu
Bồ Đề quê ở thành Vương Xá, nước Ma
Kiệt Đà, vốn là cháu gọi trưởng giả Tu
Đạt [Sudatta] bằng bác ruột. Tu Đạt là
người thành Xá Vệ [Sravasti - Savatthi], đă xây tu
viện Ḱ Viên [Jetavana] để cúng dường Phật và
giáo đoàn dùng làm cơ sở tu học và hành đạo
đầu tiên ở nước Kiều Tát La [Kosala].
Nhưng cũng có thuyết nói rằng, tôn giả Tu Bồ
Đề sinh tại thành Xá Vệ, là em trai của
trưởng giả Cấp Cô Độc [Anathapindada -
Anathapindika]. - Chú thích của người dịch).
Nguyên lai, ngày mà tôn
giả vừa được sinh ra, bỗng nhiên bao nhiêu
của cải, vật dụng trong nhà đều biến
mất. Mọi người rất lo lắng, tức tốc
cho mời thầy tướng số về để xem
sự thể tốt xấu ra sao. Xem quẻ xong, thầy
nói: “Đây là việc rất đáng mừng. Trong nhà quí
vị vừa sinh được quí tử. Lúc vị quí
tử này mới được sinh ra mà tất cả vàng
bạc châu báu đều trở thành không, đó là
điềm đại cát, trong tương lai chắc
chắn cậu ấy sẽ không bị danh lợi của
thế gian trói buộc. Vậy chúng ta có thể đặt
tên cho cậu bé là Không Sinh, hoặc Thiện Cát”.
Mọi
người trong nhà nghe vậy mới yên ḷng. Ba ngày sau,
bỗng dưng mọi của cải, vật dụng trong
nhà đều hiện lại nguyên trạng như cũ.
Từ đó, tên của tôn giả, có người gọi là
Không Sinh, có người gọi là Thiện Cát. Cái
điềm lạ này thật là cổ kim hi hữu.
2.-
NHÀ TIỂU TỪ THIỆN:
Khi c̣n niên
thiếu, chưa qui y với đức Phật, cậu bé
Tu Bồ Đề đă có cách nh́n đời cũng
như các đối xử với người thật là
khác biệt, không giống như mọi người. Tuy
sinh trưởng trong một gia đ́nh giàu có,
được cha mẹ nuông ch́u cưng quí, nhưng
cậu không để cho ḿnh trở thành một kẻ nô
lệ cho vàng bạc của cải. Bao nhiêu tiền bạc
do cha mẹ cho, cậu đều t́m dịp để giúp
đỡ cho những kẻ nghèo khó. Có lúc giữa
đường thấy người ăn xin, áo không
đủ che thân, cậu liền cởi ngay áo ngoài của ḿnh
tặng cho, c̣n cậu th́ chỉ mặc áo lót quần
cụt trở về nhà. Cha mẹ cậu tuy không phải
là hạng người keo kiệt, nhưng thấy tác phong
của con ḿnh như vậy th́ không bằng ḷng, đă có lúc
gọi cậu lại để trách mắng:
- Không Sinh! Con
đă có những hành động không đúng! Tiền
bạc của ḿnh cứ đem cho người mà không
cần cân nhắc; y phục đang mặc cũng cởi
ra cho người, rồi để thân trần như
vậy đi ngoài đường làm sao mà coi cho
được!
Tu Bồ
Đề cung kính thưa:
- Thưa cha
mẹ! Chẳng biết v́ nguyên nhân ǵ con cảm thấy
từ thâm tâm rằng, tất cả những ǵ trên thế
gian đối với con đều có mối quan hệ mật
thiết, tất cả mọi người cùng với con như
có đồng một thân thể. Người ta và con
đâu có ǵ khác nhau, cho nên đem những ǵ của ḿnh
để cho người ta cũng đâu có ǵ là không
đúng.
Nghe Tu Bồ
Đề nói thế, cha mẹ cậu lại càng bực
ḿnh:
- Thằng này
thật là ḱ cục! Có tiền mà không biết xài, có áo mà không
biết mặc, lại c̣n nói ngông, chẳng sợ
người ta cười cho. Từ nay về sau, nếu
không sửa đổi th́ sẽ nhốt trong nhà, không
được ra khỏi cửa!
Nhưng Tu Bồ
Đề đă không thể sửa đổi
được cái “thiên tính” ấy được, vẫn
tiếp tục bố thí, cho nên bị cha mẹ nhốt luôn
trong nhà, không cho đi đây đi đó nữa.
Nhưng sự
việc đó lại trở thành vận may cho cậu, v́
nhờ dịp này cậu có th́ giờ đọc và
nghiền ngẫm tất cả những sách vở về
triết học và tôn giáo hiện hành trên toàn lănh thổ
Ấn Độ; do vậy, cậu đă có một kiến
thức thật rộng răi về các vấn đề nhân
sinh. Cậu thường lấy làm tự hào thưa
với cha mẹ:
- Vạn
tượng dầy đặc trong trong vũ trụ
như đều hiện rơ trong tâm con, nhưng trong tâm con
lại dường như trống rỗng, không hề có
vật ǵ cả. Nếu trên thế gian này không có một
bậc thánh đại trí đại giác th́ ai cũng không
đủ tư cách để cùng với con thảo
luận về tâm cảnh của người giải
thoát; ai cũng không thể thấy rơ được cái
thế giới ở trong tâm con.
Tu Bồ
Đề trẻ tuổi mà đă có những lời nói sâu
xa! Cha mẹ cậu nghe thế lại nghĩ đến sự
ḱ lạ ngày nào lúc cậu mới ra đời. Miệng
của kẻ bất phàm không khỏi phải nói ra
những lời bất phàm. Cha mẹ lấy làm sửng
sốt, lạ lùng cho người con cưng quí của ḿnh.
.-
QUAY VỀ NƯƠNG TỰA PHẬT:
Lần nọ,
đức Phật đến giáo hóa tại thôn xóm của
Tu Bồ Đề. Người làng loan truyền cho nhau
biết rằng đức Phật là bậc Nhất
Thiết Trí, nói về trí tuệ th́ trên thế gian này không
ai có thể so sánh được.
Những lời
b́nh luận trên rồi cũng đến tai Tu Bồ
Đề; vả lại, chính cha mẹ chàng cũng theo
người làng, cùng đến qui y với đức
Phật.
Truyền thống
tín ngưỡng của gia đ́nh Tu Bồ Đề là Bà
la môn giáo, nhưng bây giờ, tại sao cha mẹ lại
theo người làng mà thay đổi tín ngưỡng một
cách dễ dàng như vậy? Đến lượt Tu
Bồ Đề lại lấy làm lạ lùng về cha
mẹ ḿnh.
Một hôm, phụ
thân gọi Tu Bồ Đề bảo:
- Không Sinh! Con
thường tự cho ḿnh có trí tuệ, hiểu rơ
được chân lí đời người, nhưng theo
cha th́ đối với đức Phật, con vẫn c̣n
thua rất xa. Đức Phật không những là bậc
đại trí tuệ mà c̣n là bậc đại từ bi,
lại là bậc đại thần thông nữa. Từ hôm
đức Phật đến địa phương ta
giáo hóa, hầu hết người làng đều qui y theo
Người. Cha định nay mai sẽ thỉnh Phật
về nhà ta để cúng dường. Cha hi vọng
rằng, lúc đó, ở trước mặt Người,
tâm cuồng vọng của con sẽ tiêu mất.
Tu Bồ
Đề vẫn tỏ vẻ không phục:
- Đức Phật
trong con mắt của phụ thân là bậc nhất
thiết trí, nhưng trong mắt của con th́ ông ta cũng
chỉ là người b́nh thường mà thôi.
Tuy ngoài miệng
nói thế, nhưng trong thâm tâm, Tu Bồ Đề vẫn
cảm thấy có điều ǵ thắc mắc, hơn
nữa, cái “điều ǵ” đó c̣n làm cho chàng chấn
động mạnh. Thật ra th́ Phật là người
như thế nào? Tu Bồ Đề tĩnh tọa, và khi
tâm ư đă tĩnh lặng th́ những bọt sóng lại cuồn
cuộn nổi dậy trong ḷng. Chàng suy nghĩ, nếu
chờ đến khi đức Phật đến nhà
thọ trai mới tương kiến, giả như lúc
đó v́ quá bận rộn mà Người không đến
được th́ sao! Cho nên, không thể chờ đợi
được, ngay đêm hôm đó, chàng quyết
định lén cha mẹ đến nơi Phật ngự
để ḍ xét xem Người là người thế nào.
Đêm hôm đó
trời trong gió mát, trăng thượng huyền treo
tỏ rỏ trên không trung, muôn v́ sao nhấp nhánh như có ư
chế riễu chàng trai hiếu ḱ Tu Bồ Đề. Chàng
một ḿnh t́m đến chỗ Phật đang thuyết
pháp. Lúc đó Ngài đang ngồi trên pháp ṭa cao, bốn phía
đèn đuốc sáng trưng. Hàng ngàn dân làng đang
ngồi chung quanh pháp ṭa, Chàng nh́n đức Phật. Ôi!
Đó có phải là một người b́nh thường
ở thế gian không? Tướng mạo của
Người sao mà viên măn quá! Trang nghiêm quá! Chói sáng quá!
Thật là ngoài sức tưởng tượng của
chàng! Người đông thế mà yên lặng vô cùng, h́nh
như chẳng có ai dám thở mạnh, chỉ có pháp âm
của Phật là nghe rơ mồn một mà thôi. Chàng nghe
Phật dạy:
- Mọi
người chúng ta đều chung cùng một bản thân.
Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngă.
Tất cả vạn vật đều do nhân duyên ḥa
hợp mà sinh ra. Không có một vật ǵ có thể tự nó
tồn tại độc lập được. Ta và
vạn pháp đă nương nhau mà tồn tại th́
việc đem ḷng từ bi và những ân huệ để
bố thí cho chúng sinh, mới xem ra th́ có vẻ như là v́
người, mà thật ra th́ chính ta cũng có
được ích lợi lớn lao ...
Pháp âm của
đức Phật vô cùng từ ḥa, êm dịu và những
lời dạy của đức Phật vừa rồi
càng làm cho Tu Bồ Đề cảm động. Từ
trong đại chúng, chàng len lén chắp tay hướng lên
đức Phật, tỏ ḷng cung kính.
Sau buổi pháp
thoại, đức Phật trở về tịnh thất
được dọn sẵn để nghỉ ngơi. Tu
Bồ Đề lén theo sau, muốn hội kiến với
Phật mà không đủ can đảm, cứ đứng
thập tḥ ở cửa tịnh thất.
Như thấu
được tâm ư của Tu Bồ Đề, đức
Phật lên tiếng:
- Vị nào đó?
Xin mời vào pḥng để chúng ta cùng nói chuyện.
- Bạch Thế
Tôn! Dạ con đây! Con là Tu Bồ Đề, xin Thế Tôn
thâu nhận cho con được xuất gia làm đệ
tử của Người.
- Thế à! Th́ ra Tu
Bồ Đề là ngươi. Ta nghe nói ngươi là
một thanh niên thông tuệ nhất trong địa
phương này. Tốt lắm, người thông tuệ th́
mới có thể tin nhận và hành tŕ giáo pháp một cách chân
chính. Vậy việc này song thân ngươi đă biết
chưa?
- Bạch Thế Tôn!
Con nghĩ rằng khi song thân con biết việc này th́
sẽ vô cùng hoan hỉ. Con rất vinh hạnh
được thờ Thế Tôn làm thầy.
Đức Phật
hoan hỉ chấp nhận. Từ đó Tu Bồ Đề
mặc áo cà sa và trở thành một đệ tử
kiệt xuất trong tăng đoàn của đức
Phật.
4.-
XIN ĂN NHÀ GIÀU, KHÔNG XIN ĂN NHÀ NGHÈO:
Sau khi xuất gia
với ba y và một b́nh bát, mỗi ngày, buổi sáng Tu
Bồ Đề vào phố khất thực, buổi
chiều th́ theo Phật nghe pháp, tham thiền.
Về việc
khất thực, tăng chúng đều tuân theo pháp chế thứ
đệ hành khất của Phật mà thi hành. Quí
vị t́ kheo, vị này tiếp nối vị kia, đi thành
hàng một, hết nhà này đến nhà khác, dù thí chủ có
cúng dựng hay không cũng đều phải tuần
tự đi qua, không được chọn lựa, bỏ
sót. Nhưng riêng Tu Bồ Đề th́ ngày bắt
đầu vào nếp sinh hoạt khất thực đă
không thi hành pháp chế ấy giống như đại
chúng. Mỗi sáng khi ra khỏi tu viện, Tu Bồ
Đề liền rẽ ra một lối khác, nhắm
đối tượng đă được chọn
trước để đi đến thẳng đó mà
khất thực. Lúc đầu đại chúng không ai
để ư, nhưng về sau họ đă phát giác
được hành động khác lạ ấy của Tu
Bồ Đề. Lúc ấy đại chúng mới biết
được rằng, Tu Bồ Đề đi khất thực,
chỉ chọn những nhà giàu có mà tới, nếu thấy
nhà nào nhỏ hẹp, hoặc biết rằng trong gia
đ́nh ấy kinh tế cùng quẫn thi nhất định
không dừng lại. Dù có phải đi thật xa
để đến một nhà giàu xin ăn, tôn giả
cũng vẫn đi, bằng không, thà hôm đó chịu
nhịn đói chứ không đế xin ăn ở nhà
nghèo.
Một hôm, trên
đường phố T́ Xá Li (Vaisali - Vesali), một vị
t́ kheo đă cười mỉa hỏi Tu Bồ Đề:
- Kẻ nghèo dù có
ở trước mặt cũng không ai thèm hỏi tới,
người giàu dù ở sâu trong rừng núi cũng có kẻ
đến làm thân. Ở thành T́ Xá Li này toàn là nhà giàu có,
chẳng hay hôm nay đại đức đă t́m ra
được nhà nào chưa?
Tu Bồ Đề
đáp:
- Thưa đại
đức! Không phải tôi không để ư đến người
nghèo, trái lại c̣n có thể nói tôi luôn luôn đứng
về phía những người nghèo. Sở dĩ tôi
chỉ đến xin ăn ở những nhà giàu mà không
đến những nhà nghèo, thực sự là v́ tôi có tâm
nguyện riêng, xin đại đức hiểu cho.
Đại
đức chỉ muốn tới cửa nhà giàu mà không thèm
đến nhà nghèo là vi đại đức muốn ngày
nào cũng được ăn uống sung sướng,
đầy đủ bổ dưỡng, hèn chi thân thể
của đại đức trông tráng kiện, mập
mạp như thế kia!
- Thưa đại
đức! Xin đừng nói như vậy! Tôi đến
nhà giàu khất thực không phải là v́ để
được ăn những món ngon vật lạ. Nếu
cần ăn uống sung sướng th́ tôi đâu cần
phải xuất gia học đạo. Nhưng v́ sao tôi không
đến khất thực ở những nhà nghèo? Tại
v́ người nghèo khổ tự nuôi lấy gia đ́nh
họ đă khó khăn, vất vả rồi, làm sao có
dư để cúng dường cho chúng ta! Dù họ có
muốn muốn tự ư phát tâm th́ họ cũng chỉ có
ḷng mà sức th́ không đủ. Chúng ta đă không có
lương thực để giúp đỡ họ th́ thôi,
lại c̣n bắt họ phải chịu thêm gánh nặng hay
sao! Trong khi đó, đối với những người
giàu có, một bữa cơm cúng dường cho ta đâu có
đáng kể ǵ. Bởi vậy mà tôi tâm nguyện rằng
chỉ đến khất thực ở nhà giàu mà không
đến người nghèo.
Nghe Tu Bồ
Đề nói rơ tâm nguyện, vị t́ kheo kia không c̣n
biết phải nói năng làm sao nữa.
Trong tăng đoàn,
người có tác phong tương phản với Tu Bồ
Đề là tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakapasya -
Mahakassapa). Trong khi Tu Bồ Đề chỉ xin ăn nhà
giàu, không xin ăn nhà nghèo, th́ Đại Ca Diếp lại
chỉ xin ăn nhà nghèo mà không xin ăn nhà giàu. Tu Bồ
Đề không hiểu được tâm ư của
Đại Ca Diếp ra sao, cho nên một hôm nhân lúc nhàn
đàm, tôn giả đă hỏi Đại Ca Diếp:
- Thưa sư huynh!
Quan niệm khất thực của sư huynh là trái
ngược với tôi. Vậy tôi xin vô lễ
được hỏi nguyên nhân tại sao.
Đại Ca
Diếp giải thích:
- Chúng ta xuất gia
làm sa môn, giữ đạo và hành tŕ giáo pháp, đó là
ruộng phước cho người đời. Chúng ta
thọ nhận sự cúng dường của thí chủ là
tạo cơ hội cho họ làm tăng trưởng
phước huệ. Sở dĩ tôi chỉ đến
khất thực ở những nhà nghèo là v́ tôi muốn cho
họ gieo trồng phước đức, nhờ đó mà
họ sẽ thoát được cảnh nghèo khổ trong
kiếp vị lai; c̣n người giàu vốn dĩ họ
đă có nhiều phước báo, vậy hà tất chúng ta
phải thêm hoa cho gấm!
Lời giải thích
của tôn giả Đại Ca Diếp vừa có vẻ
như biện bạch chính ḿnh mà cũng vừa có vẻ
như muốn thuyết phục Tu Bồ Đề. Nghe
xong, Tu Bồ Đề gật đầu đồng ư, và
v́ không muốn người khác phải theo quan niệm
của ḿnh, tôn giả nói:
- Xin ăn nhà giàu hay
nhà nghèo cũng đều vi lợi ích cho chúng sinh. Thưa
sư huynh! Trong Phật pháp có nhiều cánh cửa
phương tiện, chúng ta mỗi người có thể
hành tŕ theo hạnh nguyện riêng của ḿnh, v́ chung qui
cũng đều là giáo pháp của Phật.
Thái độ
khất thực cũng như những lời đối
đáp giữa hai tôn giả Tu Bồ Đề và
Đại Ca Diếp đă trở thành hai mũi nhọn
đối chọi nhau. Đức Phật biết
được việc này và không đồng ư với
cả hai vị. Phật quở trách cả hai vị là
đă khất thực không đúng với giáo chế.
Khất thực đúng phép phải là thứ đệ
hành khất, không được lựa chọn giàu
nghèo, không phân biệt dơ sạch, và oai nghi lúc nào cũng
phải nghiêm túc.
5.-
KHÓC TRONG PHÁP HỘI BÁT NHĂ:
Tôn giả Tu
Bồ Đề rất tinh tấn trong việc nghe pháp và
tu tập. Bởi thế, trong 16 pháp hội Bát Nhă
của đức Phật, trừ khi phải giáo hóa ở
các nơi xa xôi, c̣n th́ tôn giả không bỏ sót một pháp
hội nào.
Một lần
nọ, tại tu viện Ḱ Viên, đức Phật dự
định nói kinh Kim Cang Bát Nhă. Tất cả chúng
đệ tử, sau khi vào thành khất thực trở
về, đều lần lượt ngồi xuống chung
quanh đức Phật.
Lúc ấy Phật
đang tĩnh tọa, mọi người cũng ngồi
yên lặng, chưa ai dám lên tiếng hỏi điều ǵ.
Bấy giờ, tôn giả Tu Bồ Đề, hiểu rơ
được tâm ư của Phật, liền đứng
dậy, trật vai áo bên phải, lạy Phật và thưa
rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Tất cả chúng con đều biết rằng
Thế Tôn rất khéo léo ái hộ chúng con, nhưng
đối với các thiện nam tín nữ khi phát tâm bồ
đề th́ làm thế nào mới có thể an trú
được? Và khi họ bị các vọng niệm
quấy phá th́ làm thế nào mới có thể hàng phục
được? Xin Thế Tôn từ bi dạy bảo chúng
con!
Đức
Phật rất hoan hỉ đối với vấn
đề tôn giả vừa nêu ra. Ngài dạy:
- Làm thế nào
để an trú ở tâm bồ đề và không bị
vọng niệm quấy phá ư? Này Tu Bồ Đề! Chính
là trong khi bố thí, nên thực hành hạnh bố thí vô
tướng; trong khi độ sinh, nên thực hành cách
độ sinh vô ngă. Cứ theo cách thức ấy mà an
trú, cứ theo cách thức ấy mà hàng phục vọng tâm.
Vô tướng
bố thí, vô ngă độ sinh! Tu Bồ
Đề chợt hiểu rơ một cách sâu sắc lời
Phật vừa dạy. Tôn giả vô cùng cảm kích pháp âm
của Phật. Vui mừng đến độ chảy
nước mắt, tôn giả qú xuống trước Phật,
thưa rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Từ ngày con được làm người cho tới
nay, đây là lần thứ nhất con được nghe
giáo pháp cao sâu nhiệm mầu như vậy. Từ nay
trở đi hai thứ chấp trước ngă và pháp
đều không c̣n quấn chặt được con
nữa. Tất cả bốn tướng trạng là ta,
người, chúng sinh và sinh mạng cũng không thể
trói buộc được con nữa. Phải xa ĺa
được mọi vọng tướng chấp
trước mới có thể thấy được tính không.
Phải trừ khử mọi ư niệm về danh,
tướng mới có thể thấy được
thực tại nhân sinh. Hôm nay con đă thể nhập
được tâm ư của Phật, con đă thấy rơ
được chính ḿnh.
Sau lần khai
ngộ này, tôn giả Tu Bồ Đề đă trở thành
người đệ tử của đức Phật
đứng đầu tăng đoàn về hiểu rơ tính không.
6.-
NGHE VIỆC XƯA MÀ TĂNG TRƯỞNG L̉NG TIN:
Tuy đức
Phật biết rơ Tu Bồ Đề đă dứt trừ
được vọng tâm chấp trước nhân ngă,
nhưng đối với ḷng từ bi vô biên, v́ muốn
tăng thêm sức mạnh cho ḷng tin tưởng của Tu
Bồ Đề về vô tướng bố thí và vô
ngă độ sinh, Ngài đă thuật lại câu chuyện
“tiền thân” như sau:
“Này Tu Bồ
Đề! Trong kiếp quá khứ, có lần ta là một
người tu hành ở trong chốn rừng núi. Lúc đó
ta đang tĩnh tọa dưới một cây đại
thọ, nhắm mắt để quán chiếu về
những huyền bí của vũ trụ và về khởi
nguồn của nhân sinh. Bỗng nhiên ta nghe có tiếng
cười ḍn nổi lên ở phía trước. Ta mở
mắt ra nh́n, th́ ra là một đoàn thiếu phụ
sắc nước hương trời đang đứng
trước mặt. Nh́n cách phục sức và trang
điểm sang trọng của họ người ta
sẽ biết ngay rằng, nếu họ không phải là
tiên nữ từ thượng giới hạ giáng th́
cũng phải là các phi tần trong chốn hoàng cung. Họ
nắm tay nhau, cùng tiến tới trước mặt ta,
vừa cười cợt hỏi:
- Ông thầy tu
ơi! Đây là chốn núi sâu rừng rậm, tại sao ông
ngồi một ḿnh vậy! Ông không sợ cọp, beo chó sói
ăn thịt sao?
Ta vẫn ngồi
ngay thẳng trả lời:
- Thưa quí vị
nữ sĩ tôn quí! Đúng vậy. Tôi ở đây tu hành
chỉ có một ḿnh, v́ người tu hành không nhất
thiết phải có nhiều bạn bè. Hơn nữa, người
có tâm từ bi th́ sẽ không bị thú dữ làm hại, c̣n
ở tại chốn thành đô hoa lệ th́ những
thứ như tiền bạc, sắc đẹp và
quyền uy, có khác ǵ cọp, beo, chó sói ở nơi rừng
núi đâu!
Nghe ta nói xong
mấy lời này th́ đám thiếu phụ kia bỗng thay
đổi thái độ, không c̣n có vẻ kiêu ḱ nữa mà
lại tỏ ra cung kính đối với ta. Họ ân
cần xin ta chỉ dạy. Ta bèn ngắt một đóa hoa
hồng nhỏ ở bên cạnh, nói tiếp:
- Thưa quí
vị! Người đời ai cũng mong t́m hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc cũng có thứ chân thật,
thứ giả dối, thứ trường cửu, thứ
tạm thời. Phần đông người ta đều
bị mê hoặc, bị lôi cuốn bởi thứ hạnh
phục giả tạm, giống như đoá hồng
nhỏ này, vừa nở ra trông rất đẹp, nhưng
cái đẹp ấy không tồn tại vĩnh viễn.
Tuổi trẻ, sắc đẹp, sự cường tráng
và khỏe mạnh không đủ cho chúng ta ỷ lại.
Đời
người đáng quí ở chỗ biết sống
đúng đạo lí, làm cho đời sống luôn luôn
tiến triển và thăng hoa; đó là việc nên theo
đuổi.
Ta vừa nói
đến đây th́ một người ăn mặc theo
lối vương giả, tay cầm bảo kiếm
từ xa chạy tới trước mặt ta quát lớn:
- Ngươi là ai,
sao dám cả gan đùa giỡn với cung phi của ta?
Ta thấy
người ấy chạy đến với thái
độ cực ḱ hung hăn. Ta từ tốn nói:
- Thưa
đại vương! Xin ngài cho biết quí danh và xin ngài
đừng nên nhục mạ người như vậy.
Nhưng
người ấy càng to tiếng hơn:
- Ngươi
nằm mộng giữa ban ngày chăng? Ta là vua Ca Lị, oai
danh chấn động bốn phương, ai mà không
biết! Không ngờ ngươi dám dụ dỗ cung phi
của ta!
- Thưa
đại vương! Xin ngài đừng nói như
vậy. Tôi là kẻ tu hành, giữ hạnh nhẫn nhục,
cho nên không dám có lời chống đối ngài, nhưng
khẩu nghiệp ngài vừa tạo ra chắc chắn
sẽ đem lại cho ngài một tương lai không
tốt đẹp.
- Ngươi tu
hạnh nhẫn nhục ư? Vậy ta thử cắt thân
thể ngươi ra từng mảnh, xem ngươi có
nhẫn nhục được hay không!
Này Tu Bồ
Đề! Vua Ca Lị nói như thế xong liền dùng
bảo kiếm lần lượt móc mắt, cắt tai,
cắt mũi, chặt hai tay rồi hai chân ta; nhưng v́
hạnh nguyện độ sinh, v́ ban bố ḷng từ bi
cho chúng sinh mà ta không hề khởi lên một niệm sân
hận. Với tinh thần vô ngă độ sinh, ta dần
dần tích tụ phước huệ để trang nghiêm
cho quả vị giác ngộ. Này Tu Bồ Đề! Sự
hung bạo không thể thắng được
người, chỉ có người tu hạnh nhẫn
nhục mới đạt được thắng lợi
cuối cùng mà thôi”.
Tôn giả Tu
Bồ Đề vô cùng cảm động khi nghe xong
mẫu chuyện tiền thân về một kiếp tu hành
của đức Phật, và nhờ câu chuyện đó mà
tôn giả càng thể hội sâu xa chân lí vô ngă, thực
chứng được tuệ giác về tính không cao
sâu mầu nhiệm.
7.-
“KHÔNG” LÀ G̀?
Do sự giảng
dạy của đức Đại Giác Thế Tôn, Tu
Bồ Đề hiểu rằng, tất cả mọi
loài, mọi vật trong vũ trụ đều do nhân duyên
mà sinh thành và cũng do nhân duyên mà hoại diệt. Duyên
sinh là lời giải thích rơ ràng nhất của chữ
“không". Do đó, chữ “không" ở đây không
phải là không có ǵ cả, không phải sự trống
vắng của sự vật; nó không rời khỏi
mối liên hệ nhân quả của sự vật, không phá
hoại mối nhân duyên sinh thành vạn pháp; nó mang
đầy tính cách mạng và tính tích cực.
Không
là giáo lí trung tâm của Phật pháp; nó tượng trưng
cho tinh thần của đạo Phật. Nếu không
phải là đệ tử của Phật th́ không thể
lĩnh hội được giáo nghĩa không; ngay
như là đệ tử Phật, cũng có lắm
người không thể nhập được giáo lí
mầu nhiệm này. Bởi vậy tôn giả Tu Bồ
Đề thường than rằng: “Người liễu
ngộ được tính không sao mà ít oi quá!”
Một lần
nọ, một người trí thức Bà la môn hỏi tôn
giả Tu Bồ Đề:
- Thưa
đại đức! Tôi nghe nói đại đức là
người đệ tử của đức Phật
hiểu rơ nhất vè tính không. Vậy tôi xin đại
đức giải thích cho thắc mắc của tôi.
Thật sự là tất cả vạn vật trên thế
gian đang tồn tại rơ ràng trước mắt, mà
tại sao đại đức bảo chúng đều là
không?
Tu Bồ
Đề liền chỉ ngay một ngôi nhà trước
mặt, nói:
- Xin ông hăy nh́n ngôi
nhà kia! Nó là do bốn yếu tố (đất,
nước, gió, lửa) và các thứ nhân duyên khác hợp
lại mà có. Nếu lấy riêng từng thứ vật
liệu như gỗ, đất, gạch, ngói v.v... từ
ngôi nhà ấy ra, th́ chẳng những ngôi nhà đă không có, mà
ngay cả tên gọi “ngôi nhà” cũng không có. V́ ngôi nhà ấy
do tất cả những thứ không phải là nhà hợp
lại mà có, cho nên chúng ta bảo ngôi nhà ấy là không. Không,
không có nghĩa là phủ nhận không có căn nhà; nó không
mang nội dung của cặp ư niệm đối đăi có-không.
Không là không có một bản ngă, một thực
thể riêng biệt, độc lập. Và chính v́ vậy, không
là bản thể của tất cả sự vật trên
thế gian.
Người trí
thức Bà la môn nghe xong, trầm ngâm giây lát, rồi chắp
tay đối trước Tu Bồ Đề nói:
- Đại
đức quả không hổ là người đệ
tử của đức Phật hiểu rơ nhất về
tính không. Lời chỉ dạy của đại
đức làm cho tôi rất kính phục. Tôi tự lấy
làm xấu hổ không đủ tư cách để
biện luận với đại đức. Xin chào
đại đức và mong được gặp lại.
Trong thế
đứng trang nghiêm. Tu Bồ Đề đưa tay
vẽ một ṿng trên không, nói với người Bà la môn:
- Trong khi tóc
của ông từ màu đen chuyển đổi thành
trắng bạc, trong khi chiếc lá ở đầu cành cây
kia rụng xuống đất, vẫn có hạt giống
của bông hoa kia rơi và bị chôn vào ḷng đất,
rồi nảy mầm, lớn lên, nở hoa, kết trái ...
trải qua một thời ḱ biến chuyển tuần hoàn,
lại trở thành nguyên dạng của nó. Ông hăy ghi nhớ
lấy: đó là không đấy.
Nói xong, hai vị
chia tay từ giă.
8.-
NGƯỜI NGHINH TIẾP PHẬT TRƯỚC NHẤT:
Tôn giả Tu
Bồ Đề đă thể chứng diệu lí không,
rất khéo tuyên dương diệu lí không, và có
thể nói, tất cả những hành vi đi đứng
nằm ngồi cũng đều biểu hiện diệu
lí không.
Một hôm,
bỗng dưng mọi người đều phát giác
sự vắng mặt của đức Phật tại núi
Linh Thứu (Grdhrakuta - Gijjhakuta). Đại chúng chia nhau
đi mọi nơi t́m kiếm nhưng đều không
thấy. Bấy giờ tôn giả A Na Luật (Aniruddha -
Anuruddha) bèn dùng thiên nhăn quán sát, mới biết rằng
đức Phật đang ngự tại cung trời
Đao Lợi (Trayastrimsa - Tavatimsa) để nói pháp độ
cho mẫu hậu là lệnh bà Ma Da (Mahamaya); cũng phải
ba tháng sau Ngài mới trở về. A Na Luật báo cho
đại chúng biết như vậy. Mọi người
ai cũng trông nhớ.
Ba tháng trôi qua
thật nhanh, đă tới ngày đức Phật trở
về. Khi biết được Phật sắp trở
về, ai cũng tranh nhau xuống núi trước
để được coi là người nghinh đón
đức Phật trước nhất. Lúc bấy
giờ tôn giả Tu Bồ Đề đang ngồi vá áo
trong động Ḱ Xà (Grdhrakuta - Gijjhakuta). Khi nghe
được tin này, liền buông kim chỉ đứng
dậy, định cùng mọi người đi nghinh
đón Phật, nhưng rồi một ư nghĩ dấy lên
trong tâm tư, tôn giả liền ngồi xuống lại
như cũ, ḷng thầm nhũ: “Ta đi nghinh đón
đức Phật để làm ǵ? Chân thân của Phật
không thể nh́n thấy được ở mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ư của Phật. Nếu bây
giờ ta đi nghinh đón Phật có nghĩa là ta lấy
cái thân tứ đại giả hợp kia làm pháp thân
Phật; và như thế tức là ta đă không biết ǵ
về tính không của các pháp. Nếu không viết ǵ
về tính không của các pháp th́ không thể nh́n
thấy pháp thân của Phật, Tính không của
các pháp hay pháp thân của Phật không phải là chủ
thể tạo tác, cũng không phải là vật
được tạo tác; v́ vậy, muốn trông thấy
Phật trước hết phải thấy rơ tính chất
vô thường của năm uẩn, bốn đại,
cũng như tính chất vô ngă, không tịch của vạn
tượng, Không có ta, không có người;
không có vật tạo tác, không có vật
được tạo tác. Tất cả vạn pháp là
không tịch, pháp tính bao trùm mọi nơi, pháp thân Phật
không có chỗ nào là không hiện hữu. Ta qui y và hành tŕ giáo
pháp của Phật, đă thể chứng được
diệu lí không của các pháp th́ không thể nào
để cho sự tướng làm mê hoặc".
V́ nhận thức
như vậy cho nên tôn giả không theo mọi người
xuống núi, tiếp tục vá áo một cách thong thả,
thản nhiên.
Đức
Phật từ thiên cung trở về là một việc vui
mừng rất lớn đối với tăng đoàn. Tất
cả mọi người mặt mày hớn hở. Ai
cũng mong được gặp Phật và lạy
Phật trước nhất. Bấy giờ trong chúng t́ kheo
ni, ni sư Liên Hoa Sắc (Utpalavarna - Uppadavana) là
người có thần thông bậc nhất. Ni sư đă
nhanh chân xuống núi trước nhất, vừa
đảnh lễ đức Phật, vừa thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Con là Liên Hoa Sắc, xuống nghinh đón Thế Tôn
trước tiên, xin cho con được đảnh
lễ Thế Tôn.
Đức
Phật mỉm cười và dịu dàng bảo:
- Ni sư Liên Hoa
Sắc! Lần này Như Lai trở về, người
nghinh đón Như Lai trước nhất không phải là ni
sư đâu!
Liên Hoa Sắc
cực ḱ kinh ngạc. Ni sư nh́n quanh quất, chư
tăng và chư ni, kể cả các vị trưởng lăo
của tăng đoàn như tôn giả Đại Ca
Diếp, cũng vẫn vừa mới xuống tới, c̣n
đang ở sau lưng ḿnh kia mà! Ḷng rất đổi hoài
nghi, ni sư bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Vậy th́ c̣n có vị nào đă tới đây trước
con?
Vẫn nụ
cười từ ḥa, đức Phật nh́n khắp
lượt đại chúng, vừa trả lời ni sư
Liên Hoa Sắc, vừa nhu muốn bảo chung cho đại
chúng biết:
- Chính Tu Bồ
Đề là người đă người đă nghinh
đón Như Lai trước nhất. Tu Bồ Đề
đang ở trong động Ḱ Xà, quán chiếu thấy rơ
tính không của các pháp, thấy rơ được pháp
thân của Như Lai, như thế mới chính thực là
nghinh đón Như Lai trước nhất.
Nghe Phật dạy
như thế, ni sư Liên Hoa Ssắc cùng tất cả
đại chúng hiện diện đều lấy làm
hổ thẹn, tự biết ḿnh không sánh kịp với Tu
Bồ Đề trong việc thể hội chân lí về
vũ trụ và nhân sinh.
9.-
ĐỆ NHẤT A LA HÁN:
- Trong tâm tính cũng
như trong sinh hoạt hàng này, Tu Bồ Đề lúc nào
cũng tỏ ra điềm đạm và tự tại; lúc
nào cũng an trú trong cái thấy không, tức là
đạt được cái cảnh giới thiền
định giải thoát.
Trong tâm tính cũng
như trong sinh hoạt hàng ngày. Tu Bồ Đề lúc nào
cũng tỏ ra điềm đạm và tự tại; lúc
nào cũng an trú trong cái thấy không, tức là
đạt được cái cảnh giới thiền
định giải thoát.
Đă sinh ra làm
người ở trên thế gian, dù quí vị có là thánh nhân,
đôi khi vẫn phải mang lấy những điều
tiếng thị phi, đàm tiếu; dù quí vị có như viên
ngọc bích trắng trong, xa ĺa danh lợi, một ḷng
phụng sự chúng sinh, th́ vẫn bị những kẻ
phàm phu tục tử kiếm cớ gây chuyện, phao vu, nói
xấu.
Tu Bồ
Đề chuyên tâm tu tập và hoằng hóa, ngày ngày chỉ
mong làm được việc ǵ để lại lợi
ích cho mọi người, c̣n đối với những
điều tiếng thị phi, những khinh bạc
của nhân t́nh, tôn giả đều coi như gíó thoảng
mây bay, không bao giờ để tâm hờn giận.
Một ngày nọ,
trên đường đi hoằng hóa, tôn giả bỗng
nghe được có người đang b́nh phẩm
về cá nhân ḿnh. Họ nói: “Quí vị thấy đó, Tu
Bồ Đề có giới là giỏi đâu! Một chút
công hạnh tu hành cũng không có, lúc nào cũng như si si,
ngốc ngốc, chẳng hề làm được tích
sự ǵ trong chúng cả”.
Một số quí
vị t́ kheo nghe thế rất ấy làm bất b́nh,
đều hỏi tôn giả tại sao không đến
biện bạch với họ. Tôn giả an nhiên trả
lời:
- Thưa quí sư
huynh! Xin cám ơn quí sư huynh đă quan tâm và tỏ ḷng
ưu ái đối với tôi, nhưng xin quí sư huynh
đừng nên bất b́nh đối với họ. Chúng ta
nên biết rằng, biện bạch những chuyện không
xứng đáng tức là gây những tranh luận vô ích.
Đă nói đến tranh luận tức là nói đến tâm
muốn hơn thua, và như vậy tức là đi
ngược lại chân lí. Trong cuộc đời tu hành,
chúng ta hăy coi tất cả những lời chê bai, dèm pha,
thậm chí những nghịch cảnh, ma nạn,
đều là những tăng thượng duyên giúp ta tiêu
trừ nghiệp chướng, và gia tăng sức mạnh
cho ḷng tin. Vả lại, trong thế giới chân lí,
thực tại không bao giờ phải tranh biện. Chân lí
là không có ta, không có người, không có đây, không có kia;
không cao, không thấp, không thánh, không phàm. Tôi chỉ biết
có một thực tướng b́nh đẳng, vô trú, đó
là chân không, cho nên tâm tôi giống như ṿm trời không
tạnh, bàng bạc muôn dặm; cái ǵ cũng không có th́
cần ǵ phải biện bạch!
Tâm ư của tôn
giả là như thế. Phong thái của tôn giả là như
thế. Thật là khoát đạt tự tại. Đó là
điều làm cho người ta kính phục.
Đức khiêm
nhường của Tu Bồ Đề cũng thật là
có một không hai. Tôn giả thường hay tùy thuận
thế gian, thực hành đại nhẫn nhục.
Đối với tất cả mọi người, không
bao giờ buồn giận, căi cọ. Sở dĩ
được như vậy là v́ tôn giả đă thông
đạt được diệu lí của tính không.
Biết
được công phu tu tập của Tu Bồ Đề
như vậy, đức Phật rất lấy làm hoan
hỉ và đă từng khen ngợi tôn giả trong pháp
hội Bát Nhă rằng:
- Này Tu Bồ
Đề! Trong các đệ tử của Như Lai,
người tu tập đến tŕnh độ như
thầy thật là ít có. Thầy đă chứng
được Vô tránh tam muội, có công đức cao
tột trong đời. Thầy đă là bậc Đệ
Nhất Li Dục A La Hán. Như Lai rất lấy làm hoan
hỉ.
Được
Phật khen ngợi, nhưng Tu Bồ Đề vẫn
không dám nhận. Tôn giả chắp tay thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Đối với đệ tử chúng con, Thế Tôn
lúc nào cũng dùng lời từ ái để khuyến khích,
con thật không biết dùng lời ǵ để bộc
lộ cho hết ḷng chân thành cảm kích của chúng con.
Thế Tôn bảo con là người có công đức cao
tột trong đời, là bậc Đệ Nhất Li
Dục A La Hán, nhưng con tuyệt nhiên không cho ḿnh là
bậc Li Dục A La Hán, v́ như thế tức là ngă
chấp vẫn chưa đoạn trừ, và rồi
suốt ngày lại c̣n ch́m đắm trong cái pháp chấp có
chứng đắc. Bạch Thế Tôn! Con không ư
tưởng như thế, cũng không có công hạnh
như thế; do từ thực tính vô sinh, vô vi mà Thế Tôn
mới ban cho con những lời từ ái như vậy.
Tôn giả quả
là người có đức khiêm cung, lại nói năng khéo
léo. Nh́n hành vi, xem thái độ, nghe lời nói, ai cũng
nhận được rằng Tu Bồ Đề là
người đă chứng được thánh quả.
10.- TRONG NÚI
SỐNG ĐỜI AN LẠC, MƯA HOA RỢP ĐẤT
CÚNG DƯỜNG:
Đối với
tất cả mọi việc ở đời, không có ǵ
phải tranh đoạt, không có ǵ để mong cầu, tôn
giả Tu Bồ Đề quả là bậc Li Dục A La
Hán, như đức Phật đă từng ca ngợi.
Đời sống của tôn giả, khi th́ ở chung
với tăng đoàn để cùng tu học với
đại chúng dưới sự dạy dỗ trực
tiếp của đức Phật. khi th́ ở một ḿnh
trong rừng núi để thực tập thiền
định.
Ḱ Xà là một
ngọn núi rất nổi tiếng, dáng vẻ xinh
đẹp. có trúc xanh, rừng rậm, là nơi rất thích
hợp cho nếp sống tu hành; bởi vậy, đức
Phật đă thường ngự ở đó. Tôn giả
Tu Bồ Đề vốn rất thích cuộc sống
ở núi rừng, cho nên núi này cũng đă là nơi cư
ngụ thường xuyên của tôn giả. Những ngày
nắng ráo, tôn giả thường sống ngoài trời,
khi th́ thiền tọa tư duy dưới gốc cây, khi
th́ kinh hành quán tưởng bên trên triền núi; vào mùa mưa
th́ tôn giả thường ở yên trong động.
Với cái thấy của tôn giả th́ núi sâu rừng
rậm chính là chốn đạo tràng tốt đẹp
nhất cho người tu hành; nơi đó, ban ngày có
thể nh́n ngắm chim c̣ khỉ vưọn, ban đêm th́
bầu bạn với trăng sao và lắng nghe tiếng
rầm ŕ của ngàn loại côn trùng.
Một hôm, Tu
Bồ Đề ngồi nhập định trong
động núi. Lúc tôn giả đạt tới và an trú
ở cảnh giới vi diệu của Không tam muội th́
rúng động cả chư thiên. Họ bèn cùng nhau xuất
hiện giữa hư không, tưng từng đóa hoa
trời xuống trước mặt tôn giả và chắp
tay ca ngợi rằng:
- Thưa tôn
giả Tu Bồ Đề! Làm người ở thế
gian, dù có danh vị cao xa, của cải châu báu thật
nhiều cũng không có ǵ đáng tôn quí. Dù có là quốc
vương hay phú hộ th́ rốt cuộc họ cũng
chỉ là tù nhân của phiền năo và dục vọng mà thôi.
Thưa tôn giả! Điều tôn quí chân thật ở
thế gian chính là sự tu hành cao cả mà tôn giả
đang thể hiện. Chính cái uy đức cao sâu của
tôn giả tỏa chiếu trong lúc tôn giả đạt
đến cảnh giới Không tam muội đă làm cảm
kích cả thiên cung chúng tôi. Tu Bồ Đề của loài
người xứng đáng hưởng thọ sự cúng
dường của cơi trời. Người khéo nói Bát Nhă,
tự tại vân du trong cơi trời xanh muôn dặm của
Không tam muội, vượt thoát tất cả những phàm
t́nh của nhân gian; dù là mây đen phiền năo hay mây
trắng bồ đề cũng không che phủ
được người. Người đă hoàn toàn
chặt đứt sợi dây sắt của dục t́nh,
bẻ găy ống khóa vàng của pháp chấp. Thưa
đại đức Tu Bồ Đề tôn quí! Xin
người hăy tiếp nhận hoa trời của chúng tôi
cúng dường. Chúng tôi xin đảnh lễ người
để tỏ ḷng kính ngưỡng.
Lời ca ngợi
của chư thiên và hoa trời tung rơi đă làm cho tôn giả
xuất định. Tôn giả nh́n họ hỏi:
- Quí vị là ai?
Sao lại đến đây rải hoa và ca ngợi tôi?
Vị đứng
đầu thiên chúng đáp:
- Thưa tôn
giả! Tôi là trời Đế Thích (Sakra Devanamindra), c̣n
tất cả đây đều là thiên chúng.
- V́ sao quí ngài
lại ân cần ca ngợi tôi như vậy?
- Vi chúng tôi kính
ngưỡng tôn giả đă an trú trong Không tam muội và
đă khéo nói Bát Nhă Ba La Mật.
- Đối
với Bát Nhă, tôi chưa hề nói được
một chữ th́ hà tất quí ngài phải ca ngợi.
- Tôn giả đă
không nói th́ chúng tôi cũng không nghe. Không nói không nghe, đó là chân
bát nhă.
- Trong pháp hội Bát
Nhă, đức Thế Tôn đă từng tuyên dạy pháp
môn cao sâu mầu nhiệm; và trong khi hộ tŕ cho đạo
tràng, quí ngài đă lĩnh hội và tin nhận pháp môn
ấy. Tôi xin cảm tạ quí ngài đă cho nhiều hoa
thật đẹp, thật thơm. Xin nguyện mùi thơm
của hoa sẽ tỏa khắp cơi người và cơi
trời.
Tu Bồ
Đề nói xong, chư thiên lại đảnh lễ
rồi trở về thiên giới.
Đói với
sự việc này - chư thiên tung hoa cúng dường và
ca ngợi - ngoại trừ Phật ra, chỉ có tôn
giả Tu Bồ Đề là người duy nhất trong
tăng đoàn được đón nhận cái vinh dự
ấy.
11.-
CHƯ THIÊN TRỔI NHẠC THĂM BỊNH:
Trong thời gian
cư ngụ tại núi Ḱ Xà, có một hôm Tu Bồ
Đề bị bịnh nặng, thân tâm vô cùng mệt
mỏi. Nhiều người thắc mắc tự
hỏi: “Một bậc thánh có công hạnh tu hành lớn
lao như vậy mà cũng phải bị bịnh hoạn
sao?” Sự thực th́ cái sắc thân của con
người vốn là pháp hữu vi, do nghiệp báo chiêu
cảm mà có. Đă là pháp hữu vi th́ đâu có tránh khỏi
được các hiện tượng khổ và vô
thường! Tuy Tu Bồ Đề đă chứng
được thánh quả, tâm ư đă hoàn toàn giải thoát,
nhưng cái thân thể hữu vi vẫn c̣n đó, cho nên
vẫn phải chịu những khổ đau của sinh,
già, bịnh, chết.
Lúc đó, Tu Bồ
Đề bịnh rất nặng, nhưng cố gắng
tự ḿnh trải tọa cụ xuống đất,
ngồi ngay thẳng trong tư thế hoa sen, giữ
vững chánh niệm và quán tưởng rằng: “Sự
đau khổ về bịnh hoạn của thân thể này
từ đâu mà có? Ta phải làm thế nào để tiêu
trừ được bịnh khổ này đây?” Tôn
giả cứ quán niệm về các câu hỏi ấy
rồi tự trả lời: “Nguyên nhân đưa
đến bịnh khổ cho thân thể một phần là
các nghiệp báo tích lũy từ thời quá khứ, một
phần khác là do sự bất ổn trong mối quan hệ
giữa các duyên trong đời hiện tại. Thuốc men
chỉ có thể trị bịnh tạm thời mà không
thể làm cho khổ đau tiêu trừ tận gốc
rễ. Chỉ có sám hối tội nghiệp, tu tập
thiền quán, thấy rơ nhân quả để tiêu trừ
khổ đau nơi tâm ư th́ cái khổ đau nơi thân
thể mới không c̣n nữa”.
Tôn giả cứ
tiếp tục như thế, một lúc sau th́ cảm
thấy thân tâm thư thái, nhẹ nhàng tự tại,
những khổ đau của bịnh hoạn tan biến
hoàn toàn.
Chính vào lúc đó,
trời Đế Thích dă cùng năm trăm thiên chúng, cùng
rất đông các vị thần âm nhạc giáng lâm núi Ḱ Xà.
Họ đến trước mặt Tu Bồ Đề,
tấu nhạc và hát rằng:
Uy đức người ngần ngật như trời
cao,
Công hạnh người hun hút như sông dài.
Vượt thoát biển sinh tử,
Dập tắt lửa hữu vi,
Lắng trong các hành nghiệp,
Dứt sạch bao phiền năo.
Từ thiền định, tuệ giác người sáng
tỏ,
Bịnh khổ giờ đă tiêu trừ,
Pháp thể giờ đă khinh an.
Khúc hát dứt, âm
nhạc ngưng. Trời Đế Thích cùng thiên chúng bái
kiến Tu Bồ Đề. Tôn giả đáp lễ và khen
ngợi:
- Tiếng nhạc
và lời ca của quí ngài thật là tuyệt vời!
Trời Đế
Thích hỏi thăm:
- Xin hỏi
thăm tôn giả, lúc này bịnh t́nh đă khỏi hẳn
chưa?
Tôn giả trả
lời:
- Các pháp từ nhân
duyên sinh ra và cũng từ nhân duyên mà tiêu diệt. Nhân duyên
ḥa hợp th́ có chuyển động và sinh thành, nhân duyên
phân ră th́ các pháp đ́nh chỉ và tan ră. Các pháp làm thành nhau mà
cũng tiêu diệt nhau. Các pháp sinh ra một pháp và một pháp
sinh ra các pháp. Mỗi pháp tự nó đều có nhân, có duyên
và có quả. Dùng cái trắng trị cái đen và
đồng thời dùng cái đen trị cái trắng.
Muốn trị bịnh tham dục th́ dùng phép quán
niệm về sự không trong sạch; trị
bịnh sân hận th́ dùng phép quán niệm về ḷng
từ bi; trị bịnh ngu si thi phải dùng trí
tuệ giác ngộ. Tất cả vạn pháp trong thế
gian đều là biểu hiện của tính không, không
có tướng ngă, không có tướng nhân, không có
phân biệt nam nữ, không có ǵ khác nhau giữa phải
và trái, tất cả vạn pháp đều “là
như vậy". Quí ngài hăy nh́n xem, gió băo có thể xô
ngă cây to, sương tuyết có thể làm hư bông lúa;
nhưng những cây cỏ khô héo kia, nếu gặp tiết
xuân ấm áp, mưa thuận gió ḥa th́ tức khắc
hồi sinh, đâm chồi nẩy lộc. Các pháp có những
lúc chống phá nhau mà rồi cũng có những lúc làm cho nhau
được an định. Cái bịnh khổ của Tu
Bồ Đề này sinh ta, đó là lúc các pháp chống phá
nhau; nhưng pháp Phật như nước cam lồ,
thiền quán như gió mùa xuân, tôi nhờ đó mà bịnh
t́nh b́nh phục. Tôi xin cám ơn quí ngài đă ân cần
đến thăm. Hiện giờ tôi cảm thấy thân
tâm đều an lạc tự tại.
Thiên chúng vô cùng hoan
hỉ, đảnh lễ, tôn giả, rồi trở về
thiên cung, c̣n lại một ḿnh, tôn giả trầm ngâm
độc thoại:
Đức Phật
từng từ bi dạy bảo,
Chỉ có Phật pháp mơí chữa trị được
những đau khổ của thân tâm.
Nhưng không phải đợi đến lúc bị
bịnh mới cầu xin,
Mà hàng ngày phải nghe pháp tu hành,
Tạo căn cơ đầy đủ cho sự
chứng ngộ.
Nên sám hối nghiệp chướng,
Vững tin vào nhân quả,
Và tích lũy phước huệ,
Đó mới là phương thuốc mầu nhiệm
của mọi bịnh khổ.
12.-
GIẢNG LUẬN DIỆU LÍ “KHÔNG” TẠI PHÁP HỘI BÁT NHĂ:
Một hôm tại
pháp hội Bát Nhă, đức Phật bảo tôn
giả Tu Bồ Đề:
- Này Tu Bồ
Đề! Thầy đă thể hội được
đạo lí chân không, lại có đầy đủ
biện tài. Trong pháp hội hôm nay có sự hiện diện
rất đông của chúng Bồ Tát, thầy hăy nói cho
họ nghe về pháp “Tương Ưng Bát Nhă Ba La
Mật” để họ bổ túc thêm cho sự học
hỏi và cũng là để cùng nhau sách tấn việc tu
tập.
Tất cả
đại chúng đều biết rằng pháp môn Bát Nhă là
pháp môn vô cùng sâu xa mầu nhiệm. Nay nghe đức
Phật bảo thế th́ họ đều tự hỏi
rằng, Tu Bồ Đề sẽ dùng trí tuệ biện
tài của chính ḿnh hay thừa thọ uy lực của
đức Phật để thuyết minh?
Tôn giả đă thấy rơ tâm ư
ấy của đại chúng, bèn nói:
- Đă có từ mệnh của Phật, tôi đâu dám không
tuân. Là đệ tử Phật, mỗi khi chúng ta thuyết
giáo, bất luận là giáo pháp sâu hay cạn, nếu đáp
ứng được hai điều kiện khế lí
và khế cơ, là đều do thừa thọ uy
lực của Phật cả. Bởi v́, có thừa thọ
tuy lực của Phật th́ mới có thể khuyên
người tu học, có thể thực chứng
được bản tính của vạn pháp, có thể
tương ưng với thật tướng của
vạn pháp, cũng như có thể cảm thông
được tâm ư của đức Phật. Hôm nay tôi
cũng xin nương vào uy lực của đức
Phật để nói về pháp “Tương Ưng
của Trí Tuệ Bát Nhă” của những người tu
học đạo Bồ Tát.
Tôn giả lại
đảnh lễ Phật và thưa rằng:
Bạch Thế
Tôn! Vâng lời dạy của Thế Tôn, giờ đây con
xin nói về pháp tương ưng giữa Bồ Tát và trí
bát nhă. Nhưng pháp ǵ gọi là Bồ Tát, và pháp ǵ gọi là
bát nhă? Thật ra con không thấy có pháp nào gọi là Bồ
Tát, cũng không thấy có pháp nào gọi là bát nhă. Thậm
chí cả cái danh xưng của hai pháp này, con cũng không
thấy có ǵ khác nhau để phân biệt. Bạch Thế
Tôn! Pháp tương ưng giữa Bồ Tát và trí bát nhă là
như thế. Xin Thế Tôn chỉ dạy cho, con nói như
thế đă đủ để bổ túc cho sự tu
học cho chúng Bồ Tát chưa?
Đức
Phật hoan hỉ khai thị:
- Này Tu Bồ
Đề! Bồ Tát chỉ có cái danh xưng là Bồ Tát;
bát nhă cũng chỉ có cái danh xưng là bát nhă; ngay cả cái
gọi là danh xưng của Bồ Tát và bát nhă cũng
chỉ có danh xưng mà thôi. Cái đó vốn không sinh
không diệt, chẳng qua v́ để tiện việc
diễn nói mà phải tạm lập ra danh xưng. Cái
giả danh ấy cũng không phải ở trong, không phải
ở ngoài, cũng không phải là ở khoảng giữa
của trong và ngoài; nó vốn là cái ǵ không thể
nắm được (bất khả đắc). Cũng
ví như nói ngă, đó cũng cũng chỉ là giả
danh. Bản thể của ngă vốn không sinh không
diệt. Tất cả các pháp hữu vi đều giống
như giấc mộng, như tiếng vang, như bóng,
như ảo, như trăng dưới nước. Mặc
dù vậy, này thầy Tu Bồ Đề! Bồ Tát muốn
chứng đạt cái không sinh không diệt, vẫn
phải tu học cái giả danh và giả pháp của pháp
Bồ Tát và pháp bát nhă. Này thầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát tu học pháp bát nhă, sắc thọ tưởng
hành thức là thường hay vô thường, vui hay
khổ, ngă hay vô ngă, không hay bất không, hữu
tướng hay vô tướng, hữu vi hay vô vi, dơ hay
sạch, sinh hay diệt, lành hay dữ, hữu lậu hay vô
lậu, thế gian hay xuất thế gian, luân hồi hay
niết bàn, đối với tất cả các pháp ấy
đều không chấp trước, không phân biệt, và
đối với tất cả các pháp khác nữa cũng
đều như vậy. Này thầy Tu Bồ Đề! V́
sao Như Lai nói thế? V́ Bồ Tát khi tu học pháp bát nhă
th́ đối với tất cả vạn pháp không nên sinh
tâm phân biệt mà phải an trú ở tính không, an trú
ở tính vô phân biệt. Bồ Tát khi tu học sáu pháp
ba la mật cùng các hạnh bồ tát khác cũng không
thấy có danh xưng Bồ Tát, không thấy có danh xưng
ba la mật. Bồ Tát chỉ cầu đạt
được tuệ giác siêu việt, thấy tất
cả đều là thật tướng của các pháp, và
cái thật tướng ấy th́ không dơ, không sạch.
Nếu Bồ Tát quán chiếu và tu tập pháp bát nhă như
thế, biết rằng danh tướng chỉ là v́
phương tiện mà giả tạm lập nên, th́
đối với sắc thọ tưởng hành thức
cùng tất cả các pháp khác đều không chấp
trước, đối với trí tuệ cũng không
chấp trước, đối với thần thông
cũng không chấp trước, đối với bất
cứ pháp ǵ cũng không chấp trước. V́ sao vậy?
Tại v́, nếu có chấp trước, th́ không bao giờ
đạt được giải thoát. Này Tu Bồ
Đề! Khi Bồ Tát quán chiếu và tu học pháp bát nhă
như vậy và không chấp trước đối
với tất cả vạn pháp th́ có thể hoàn thành công
hạnh tu tập sáu pháp ba la mật, có thể tiến vào
quả vị bất thối, đầy đủ
thần thông, qua lại các cơi Phật, hóa độ chúng
sinh, trang nghiêm Phật độ, và tự ḿnh an trú trong
cảnh giới tự tại giải thoát. Này Tu Bồ
Đề! Sắc có phải là Bồ Tát không! Thọ,
tưởng, hành, thức, có phải là Bồ Tát không?
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ư, có phải là Bồ
Tát không? Đất, nước, gió, lửa, không, thức,
có phải là Bồ Tát không? Người nào xa ĺa
được sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, đất,
nước, gió, lửa, không, thức, cũng có phải là
Bồ Tát không?
Tu Bồ
Đề thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Tất cả những ǵ Thế Tôn vừa nêu lên đó,
đều không thể gọi là Bồ Tát.
- Này Tu Bồ
Đề! V́ sao mà thầy bảo là tất cả những
ǵ tôi vừa nêu lên đó đều không thể gọi là
Bồ Tát! Thầy có thể cho biết được không?
- Bạch Thế
Tôn! Cái mà xưa nay vẫn được gọi là chúng
sinh là cái không thể biết, không thể nắm
bắt; bất luận là pháp ǵ đi nữa, kể cả
Bồ Tát, cũng đều là như vậy cả.
Bảo rằng có pháp này, bảo rằng không có pháp này, cho
đến bảo rằng xa ĺa pháp này, đều không
thể gọi là Bồ Tát.
Phật khen
ngợi:
- Đúng như
vậy, thầy Tu Bồ Đề! Cái được
gọi là Bồ Tát, được gọi là bát nhă
đều không thể nắm bắt. Bồ Tát tuy đang
tu tập nhưng vốn thật không có tu tập. Này
thầy Tu Bồ Đề! Tôi lại hỏi thầy, các
pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v.. có
phải là ư nghĩa bồ tát không?
- Bạch Thế
Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v...
đều không phải là ư nghĩa bồ tát.
- Tu Bồ
Đề! Thầy nói rất đúng. Bồ Tát khi tu
tập trí tuệ bát nhă, đối với các pháp sắc
thọ tưởng hành thức, hoặc thường
hoặc vô thường, hoặc hữu vi hoặc vô vi
v.v... đều không thể nắm bắt. Bồ Tát hăy
lấy tâm ư trống không rộng răi để tu tập trí
tuệ bát nhă. Này Tu Bồ Đề! Thầy nói thầy
không thấy có Bồ Tát cùng danh xưng Bồ Tát, pháp cùng pháp
giới, pháp giới cùng nhăn giới, nhăn giới cùng ư
thức giới v.v... những pháp tương đối
này đều không phải là đối lập nhau. V́ sao
vậy? V́ nếu bỏ pháp hữu vi th́ không thể
thành lập pháp vô vi được. Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát tu tập trí tuệ bát nhă như thế đó,
không thấy có bất cứ pháp ǵ th́ sẽ không có sợ
hăi, tâm ư không dính mắc ở bất cứ pháp nào th́
sẽ không có hối hận. Như thầy đă nói,
Bồ Tát tu học trí tuệ bát nhă như thế đó
cũng không dính mắc vào danh xưng Bồ Tát, đó
mới là chân danh Bồ Tát, chân danh Bát nhă; đó mới là
giáo pháp của Bồ Tát đă nói.
Trong số mấy
vạn thính chúng tại pháp hội Bát Nhă này, chỉ có
đức Phật và Tu Bồ Đề đối
thoại với nhau, đó là v́ chỉ có Tu Bồ
Đề là người thể chứng được
trí tuệ bát nhă và có nhận thức sâu sắc, rốt ráo
về đạo lí KHÔNG sâu xa mầu nhiệm, và
cũng v́ thế mà tôn giả được tôn xưng là
vị thượng thủ hiểu rơ về tính không
bậc nhất trong tăng đoàn.