Mười Vị Đệ
Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả ƯU BA LI
(Upali)
(Vị luật sư mô phạm và uy tín nhất)
1.- XUẤT
TỪ GIAI CẤP NÔ LỆ:
Theo luật lệ
khắc nghiệt về giai cấp của xă hội Ấn
Độ thời Phật tại thế, việc tôn
giả Ưu Ba Li được liệt vào một trong
mười vị đệ tử thượng thủ
của Phật không phải là một việc b́nh
thường!
Ưu Ba Li nguyên
xuất thân từ chủng tộc Thủ đà la, tức
giai cấp nô lệ, hạ tiện. Từ lúc mới sinh
ra, những người thuộc giai cấp này đă
bị xă hội ḱ thị, coi như phân rác, không thèm ngó
tới. Trên đường đi, nếu gặp những
người của hai giai cấp Bà la môn và Sát đế
lị th́ họ phải qú nép bên lề, nhường
đường cho người kia đi qua; nếu lén nh́n
trộm những người kia th́ họ liền bị
móc mắt; nếu biện bạch tự bào chữa th́
liền bị cắt lưỡi. Suốt đời
họ chỉ được làm nô lệ cho các giai cấp
trên. Thân phận của Ưu Ba Li buồn thảm, đáng
thương là vậy! Chàng chỉ có một nguồn an
ủi duy nhất, đó là t́nh yêu thương vô bờ
của cha mẹ!
Từ nhỏ,
Ưu Ba Li đă không được học hành. Theo
luật Ma Nỗ của đạo Bà la môn, chủng
tộc Thủ đà la không có quyền học tập. Cho
nên, dù có tâm chí đi nữa, việc học hành đối
với Ưu Ba Li cũng chỉ là mộng tưởng mà
thôi! Khi chàng đă khôn lớn, cha mẹ chỉ biết mong
cho con ḿnh học được một nghề ǵ đó
để nuôi thân. Vào thời đó, những nghề
như công chức chính phủ, thương gia, địa
chủ, v.v... những người thuộc giai cấp
Thủ đà là không được phép làm. Họ chỉ
được làm những công việc dành riêng cho giới
nô lệ như nông dân, thợ thuyền, tôi tớ v.v... mà
thôi. Ưu Ba Li là người rất gầy yếu, v́
thế mà cha mẹ không muốn cho chàng phải làm những
nghề nặng nhọc, vất vả quá sức như làm
ruộng, đánh xe, giữ ngựa v.v... mà chỉ muốn
chàng được làm tôi tớ cho một người
chủ giàu ḷng nhân ái nào đó. Muốn t́m được
một người chủ tốt th́ trước hết
phải tạo cho ḿnh có một khả năng chuyên môn nào
đó để được người chú ư
đến. Suy đi tính lại, cha mẹ chàng bèn quyết
định cho chàng đi học nghề hớt tớc. Tâm
tánh Ưu Ba Li vốn trong sáng và thuần phác, cho nên chàng
học nghề không mấy khó khăn; chẳng mấy
chốc, tất cả các kiểu tóc cũng như các cách
thức cắt uốn, chàng đều rành rẽ. Có
nghề rồi, cha mẹ chàng lại nhờ người
giới thiệu, và may mắn thay, chàng được
tuyển vào làm thợ hớt tóc trong hoàng cung Ca T́ La Vệ!
Tuy chỉ là
một anh nô lệ làm nghề hớt tóc, nhưng vốn
tâm địa thuần lương, trung thật, cho nên
chẳng bao lâu Ưu Ba Li được cả hoàng cung tín
nhiệm, thương mến, được giao cho
mỗi một công việc nhẹ nhàng là hớt tóc cho các
vương tử mà thôi. Chàng hớt tóc vừa cẩn
thận, vừa nhanh, vừa đẹp, lại không
đau, nên các vương tử như Bạt Đề, A
Na Luật v.v... thích lắm!
2.-
CẠO TÓC CHO PHẬT:
Vào năm thứ
ba sau ngày thành đạo, Phật trở về Ca T́ La
Vệ để thăm lại hoàng tộc. Bấy giờ
Ưu Ba Li khoảng hai mươi tuổi. Nhân Phật
cần người cạo tóc, chàng được giới
thiệu lên Phật. Đó là một sự ưu ái rất
lớn, nhưng đă làm cho chàng hoảng hồn! Chàng nghe
nói, Phật là bậc đại giác, có đến 32
tướng quí; và nếu thế th́ đầu tóc Phật
nhất định phải rất khác với người
thường! Vậy làm sao chàng dám đụng đến
đầu Phật, vạn nhất có điều ǵ sơ
suất th́ sao! Vốn đă có mặc cảm thấp hèn
rất sâu nặng từ thuở nhỏ, chàng chỉ
thấy Phật hiện là một vị thái tử đi tu
đắc đạo, lấy mắt nh́n c̣n không dám,
lại dám đụng đến đầu Ngài sao!
Chẳng biết tính sao, chàng bèn chạy một mạch
về nhà thưa chuyện với mẹ để xin ư
kiến. Bà mẹ liền trấn an chàng. Bà khuyên chàng
đừng sợ sệt Phật, rằng Ngài là
người giàu t́nh thương, đă từng tiếp xúc
và giáo hóa những kẻ khốn cùng; rằng không bao
giờ Ngài dùng cặp mắt của kẻ quyền
thế để nh́n người, cho nên nhất
định Ngài cũng không bao giờ khinh ghét chủng
tộc Thủ đà la ... Nhưng dù bà có trấn an thế
nào, Ưu Ba Li vẫn không hết sợ sệt. Không
biết làm cách nào, bà liền quyết định sẽ
đích thân dắt chàng đi cạo tóc cho Phật.
Sáng hôm sau, bà
dẫn Ưu Ba Li vào cung, trước hết xin
được bái kiến Phật, sau đó mới bảo
Ưu Ba Li cạo tóc cho Phật. Chàg vâng lời, bèn tập
trung tâm ư, cạo tóc cho Phật một cách hết sức
chậm răi, cẩn trọng. Bà đứng một bên
chăm chú nh́n từng động tác của con ḿnh.
Được một lúc, bà qú xuống thưa hỏi
Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Anh ấy cong
người nhiều quá!
Câu trả lời
của Phật nghe có vẻ như lạ, v́ Ưu Ba Li
tỏ vẻ cung kính đối với Phật nên
đứng khom lưng, không dám đứng thẳng;
nhưng theo truyền thuyết, qua câu nói ấy Phật có ư
bảo cho biết, trong giờ phút đó, khi đang hết
sức tập trung tâm ư, Ưu Ba Li đă nhập Sơ
thiền.
Một lúc sau, bà
lại hỏi:
- Bạch Thế
Tôn! Bây giờ th́ Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế
nào?
- Bây giờ th́
người anh ấy rất thẳng!
Nghe Phật
bảo thế, Ưu Ba Li càng chú mục tâm ư hơn nữa,
và cũng theo truyền thuyết, lúc bấy giờ chàng
đang ở bậc Nhị thiền.
Chẳng bao lâu,
mẹ chàng lại thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Bây giờ th́ Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế
nào?
- Hơi thở vào
c̣n nặng nề lắm!
Ưu Ba Li nghe
thế bèn để hết tâm ư vào hơi thở vô ra. Theo
truyền thuyết, lúc đó chàng đang nhập Tam
thiền.
Cuối cùng,
mẹ chàng lại thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Bây giờ th́ Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Hơi thở ra
c̣n nặng nề lắm!
Lúc đó, bỗng
nhiên tâm ư Ưu Ba Li hoàn toàn vắng lặng, không c̣n một
niệm nào móng khởi, cả con dạo cạo trong tay
cũng quên luôn ... Theo truyền thuyết, vào lúc đó chàng
đă chứng nhập Tứ thiền! Ngay lúc ấy,
Phật quay sang bảo quí vị t́ kheo đang đứng
bên cạnh:
Một thầy hăy
đến lấy xon dao cạo trong tay Ưu Ba Li ra! Anh
ấy đang trụ trong trạng thái Tứ thiền, quí
thầy hăy đỡ anh ấy, đừng để bị
ngă xuống đất!
Qua câu chuyện,
chúng ta thấy Ưu Ba Li là người cẩn trọng
đối với hành vi cử chỉ của ḿnh biết
chừng nào! Mỗi khi nghe người ta nói đến
một khuyết điểm nào của ḿnh, tôn giả
liền nhận thức ngay và sửa đổi tức
khắc. V́ bản tính quá cẩn trọng và luôn luôn nghiêm túc
như vậy cho nên tôn giả ít khi để cho mọi
người chung quanh phải có một lời b́nh phẩm
không tốt nào về ḿnh, và đó cũng là lí do sau này tôn
giả được đại chúng tôn xưng là vị
ǵn giữ giới luật nghiêm túc số một trong
tăng đoàn.
3.-
AI XUẤT GIA TRƯỚC LÀ SƯ HUYNH:
Trong chuyến
hồi hương lần đầu tiên đó của
Phật, cả hoàng cung và khắp kinh thành Ca T́ La Vệ
đă được thấm nhuần mưa pháp. Cũng
như hạt giống đă được gieo xuống
đất rồi đâm rễ nẩy mầm, các vị
vương tử trong ḍng họ Thích Ca, sau khi nghe Phật
nói pháp, đều muốn theo Phật xuất gia. Bấy
giờ có bảy vị vương tử (trong đó có
Bạt Đề, A Nan và A Na Luật), người th́
được cha mẹ chấp thuận, người th́
không, cùng rủ nhau đến vườn Ni Câu Đà
(Nyagroda - Nigrodha) t́m Phật. (Theo Đường Xưa
Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh, bảy
vị vương tử đó là Nan Đà, A Na Luật,
Bạt Đề, Đề Bà Đạt Đa, A Nan, Ḱm T́
La và Bà Cữu. Riêng Nan Đà th́ theo Phật tới
vườn Ni Câu Đà xuất gia trước; sáu vị
c̣n lại, sau đó một tháng, mới t́m tới chỗ
Phật đang hành hóa ở phía Bắc vương quốc
Mạt La, sát biên giới phía Nam của vương quốc
Thích Ca, chứ không phải ở vườn Ni Câu Đà; v́
Ni Câu Đà thuộc kinh thành Ca T́ La Vệ của
vương quốc Thích Ca. - Chú thích của người
dịch). Muốn xuất gia th́ phải cạo tóc,
bởi vậy họ đă phải lén dắt Ưu Ba Li
đi theo.
Dưới
một bóng cây, lúc đang cạo tóc cho vương tử
Bạt Đề, th́ nước mắt của Ưu Ba Li
bỗng nhiên chảy ràn rụa. A Na Luật thấy thế
th́ vặn hỏi:
- Ngươi
thấy anh em ta đi xuất gia th́ vui mừng mới
phải, tại sao ngươi lại khóc?
Ưu Ba Li khép nép
thưa:
- Thưa
vương tử, xin tha thức cho con tội vô lễ!
Bởi v́ vương tử Bạt Đề đă
từng đối xử với con rất tốt. Nay quí
vương tử đều đi xuất gia rồi sau
này quí vương tử sẽ vân du bốn phương,
lúc đó con biết t́m quí vương tử ở đâu!
Cứ nghĩ đến điều này là con muốn khóc,
xin vương tử thương mà đừng trách
mắng con.
A Na Luật an ủi:
- Ngươi đừng buồn nữa, anh em ta sẽ giúp
đỡ cho ngươi có được cuộc sống
khá giả.
A Na Luật quay
lại nói với các vị vương tử khác:
- Này chư huynh
đệ! Ưu Ba Li hầu hạ anh em chúng ta đă lâu,
rất siêng năng và trung thành. Nay anh em chúng ta đều
đi xuất gia th́ trước hăy giúp đỡ cho anh
ấy có một cuộc sống khá giả về sau. Tôi xin
đề nghị: Sau khi xuất gia rồi th́ chúng ta
đâu có dùng tới đồ trang sức nữa nữa.
Vậy tôi trải tấm giạ ra đây, xin quí huynh hăy
cởi tất cả đồ trang sức bỏ xuống
đây để tặng cho anh ấy làm vốn sinh nhai!
Các vị
vương tử vui vẻ tán thành lời đề
nghị của A Na Luật. Họ cởi tất cả
hoàng bào cùng ṿng ngọc châu báu đang đeo trên
người, đem biếu hết cho Ưu Ba Li, và bảo
chàng hăy trở về lại thành Ca T́ La Vệ sinh sống,
rồi cùng nhau nhắm nơi cư trú của Phật mà
bước đi ...
Ưu Ba Li vừa
muốn quay về lại kinh thành th́ bỗng chuyển
niệm. Chàng nghĩ: “Bây giờ nếu ḿnh mang hoàng bào
cùng châu ngọc này trở về th́ chắc chắn là
phải bị vua cùng các vương công đại thần
trong hoàng tộc trị tội. Vả lại, các vị
vương tử tôn quí là thế, mà dám từ bỏ
tất cả vinh hoa phú quí của thế gian để
đi xuất gia, huống nữa là một kẻ hạ
tiện như ḿnh, không có ǵ cả trên thế gian này th́
lấy ǵ để lưu luyến! Vậy th́ ḿnh cũng
nên đi t́m Phật để xin xuất gia! ...”
Suy nghĩ như
vậy rồi, không c̣n chút do dự, Ưu Ba Li quyết
định thi hành ư định. Chàng liền đem
đống hoàng bào và các thứ châu ngọc treo lên cành cây,
rồi bước theo con đường các vương
tử đă đi khi năy ...
Đi một
chặng đựng, bỗng nhiên nhớ lại thân
phận ḿnh, chàng lại tủi thân, buồn khổ. Không
cầm được nước mắt, chàng liền
ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa than:
“Ḿnh làm sao có đủ tư cách để xuất gia!
Các vị kia đều là vương tử, c̣n ḿnh th́
chỉ là kẻ nô bộc, làm sao dám sánh ngang với họ!”
Rồi chàng oán than nào là thế gian không b́nh đẳng, nào
là phần số bất hạnh của chính bản thân ḿnh
... Bỗng đâu có tiếng người hỏi bên tai:
- Anh làm sao mà khóc
than năo nuột như thế?
Chàng quay
đầu nh́n lại th́ hóa ra là tôn giả Xá Lợi
Phất. Chàng vội vàng lau nước mắt, qú trước
tôn giả trần t́nh:
- Bạch
đại đức! Đại đức là vị
đệ tử lớn của Phật. Con biết
đại được từ khi đại đức
theo Phật về hoàng cung. Nay con có một chuyện xin
thỉnh ư đại đức. Một người
thuộc chủng tộc Thủ đà la như con, nếu
muốn theo Phật xuất gia có được không, hay
đó chỉ là vọng tưởng xa vời?
- Tên anh là ǵ?
- Thưa con tên là
Ưu Ba Li.
Tôn giả Xá Lợi
Phất liền nhớ lại thời gian vừa qua ở
hoàng cung, có một thanh niên đứng cạo tóc cho
Phật mà nhập đến Tứ thiền, chắc hẳn
là người này đây; bèn khai thị:
- Giáo pháp của
Phật là giáo pháp tự do, b́nh đẳng và từ bi.
Bất luận là ai, dù có trí tuệ hay không, dù nghề
nghiệp và địa vị cao hay thấp, chỉ cần
giữ ǵn giới luật thanh tịnh là đều có
thể trở thành đệ tử của Phật,
đều có thể xuất gia và đều có thể
chứng quả vô thượng chánh giác. Anh hăy đi theo tôi
đến bái kiến Phật. Nhất định Ngài
sẽ hoan hỉ chấp nhận cho anh xuất gia làm
đệ tử của Ngài.
Ưu Ba Li sung
sướng, tức khắc theo tôn giả Xá Lợi
Phất đi bái kiến Phật. Phật cũng rất
hoan hỉ, đích thân xuống tóc và thọ giới cho
chàng. Sau đó Ngài dạy:
- Này Ưu Ba Li!
Thầy đă có rất nhiều căn lành, trong
tương lai nhất định thầy sẽ có
đầy đủ khả năng tuyên dương
Phật pháp. Khi thầy chưa đến đây th́ nhóm các
vương tử Bạt Đề đă đến
trước rồi, cũng để xin xuất gia; tuy
nhiên, Như Lai chỉ mới mới chấp thuận trên
nguyên tắc. Họ c̣n phải tĩnh cư tu tập trong
bảy ngày để hoàn toàn quên đi cái thân phận
vương tử của họ, sau đó mới
được chính thức xuất gia và được
cùng thầy tương kiến.
Ưu Ba Li cảm
kích cùng cực. Lúc trước đă từng cạo tóc cho
Phật, nhưng tôn giả đâu có tưởng
tượng nổi là Phật từ bi đến
độ ấy! Cho nên tôn giả thầm nguyện là
phải hết ḷng theo Phật tu tập, làm sao để
trở thành là một người đệ tử thật
xứng đáng của Người.
Bảy ngày tĩnh
cư của nhóm vương tử Bạt Đề đă
măn, Phật gọi ra để cùng đại chúng diện
kiến. Đứng trước đại chúng, họ
bỗng ngỡ ngàng trông thấy t́ kheo Ưu Ba Li! Họ
cảm thấy thật là lúng túng, không biết nên xưng hô
thế nào với Ưu Ba Li cho phải đây! Phật
hiểu được tâm ư họ, liền uy nghiêm bảo:
- Các ông c̣n trù trừ
ǵ nữ? Phàm xuất gia học đạo th́ trước
hết là phải diệt trừ cái tâm kiêu mạn. Ưu Ba
Li nay đă xuất gia, đă thọ giới và trở thành
một vị t́ kheo rồi, th́ các ông nên đảnh lễ
cho đúng pháp.
Bảy vị
vương tử nghe Phật dạy thế, liền
đem tâm chân thành hướng về tôn giả Ưu Ba Li
đảnh lễ; và sự kiện này lại làm cho ḷng tin
của họ nơi Phật pháp càng thêm vững chắc;
trong khi đó th́ Ưu Ba Li lại cảm thấy áy náy không
yên. Phật thấy rơ được tâm trạng ấy,
bèn dạy:
- Từ nay, thầy
hăy lấy tư cách của một vị sư huynh mà
đối xử với họ!
Sự kiện Ưu
Ba Li xuất gia đă khiến cho pháp chế của
Phật trở thành hiện thực. Pháp chế ấy
được đặt trên tinh thần “Nước
trăm sông đều chảy về biển; người
ở bốn giai cấp đều được xuất
gia và cùng chung một họ Thích Ca”. Ở xă hội th́
sự phân biệt giai cấp vô cùng khắc nghiệt,
nhưng trong giáo đoàn của Phật th́ sự phân
biệt ấy đă bị đánh tan; và đó cũng là
sự việc xảy ra lần đầu tiên trong lịch
sử Ấn Độ.
4.-
TRONG MỘT KIẾP TRƯỚC:
Ngay trong mùa an cư
năm ấy, v́ rất tinh tấn trong công phu tu học, tôn
giả đă đạt được quả vị giác
ngộ, nghiễm nhiên trở thành một vị
thượng thủ trong giáo đoàn, được cả
hai giới xuất gia cũng như tại gia đều
tôn kính. Sự việc đó đă làm cho mọi
người kinh ngạc. Một người vốn
thuộc chủng tộc Thủ đà la hạ tiện, mà
căn cơ lại mẫn tuệ đến thế! Tôn
giả không những đă chứng tỏ được
cái khả năng phi phàm của chủng tộc Thủ
đà la mà c̣n làm nổi bật ánh sáng b́nh đẳng
của đạo Phật nữa. Nhân đây, Phật
đă thuật lại một tiền kiếp của tôn
giả như sau:
“Thuở
trước có hai người nghèo khổ, cùng kết
bạn với nhau. Tuy là nhà nghèo, nhưng cả hai cùng có tâm
nguyện chuyên bố thí và làm việc từ thiện giúp
người. Do công đức ấy mà trong kiếp sau
đó, một người được sinh làm quốc
vương, tên là Phạm Đức; c̣n người kia,
sinh vào trong một gia đ́nh Bà la môn tiếng tăm
lừng lẫy, được mọi người sùng
kính, tên là Ưu Bà Già. Lớn lên, Ưu Bà Già lập gia
đ́nh với một cô gái rất xinh đẹp. Chàng yêu
vợ rất nhiều. Một ngày kia, v́ trông thấy chàng
tỏ thái độ thân mật với một cô gái khác, người
vợ liền nổi cơn ghen. Liên tiếp mấy ngày
đầu nàng c̣n than khóc, nhưng sau đó th́ suốt ngày
không thèm nói chuyện với chàng nữa. Người có tâm
nghi kị và ghen tương nặng nề kia lại chính
là người vợ mà chàng yêu thưong rất mực,
bởi vậy mà Ưu Bà Già không biết phải xử trí
ra sao, đành một ḿnh âm thầm buồn khổ! T́nh
cảnh ấy kéo dài đến nửa năm, từ
đầu xuân cho đến cuối hạ. Bỗng
một hôm, vợ chàng ôn tồn lên tiếng:
- Hôm nay xin chàng
xuống chợ mua ít hoa tươi về trang trí cho pḥng
ngủ của chúng ta!
Thốt nhiên nghe
vợ mở lời, người chồng nặng t́nh kia
cảm thấy vui mừng khôn tả. Chàng chạy ngay
xuống chợ mua hoa. Trên đường về nhà,
gặp lúc trời nắng như thiêu đốt, nhưng
v́ ḷng đang tràn trề niềm sung sướng
được vợ yêu thương, không ngăn
được cao hứng, chàng cất tiếng hát vang theo
nhịp chân bước. Đúng vào lúc ấy, vua Phạm
Đức đang đứng trên lầu hoàng cung nh́n xem
phong cảnh bốn phương. Ưu Bà Già đang đi
qua dưới chân hoàng thành, và tiếng hát của chàng
đă đập vào tai nhà vua. Vua rất lấy làm lạ,
nghĩ rằng xem cách ăn mặc th́ hắn đúng là
một người Bà la môn, nhưng giữa lúc trời
nắng gắt thế này mà vừa đi vừa ca hát
hớn hở như thế kia th́ chắc hẳn là hắn
đang có niềm vui ǵ lớn lao lắm! Nghĩ vậy,
nhà vua liền cho gọi Ưu Bà Già bệ kiến, Khi
đă biết rơ được tâm trạng chàng, nhà vua
cũng vui lắm, phong cho chàng một chức quan rất
cao, và rất sủng ái chàng.
Ưu Bà Già
được vua hết sức tín nhiệm, cho nên
quyền uy của chàng một ngày một lớn;
đến nỗi về sau, nhân dân chỉ biết có chàng
mà không c̣n biết đến vua nữa, nhưng Ưu Bà Già
vẫn chưa cho thế là đủ, c̣n có ư giết vua
để tiếm ngôi. Trong khi đang chờ cơ hội
thuận tiện để thực hiện ư đồ, th́
một hôm chàng bỗng giật ḿnh tỉnh ngộ; v́
cảm thấy một cách rất sâu sắc rằng, danh
vị và quyền lực thật là đáng sợ! Chàng
liền đem hết ư đồ xấu xa của chàng tâu
thật cho nhà vua Phạm Đức nghe. Nhà vua lại càng
quí mến sự trung thực của chàng; muốn gia ân cho,
nhưng chàng đă quyết từ bỏ mọi quyền
bính, sám hối tội lỗi, xuất gia tu hành, và chỉ
một thời gian ngắn sau đó, Ưu Bà Già đă
chứng được thần thông.
Lúc bấy giờ,
trong hoàng cung có một người thợ cạo tên là
Hằng Già Ba La. Khi nghe vua Phạm Đức khen ngợi
về sự xuất gia của Ưu Bà Già, ông cũng thấy
vui mừng, bèn phát tâm xuất gia, xin làm đệ tử
của Ưu Bà Già, v́ quyết tâm tu hành, sau ông cũng
chứng quả và được thần thông như
thầy ḿnh là Ưu Bà Già.
Một ngày nọ,
vua Phạm Đức lên núi cúng dường Ưu Bà Già. Sau
khi đảnh lễ cúng dường, nhà vua quán niệm
rằng, đối với người đă chứng
quả thánh rồi th́ ta không nên để tâm đến
chỗ xuất thân ngày xưa của họ. Quán niệm
như vậy xong nhà vua liền tự ḿnh đến
đảnh lễ Hằng Già Ba La; và sau đó lại
khuyến khích các quan viên tùy tùng cùng đến đảnh
lễ Hằng Già Ba La”.
Và Phật kết
luận: “Người được gọi là Ưu Bà
Ǵ trong câu chuyện chính là tiền thân của Như Lai; c̣n
người thợ cạo Hằng Già Ba La kia chính là Ưu
Ba Li ngày nay”.
Hằng Già Ba La tuy
xuất thân ở làng hạ tiện, nhưng do uy lực
của Phật pháp mà ông được quốc
vương tôn kính, lễ bái. Câu chuyện trên tuy là một
câu chuyện cổ của thời quá khứ xa xưa,
nhưng nó cho chúng ta thấy rằng, bản chất
của Phật pháp quả là không thời nào thay
đổi. Trong Phật pháp, nơi xuất thân của
mọi người không được đặt thành
vấn đề; bất cứ ai đạt
được quả vị giác ngộ th́ đều
được mọi người tôn kính. Không có sự
phân biệt giai cấp nào trong đạo quả giác
ngộ. Câu chuyện trên c̣n cho chúng ta hấy rơ hai sự
việc quan trọng: Thứ nhất, người ham mê
quyền lực th́ rất dễ sinh tâm giết hại
người khác - ngay như Phật, trong những tiền
kiếp tu nhân, vẫn không tránh khỏi lỗi lầm đó;
thứ nh́, tôn giả Ưu Ba Li vốn xuất thân từ
hàng tiện dân, nhưng đă tu tập và chứng quả,
trở thành một trong những vị thượng
thủ của giáo đoàn, việc đó không phải là
lần đầu tiên xảy ra, nhưng trong những
tiền kiếp tu nhân, tôn giả cũng đă từng
như thế. Cho nên, khi Phật kể câu chuyện ấy
xong th́ những mối nghi hoặc trong đại chúng
về Ưu Ba Li đều được giải
tỏa.
5.-
NHỮNG CẢNH NGỘ OÁI ĂM TRÊN ĐƯỜNG HÀNH
HÓA:
Sau khi chứng
ngộ, với cá tính cẩn trọng cố hữu, Ưu
Ba Li càng giữ ǵn nghiêm mật tất cả những giới
điều Phật đă chế ra, mọi cử chỉ
hành vi trong các sinh hoạt đi đứng nằm ngồi
hằng ngày đều theo đúng oai nghi tế hạnh.
Bởi vậy, chẳng bao lâu tôn giả đă
được đại chúng tôn xưng là vị
thượng thủ giữ ǵn giới luật bậc
nhất của giáo đoàn. Những ai có tâm tu hành chân chính
đều tỏ ḷng hoan hỉ và cung kính đối
với tôn giả. Tuy nhiên, trong giáo đoàn vẫn có
những vị sống buông thả, không theo qui củ, không
giữ ǵn giới hạnh, cho nên không thích gần những
người chuyên tâm giữ giới như tôn giả.
Đó cũng là lẽ đương nhiên. Những
người này đă không có thiện cảm với tôn
giả, lại đôi khi c̣n nói những điều không
tốt cho tôn giả!
Một vị t́ kheo
có giới hạnh, khi lưu trú tại tu viện th́
được những người ngưỡng mộ
đến tận cửa cúng dường; nhưng khi vị
ấy đi du phương hành hóa th́ không chắc chắn
là sẽ được mọi giới tăng cũng
như tục hoan nghênh. Một lần nọ, tôn giả và
một nhóm quí vị t́ kheo có giới hạnh khác cùng lên
đường đi các nơi hằng hóa. Để phát
huy tinh thần tuân thủ giới luật, họ
thường cử hành đúng đắn các phép yết ma
sám hối như yết ma quở trách, yết ma tẩn
xuất, yết ma y chỉ v.v... Nhưng có một số
vị t́ kheo nghe tin Ưu Ba Li sắp đến th́ trong ḷng
không thích. Họ cùng nhau bàn bạc. Một vị nói:
- Khi lăo t́ kheo Ưu
Ba Li đến đây th́ chỉ có việc là bắt chúng ta
phải làm như thế này, không được làm như
thế kia, sẽ làm chúng ta bực ḿnh lắm. Chi bằng
hăy t́m cách ngăn chận, không để cho lăo ta
đến th́ hơn.
Một vị khác
đề nghị:
- Khi nào lăo ấy
đến, chúng ta hăy đóng chặt cửa ngơ lại,
lấy ngọa cụ treo ngoài cửa, đừng ngó ngàng
ǵ tới lăo.
- Hay là, khi nào lăo
ấy tới th́ chúng ta bỏ đi nơi khác quách!
Tôn giả đă vài
lần gặp phải hoàn cảnh như vậy, cho nên
cũng có lúc nghĩ lại, không muốn đi du
phương bố giáo nữa; nhưng Phật th́ vẫn
khuyến khích tôn giả hoài.
Rồi một
lần, một vị t́ kheo tên là Du Lan Nan Đà, bỗng
nhiên đến mắng ngay mặt tôn giả:
- Ông không phải là
người chân tu! Sao ông cứ hay gây sóng gió quá vậy! Lúc
nào cũng theo bên Phật để bày vẽ nhiều
chuyện nọ kia, khi th́ “đây là hai bộ tăng
phải giữ ǵn, kia là một bộ tăng phải
giữ ǵn”; lúc th́ “điều này nên làm, điều
kia không nên làm”, làm cho cuộc sống của chúng tôi càng
thêm phiền phức, khó khăn!
Gặp những
trường hợp như vậy, tôn giả chỉ
biết nhẫn nhục mà không hề đối đáp
lại. Những người có ḷng tin chân chính và có tâm thành
giữ giới th́ luôn luôn tôn kính tôn giả; trái lại,
những người tu hành không chân thật th́ không ưa
tôn giả. Bởi vậy, Phật lúc nào cũng rất quan
tâm đến tôn giả. Có lần Phật hỏi thăm
một vị t́ kheo vừa đi hoằng hóa ở
phương xa mới về:
- Thầy có trông
thấy Ưu Ba Li không?
- Bạch Thế Tôn!
Con có thấy sư huynh Ưu Ba Li đang đi các nơi
để hoằng hóa.
- Tại các nơi
ấy, Ưu Ba Li có được mọi người cung
kính cúng dường không?
- Bạch Thế Tôn!
Con thấy ở một vài nơi người đối
với sư huynh con không được nhiệt t́nh
lắm. Các tín đồ tại gia th́ chưa từng
biết sư huynh con là người giữ ǵn giới
hạnh nghiêm túc, c̣n chư vị xuất gia th́ không
muốn thấy mặt sư huynh con; thậm chí một
số vị trong hàng ni chúng c̣n oán hận và mắng mỏ
sư huynh con.
Phật lo ngại
hỏi:
- V́ sao thế
nhỉ?
Vị t́ kheo cứ
t́nh thực trả lời:
- Tại v́ khọ
cảm thấy, sinh hoạt chung với một vị
giữ giới quá nghiêm túc th́ không thoải mái tí nào!
Phật nghe thấy
thế th́ không vui, liền cho triệu tập đại
chúng để giảng giải về sự tôn quí của
giới luật. Phật dạy, người nghiêm tŕ
giới luật giống như ngọn đèn sáng tỏ;
ai có phẩm hạnh đoan trang, thân tâm thanh tịnh th́
đều thích ở chỗ sáng sủa, c̣n ai có
điều ǵ ám muội th́ rất sợ ánh sáng mà chỉ
thích nơi tối tăm.
Phật cũng cho
mời quí vị t́ kheo và t́ kheo ni đă từng đối
xử không tốt với Ưu Ba Li đến, và hỏi
họ:
- Quí vị đă
từng không chịu đón tiếp, muốn lánh mặt,
thậm chí c̣n oán hận mắng mỏ đại
đức Ưu Ba Li phải không?
Trước mặt
Phật, họ không dám chối căi, đành phải thú
thật:
- Bạch Thế Tôn!
Thật có như vậy. Chúng con đă từng cư xử
vô lễ như thế đối với sư huynh của
chúng con.
Phật nghiêm
khắc quở trách:
- Quí vị như
thế là thiếu hiểu biết. Nếu không kính
trọng những vị t́ kheo giữ giới th́ kính
trọng ai! Giới luật chính là bậc thầy cao
cả của quí vị. Giới luật c̣n được
tôn trọng th́ Phật pháp c̣n trụ thế. Nếu quí
vị không tôn kính những vị giữ giới, th́
điều đó chỉ chứng tỏ rằng quí vị
đang ấp ủ những ư tưởng sai traí
đối với giáo pháp mà thôi.
Để bảo
vệ một vị t́ kheo giữ giới như Ưu Ba Li
mà Phật phải khiển trách quí vị t́ kheo và t́ kheo ni
kia một cách nặng nề như vậy, th́ chúng ta
thất đối với Phật, Ưu Ba Li có địa
vị trọng yếu biết chừng nào!
6.-
SỨ MẠNG H̉A GIẢI:
Trong tăng đoàn,
người tu hành chứng quả cũng đông, mà kẻ
buông lung phạm giới cũng không phải là ít. Những
vị t́ kheo như Ca Lưu Đà Di, Đề Bà, v.v... và
những vị t́ kheo ni như Tu Ma, Bà Phả, Du Lan Nan
Đà v.v... đều rất thường phạm
giới, Những hành vi và tai tiếng không tốt của
họ đă gây cho Phật nhiều ưu phiền. Bởi
vậy, Phật hay nhắc nhở đại chúng hăy
lấy cái hạnh giữ giới của tôn giả Ưu
Ba Li làm mẫu mực hành tŕ.
Tăng đoàn
vốn thanh tịnh và ḥa hợp. Nhưng cũng có một
số vị tính t́nh xấu xa khó mà sửa đổi, hay
tranh chấp phải trái, không nhường nhịn nhau, vừa
ảnh hưởng không tốt đến sự tu hành
của đại chúng, vừa làm mất danh dự của
tăng đoàn. Mỗi khi có sự tranh chấp giữa các
vị t́ kheo ở tại một địa phương
nào. Phật đều phái một vị thượng
thủ đến để ḥa giải. Vị
được phái đi, không những là bậc
đạo cao đức trọng, mà c̣n có khả năng
xét đoán phải trái để cho sự dàn xếp lúc nào
cũng được công minh. Và hầu hết các công
việc ḥa giải này, Phật đều giao cho Ưu Ba Li
đảm trách - điển h́nh là những vụ tranh căi
ở các xứ Câu Diễm Di, Sa Ḱ v.v... Tôn giả đă
trở thành một sứ giả của ḥa giải,
giống như nắng ấm mùa xuân, ánh sáng chiếu
đến đâu th́ băng tuyết tiêu tan đến
đấy.
Tôn giả luôn theo
hầu bên Phật, nên rất thường ở tại Xá
Vệ. Tăng chúng ở thành Xá Vệ rất ḥa hợp,
tại v́ họ thường được kề cận
bên Phật, một thầy một đạo, như
nước ḥa với sữa, ít khi có sự ǵ không vui
xảy ra.
Tôn giả lại
rất hiểu tâm ư của Phật. Mỗi khi vâng mệnh
Phật đi giải quyết những tranh chấp, tôn
giả đều thi hành theo một nguyên tắc: “Tranh
chấp ở đâu th́ chấm dứt ngay ở đó”.
Theo nguyên tắc này, tôn giả không bao giờ đem
người và sự việc tranh chấp ở chỗ này
đi nói ở chỗ khác. Chuyện thị phi xảy ra
ở đâu th́ giải quyết ngay ở đó. Tôn giả
cũng không bao giờ để cho các cuộc tranh chấp
trở nên ồn ào, lớn rộng; khi những tranh
chấp đă được chấm dứt th́ các vết
tích cũng nhất định không c̣n.
Nhưng có một
lần nọ, đang trong mùa an cư, Phật sai tôn
giả sang xứ Sa Ḱ để giúp giải quyết
một vụ tranh chấp. Tôn giả đă từ thác không
đi. Phật hỏi:
- V́ sao thầy không
đi?
Tôn giả cảm
thấy rằng, việc tranh chấp lần này, nếu
Phật không thân hành đi giải quyết th́ không thể
chấm dứt được; nhưng tôn giả cũng
không tiện thưa thẳng với Phật điều
đó, đành cứ quanh co thoái thác:
- Bạch Thế Tôn!
Chiếc y của con quá nặng, nếu giữa
đường bị mưa ướt th́ khó mà khô
được; c̣n nếu mang theo thêm một chiếc
nữa để pḥng hờ th́ lại không hợp với
giới pháp, v́ đang trong mùa an cư. Xin Thế Tôn từ
bi, miễn cho con khỏi đi lần này!
Nghe vậy, Phật
chỉ muốn tôn giả đi điều tra sự
việc trước mà thôi, nên hỏi:
- Thầy chỉ
đi vài ngày rồi trở về được không?
- Bạch Thế Tôn!
Nếu quả thực con không đi không được, v́
từ thành Xá Vệ đến Sa Ḱ phải mất hai ngày,
ở lại đó hai ngày, và trở về hai ngày nữa,
cả thảy phải mất sáu ngày con mới về
đến đây.
Phật gật
đầu bảo:
- Từ nay về
sau, trong mùa an cư, tăng chúng được phép giữ
trong người hai chiếc y trong thời gian sáu ngày, không
phạm luật.
V́ muốn nhờ
Ưu Ba Li đi điều tra việc tranh chấp mà
Phật cho phép sửa đổi một giới
điều đă ban hành. Đó chẳng phải là đem
giới pháp chiều người, nhưng v́ tôn giả là
người vô cùng trọng yếu về mặt giới
pháp. Phật phái tôn giả đi điều tra cuộc
tranh chấp, lại c̣n thi hành phép yết ma sám hối
đối với những vị t́ kheo hay gây ra các cuộc
tranh chấp. Trước khi làm phép yết ma, tôn giả
trịnh trọng tuyên bố:
- Thưa chư
vị đại đức! Vâng từ mệnh của
đức Thế Tôn, tôi đến đây để làm các
phép yết ma, trục xuất quí vị hay gây ra các cuộc
tranh căi trong đại chúng. Đến lúc đó, xin quí
vị đừng buồn phiền và cũng không nên oán
hận tôi.
Một số quí
vị t́ kheo khi nghe giọng nói đầy quyền uy
của tôn giả th́ không dám ở lại đó nữa. Thà
đi nơi khác chứ không dám ở đó căi nhau, cũng
không dám để cho vị chấp pháp uy nghiêm như núi kia
làm phép yết ma. Nhân đó, cả một cuộc tranh căi
gay go, lớn lao trước đó, giờ liền tan
biến, không c̣n ǵ nữa. Tôn giả đúng là một
sứ giả của ḥa b́nh, thật khéo léo trong việc
chấm dứt các cuộc tranh chấp.
7.-
HỎI GIỚI PHÁP NƠI PHẬT:
Tôn giả Ưu Ba Li
có địa vị trọng yếu trong tăng đoàn,
lại được tôn xưng là người giữ ǵn
giới luật bậc nhất, là v́ đối với
những sự việc có liên quan đến giới
luật, tôn giả thường hay trực tiếp gặp
Phật để thỉnh ư và bàn thảo. Điều
đó chúng ta có thể thấy ở phần “Luật
Bộ” trong Kinh Tạng. Nhưng v́ những sự
kiện này đă được ghi lại một cách
rải rác, hoặc giả chúng chỉ là những giới
điều khô khan, khó có thể dùng thể truyện
để diễn tả, nên ở đây chúng tôi chỉ xin
nhặt ra một hai sự việc để thuật
lại, để từ đó có thể suy những sự
việc khác.
Luật pháp của
vương tộc Thích Ca ở thành Ca T́ La Vệ có qui
định rằng, con gái của ḍng họ Thích Ca không
được lấy chồng người ngoại
tộc; nếu ai phạm luật này, sẽ bị trị
tội rất nặng. Lúc bấy giờ, có một phụ
nữ thuộc ḍng họ Thích Ca, tên là Hắc Li Xa, vô cùng
xinh đẹp, đang lúc tuổi c̣n son trẻ mà chẳng
may chồng lại chết sớm, v́ không chịu nổi
cảnh cô đơn, nên gặp lúc có chàng thanh niên ngoại
tộc, đến tỏ t́nh th́ nàng đáp ứng ngay.
Nhưng oái ăm thay cùng lúc ấy ông em chồng của
ngàng cũng muốn lấy nàng làm vợ, nên ra mặt
cản trở. Phần th́ ông em chồng phẩm hạnh
không tốt, phần th́ nàng đang có niềm vui mới, nên
nàng nhất định cự tuyệt ông em chồng. Ông
này căm tức vô cùng, bèn thề rằng: “Người
đă tư t́nh th́ nhất định ta phải giết
chết ngươi!” Ông ta bèn bỏ thuốc mê vào
rượu, nàng uống rồi th́ hôn mê bất tỉnh. Ông
đánh đập nàng thương tích khắp ḿnh, rồi
lên quan tố cáo:
- Cô này là vợ tôi,
và nàng đă tư thông với thanh niên ngoại tộc.
Khi Hắc Li Xa
tỉnh dậy biết rơ sự việc th́ nghĩ
rằng, dù ḿnh có miệng cũng khó biện bạch,
với tội danh này th́ nhất định phải bị
xử tử! Thừa lúc mọi người không pḥng
bị, nàng liền bỏ trốn, chạy một mạch
thẳng đến thành Xá Vệ t́m vào ni viện xin
xuất gia. Triều đ́nh Ca T́ La Vệ cho người
đi khắp nơi truy nă Hắc Li Xa nhưng không thấy
nàng đâu cả. Măi về sau mơí có tin thám tử báo
về rằng, Hắc Li Xa đă trốn thoát sang thành Xá
Vệ. Được tin này, triều đ́nh Ca T́ La Vệ
gửi công hàm cho vua Ba Tư Nặc nói rằng:
- Tệ quốc có
nữ tội nhân tên là Hắc Li Xa. Y thị phạm
quốc pháp rồi chạy trốn ra khỏi nước.
Tệ quốc vừa được tin cho biết, hiện
y thị đang lẫn trốn tại quí quốc. Vậy
xin quí quốc giao nữ tội phạm Hắc Li Xa lại
cho tệ quốc. Sau này, nếu quí quốc có tội
phạm chạy trốn sang tệ quốc th́ tệ
quốc cũng sẽ xin bắt tội phạm ấy giao
nạp lại cho quí quốc để xử trị.
Vua Ba Tư Nặc
đọc xong công hàm, xoay sang hỏi tả hữu:
- Có thật Hắc
Li Xa đă đào thoát sang nước ta sao?
- Bẩm đại
vưong! Quả thật Hắc Li Xa có đào thoát sang
nước ta, nhưng hiện thời đă vào ni viện
xin xuất gia. Trước đây đại vương
đă ra lệnh, nếu ai xúc phạm đến quí vị
tăng ni th́ sẽ bị trọng tội. Hiện giờ
bà ấy đă xuất gia th́ dù là ai cũng đâu dám xúc
phạm. Vậy xin đại vương cho chỉ
thị, chúng thần phải làm thế nào?
Sau khi suy nghĩ
cặn kẽ, vua Ba Tư Nặc gửi công hàm sang Ca Ti La
Vệ phúc đáp:
- Hắc Li Xa quả
thật có đào thoát sang tệ quốc, nhưng bà ấy
đă vào ni viện xuất gia, nên hiện tại tệ
quốc không thể truy tội, c̣n tất cả những
trường hợp khác th́ tệ quốc sẽ xin
thực hành đúng như lời của quí quốc.
Triều đ́nh Ca T́
La Vệ tiếp được công hàm th́ rất lấy
làm bất b́nh. Họ cho rằng, một người
đàn bà phạm phép nước như thế mà chẳng
có cách nào để chế tài; vậy th́ về sau luật
pháp c̣n dùng vào đâu được nữa!
V́ một nữ
tội phạm đi xuất gia mà khiến cho hai
vương quốc hiềm khích nhau. Ưu Ba Li biết
được sự việc, liền đến thỉnh
ư Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Người đă phạm quốc pháp, tăng đoàn có nên
thâu nhận họ xuất gia không?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li!
Quốc pháp hợp lí hay không hợp lí là việc của
triều đ́nh và nhân dân của nước đó, nhưng
một người đă phạm quốc pháp, nếu ṭa án
chưa phán quyết là vô tội, th́ tăng đoàn không
được thâu nhận cho họ xuất gia!
Sau đó Phật
đă quở trách vị ni sư đă thâu nhận Hắc
Li Xa xuất gia. Điều đó không có nghĩa là Phật
thiếu từ bi, không cứu giúp người có tội;
nhưng bởi v́, tăng đoàn vốn là nơi thanh
tịnh, người phạm giới luật c̣n phải
bị tẩn xuất; huống chi người phạm
quốc pháp th́ phải chịu quốc pháp chế tài.
Phật pháp không thể bao che cho người phạm pháp.
V́ để kiện toàn tăng đoàn, và cũng v́
để cho khỏi có sự chống chọi nhau giữa
giới pháp và quốc pháp mà tôn giả Ưu Ba Li và Phật
có cuộc hội đàm như trên.
Một lần khác,
tôn giả đă tŕnh lên Phật một vấn đề
thú vị như sau:
- Bạch Thế Tôn!
T́ kheo và t́ kheo ni có thể v́ xă hội mà đứng ra làm
mai mối cho trai gái lập gia đ́nh không?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li!
Nếu t́ kheo hoặc t́ kheo ni đem ư tứ của đàng
trai sang nói cho bên đàng gái, đem ư tứ của đàng
gái sang nói cho bên đàng trai, cho đến giới thiệu
hai bên gặp nhau một lần, đều là phạm giới,
nhất định phải sám hối.
- Vậy th́, bạch
Thế Tôn! đối với hôn lễ của các tín
đồ tại gia, tăng đoàn nên có thái độ
như thế nào mới đúng cách?
- Không nên lo toan thái
quá! Nếu hôn sự là hợp pháp th́ cần tổ chức
hôn lễ ở trước Tam Bảo đề cầu
Phật Pháp Tăng chứng minh cho là đủ.
Ư nghĩa đích
thực của GIỚI là pḥng ngừa việc quấy và
ngăn chận việc xấu. Theo ư nghĩa đó th́
GIỚI đúng là khuôn mẫu cho việc tu chỉnh thân tâm.
Sự quan hệ nam nữ rất dễ gây rắc rối,
làm cho thân tâm mang nhiều nỗi buồn phiền bất
an. Bởi vậy, vị tôn giả “tŕ giới bậc
nhất” Ưu Ba Li kia, trong những lúc thỉnh thị
thánh ư của Phật về giới luật, phần
lớn là nhắm tới việc hạn chế sự quan
hệ giữa nam và nữ.
8.-
PHÉP TẮC THĂM HỎI BỆNH NHÂN:
Nên thăm hỏi
người bệnh như thế nào? Ưu Ba Li đă
từng nêu vấn đề này lên để thỉnh
ư Phật. Về phía người bệnh dù đang trong lúc
mang bệnh, cũng phải như thế nào mới
đúng giới pháp? Về phía người thăm bệnh,
khi thăm bệnh cũng phải như thế nào mới
đúng giới pháp? Đó là những vấn đề mà
tôn giả rất quan tâm.
Có một lần,
nhân đi theo sau Phật tôn giả trông thấy một
vị t́ kheo bị bệnh đang nằm ở nơi
dơ dáy mà không thể đứng dậy được.
Tôn giả cũng biết được có trường
hợp một vị t́ kheo bị bệnh nằm ở bên
đường, một vị t́ kheo khác đi ngang trông
thấy, nhưng v́ Phật chưa chế giới
điều nào về việc chăm sóc bệnh, nên vị
t́ kheo ấy chỉ đi một ṿng quanh bệnh nhân
rồi bỏ đi, chứ không chăm sóc ǵ cả.
Lại có một vị t́ kheo bị bệnh khác, lấy có
rằng bị bệnh th́ không cần phải giữ
giới, nên cứ tự tiện sống theo ư riêng của
ḿnh. V́ có những sự việc đă xảy ra như
vậy, nên tôn giả đem ra thỉnh ư Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Nếu có một vị t́ kheo cao đức bị bệnh
th́ chúng con nên đến thăm hỏi và chăm sóc như
thế nào?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li! Khi vó
một vị t́ kheo cao đức bị bệnh th́ không nên
để vị ấy nằm ở trong pḥng nhỏ
chật hẹp, mà phải để nằm nơi pḥng
ở dăy trước, rộng răi, thoáng khí, sáng sủa. Các
đệ tử của đại đức ấy
phải quét dọn pḥng sạch sẽ, cắm hoa,
đốt hương, và lúc nào cũng túc trực hầu
cận một bên để cho thầy sai việc. Nếu
có các vị t́ kheo khác tới thăm hỏi th́ nên đem trà
nước hoa quả ra mời. Nếu được
hỏi han th́ người bệnh nên trả lời;
nếu v́ sức yếu quá không trả lời
được th́ vị thị giả phải trả
lời thay. Những vị đến thăm th́ phải
tùy theo t́nh trạng người bệnh mà an ủi. Nói pháp,
và làm bất cứ việc ǵ để giúp đỡ cho
người bệnh, kể cả việc cung cấp các
nhu cầu thiết yếu như cơm nước,
thuốc thang. Nếu có các Phật tử tại gia
đến thăm bệnh th́ mời họ ngồi, và nhân
tiện nói pháp cho họ nghe; nếu họ có cúng
dường th́ nên niệm Phật và chú nguyện cho
họ. Lúc nào người bệnh muốn đi tiêu, đi
tiểu th́ tất cả mọi người đến
thăm bệnh phải ra khỏi pḥng ngay; trong pḥng
người bệnh đă có thị giả phục
dịch, nhưng ở ngoài cửa cũng nên có một
người nữa để trông chừng, pḥng có kẻ
đột nhập vào. Này Ưu Ba Li, nếu có vị t́ kheo
cao đức nào bị bệnh th́ nên theo cách thức đó
mà thăm hỏi và chăm sóc.
- Bạch Thế Tôn!
Nếu có một t́ kheo kém đức bị bệnh th́ chúng
con nên thăm hỏi và chăm sóc như thế nào?
- Này Ưu Ba Li! Khi
một t́ kheo kém đức bị bệnh th́ nên để
vị ấy nằm ở nơi kín đáo hơn, không
để cho mùi hôi hám bay tỏa ra ngoài. Thầy hoặc đệ
tử của vị ấy phải lo chăm sóc. Nếu
vị ấy không có thầy và đệ tử th́ nên
cắt cử từ một đến ba vị trong chúng
để chăm sóc. Những nhu cầu thiết yếu
của người bệnh như cơm nước
thuốc thang th́ những vị nuôi bệnh này phải cung
cấp. Nếu những vị này không có th́ đại chúng
phải cung cấp. Nếu đại chúng cũng không có
th́ nên lấy những vật ǵ có giá trị của
người bệnh như y bát v.v... đem đổi
lấy lấy cơm nước thuốc thang. Nếu
người bệnh tiếc của không cho lấy th́
phải tŕnh lên vị trưởng lăo quản chúng để
dùng lời lẽ khéo léo thuyết phục, người
bệnh bằng ḷng th́ mới đem đổi
được. Nếu cũng không được nữa
th́ đại chúng nên đi xin để nuôi bệnh.
Nếu xin không có th́ nên lấy những thức ngon trong
đồ ăn của tăng chúng để nuôi bệnh.
Nếu trong chúng không có thức ăn ngon th́ người
nuôi bệnh phải mang hai b́nh bát đi vào trong xóm khất
thực, rồi chọn bát nào có thức ăn ngon th́
đem cho người bệnh. Này Ưu Ba Li, phải theo
cách thức đó mà chăm sóc cho một t́ kheo kém
đức.
Quan tâm đến
bệnh hoạn của tăng chúng, tôn giả đă
thỉnh ư Phật để có được những qui
định rơ ràng không những về việc chăm sóc, mà
cả đến việc xử lí các di vật của
người bệnh để lại trong trường
hợp vị này viên tịch. Sự lưu tâm thật
cẩn thận và tỉ mỉ như thế của Ưu
Ba Li đối với người bệnh, đă làm sáng
tỏ ḷng từ bi, vị tha cũng như tinh thần
giữ giới nghiêm cẩn của tôn giả.
Người xuất
gia đă cắt đứt mọi sự ràng buộc
của gia đ́nh, thân tộc, xa ĺa làng xóm để hoàn
toàn sống vói tăng đoàn, mà gặp những lúc
bệnh hoạn, nếu không có người chăm sóc th́
thật là khổ sở. Nhưng từ khi Ưu Ba Li
đặt vấn đề tŕnh lên Phật th́ không c̣n
sự khổ sở đó nữa. Việc chăm sóc
người bệnh đă được liệt vào
một trong tám thứ ruộng phước (tức là tám
đối tượng mà người tu hành nên cung kính cúng
dường để tạo phước báo: chư
Phật, các bậc thánh nhân, bổn sư truyền
giới, quí vị thọ dạy cho oai nghi tế hạnh
trong lễ thọ giới, chư tăng, cha, mẹ, và
người bệnh hoạn.- Chú thích của người
dịch) của người tu học. Thầy, sư
huynh, sư đệ, và đệ tử của
người bệnh đều có thể chăm sóc cho
người bệnh. Sau cuộc pháp đàm này giữa
Phật và Ưu Ba Li th́ vấn đề bệnh hoạn
trong tăng đoàn rất được mọi
người để ư đến.
9.-
H̉A HỢP TĂNG VÀ PHÁ H̉A HỢP TĂNG:
Trên lập
trường tuân thủ giới luật, ngoài những
vấn đề liên quan đến pháp chế, nam nữ,
bệnh hoạn, tôn giả Ưu Ba Li c̣n đặc
biệt quan tâm đến vấn đề ḥa hợp và
phá ḥa hợp tăng. Dù tăng đoàn sống trong tinh
thần “Sáu phép ḥa kính”, nhưng quan trọng là
phải cùng giữ ǵn giới th́ mới sống chung
được. Cho nên đối với một vị t́
kheo giữ giới th́ ḥa hợp tăng là vấn
đề được quan tâm hàng đầu.
Một ngày nọ,
lúc Phật ngự tại thành Xá Vệ, nhân để ư
đến sự đoàn kết trong tăng đoàn, Ưu
Ba Li đă đến trước Phật, đảnh
lễ và bạch:
- Bạch Thế Tôn!
Thế nào là phá ḥa hợp tăng?
- Này Ưu Ba Li!
Nếu một vị t́ kheo hiểu rơ đạo lí, giữ
giới luật, sống đúng như giáo pháp, th́ các
đệ tử của vị ấy, bất luận là xuất
gia hay tại gia, đều phải cung kính, lễ bái và tu
học theo sụ dạy bảo của vị ấy.
Nếu có người tỏ ra khinh thị, chê cười,
chế nhạo, hủy báng, đó là phá ḥa hợp tăng. Nếu
các tín đồ tại gia đối với tăng chúng
xuất gia khởi sinh vọng tưởng phân biệt nhân
ngă, hoặc khêu gợi hiềm khích để gây chia
rẽ, hoặc tạo ra những chuyện rắc rối
làm cho náo loạn, đó là phá ḥa hợp tăng. Nếu các
quan quân chính quyền dùng quyền lực để can
thiệp vào nội bộ các tự viện, li gián tăng
ni, đó là phá ḥa hợp tăng.
- Bạch Thế Tôn!
Phá ḥa hợp tăng th́ phạm tội như thế nào?
- Ưu Ba Li! Nếu
phạm tội phá ḥa hợp tăng, phải bị
đọa địa ngục, chịu khổ trong một
kiếp.
- Bạch Thế Tôn!
Thế nào là ḥa hợp tăng?
- Ưu Ba Li! Kính
trọng, lễ bái, tu học theo các vị t́ kheo sống
đúng như giới luật, như giáo pháp, cũng
như phát tâm ủng hộ, khen ngợi và xây dựng
sự ḥa kính cho tăng chúng, đó là ḥa hợp tăng.
- Bạch Thế Tôn!
Ḥa hợp tăng th́ công đức ǵ?
- Ưu Ba Li! Nếu
ḥa hợp tăng th́ được sinh lên cơi trời,
hưởng thọ sung sướng trong một kiếp.
Đối với
công và tội của sự ḥa hợp tăng và phá ḥa
hợp tăng, tôn giả không phải là không biết,
nhưng ở đây, ư của tôn giả là muốn gợi
vấn đề lên để xin Phật đích thân nói,
cốt làm tăng tầm quan trọng cho sự việc. Tôn
giả đúng là một mẫu người khiêm cung,
giữ phép và hiểu biết. Thái độ đó, tác phong
đó của tôn giả thật đáng chúng ta kính yêu!
10.-
KẾT TẬP TẠNG LUẬT:
B́nh nhật, tôn
giả là người có đủ khả năng
đức độ và uy tín để giải quyết các
việc rắc rối trong tăng đoàn, làm phép yết ma
sám hối cho các t́ kheo phạm giới, cũng như cùng
với Phật bàn thảo về những chỗ vi tế
của giới luật, và dần dần nghiễm nhiên
trở thành một vị có thanh danh trong tăng đoàn;
riêng về phương diện giới luật th́ tôn
giả lại là người có uy thế lớn nhất.
Phật khen ngợi tôn giả là vị có giới hạnh
nghiêm túc nhất, đại chúng cũng công nhận tôn
giả là vị giữ giới bậc nhất. Những
vị t́ kheo và t́ kheo ni không hiểu rơ giới luật,
muốn đến hỏi Phật, nhưng sợ phiền
phức th́ đều đến hỏi tôn giả. Tôn
giả như là chuông đại đồng, thường
ngày tuy không hay phát biểu, luận bàn, nhưng mỗi khi
chuông được thỉnh lên th́ âm thanh phát ra vang
vọng khắp chốn đều nghe.
Giới luật là v́
tăng đoàn mà thiết chế, hơn nữa, v́ là
một vị giữ giới nghiêm túc, nên trong cuộc
đời của Ưu Ba Li, tôn giả không bao giờ xa rời
tăng đoàn, ít tới lui với người thế
tục, cũng không hề có một hoạt động nào
nhằm vào quần chúng, xă hội. Cho nên khi ghi lại
những sự việc liên quan đến cuộc
đời của tôn giả, chúng tôi chỉ có thể ghi
được những sự kiện ở trong tăng
đoàn mà thôi.
Khi Phật nhập
diệt th́ tôn giả khoảng hơn bảy mươi
tuổi. (Trong tiết 2, “Cạo Tóc Cho Phật”, ở
trên, tác giả nói, khi Phật về thăm Ca T́ La Vệ
lần đầu tiên sau ngày thành đạo th́ tôn giả
Ưu Ba Li khoảng 20 tuổi. Lúc đó Phật đă 38
tuổi. Vậy khi Phật nhập diệt th́ tôn giả
chỉ khoảng hơn 60 tuổi thôi, chứ không phải
hơn 70 tuổi như tác giả nói ở đây. - Chú thích
của người dịch). Khi các vị đệ
tử lớn của Phật vân tập tại hang núi Ḱ Xà
Quật (về địa danh này, xin xem lại “chú thích
của người dịch” ở trang 288 - người
dịch) để kết tập kinh điển - do tôn
giả Đại Ca Diếp làm thượng thủ - th́
tôn giả A Nan được đại chúng suy cử
kết tập tạng Kinh và chính tôn giả đă
được suy cử kết tập tạng Luật;
nhưng khi vừa được suy cử th́ tôn giả
liền khiêm tốn khước từ:
- Đây là trách
nhiệm quá lớn lao, tôi không dám nhận lănh. Xin
đại chúng suy cử một vị trưởng lăo
khác.
Tôn giả
Đại Ca Diếp quyết ủng hộ tôn giả, nên
nói ngay:
- Đại
đức Ưu Ba Li, xin đừng từ chối! Hôm nay
tuy có đông đủ năm trăm vị t́ kheo
đều thuộc hàng trưởng lăo, nhưng ngay từ
đầu đức Thế Tôn đă kí thác cho đại
đức thành tựu mười bốn pháp. Vậy
trừ đức Thế Tôn ra, tăng đoàn đă
từng công nhận đại đức là người
giữ giới bậc nhất, cho nên trong pháp hội
hôm nay, chính đại đức là người duy nhất
có thẩm quyền để đọc tụng tạng Luật
mà thôi!
Nghe vậy, tôn
giả không c̣n từ chối được nữa.
Trước hết tôn giả đưa ra một số
nguyên tắc, và sau khi được toàn thể đại
chúng chấp thuận, tôn giả bắt đầu
đọc tụng tạng Luật. Trong khi
đọc tụng, đối với mỗi điều
giới, tôn giả đều nói rơ thời gian, địa
điểm, đối tượng và nguyên do chế
giới. Tôn giả cũng đề cập đến
sự phạm giới, đến mức độ nào th́
có tội hoặc trở nên vô tội. Với những
điều ghi nhớ thật chi tiết, tỉ mỉ
như thế, tôn giả đă làm cho toàn thể đại
chúng vô cùng bội phục và tin tưởng.
Một
người xuất thân từ ḍng giống hạ tiện,
nhưng đă được địa vị cao cả
trong tăng đoàn, cuối cùng lại c̣n là người
chủ tŕ tạng Luật trong cuộc kết tập
thánh điển, đó không phải là điều ngẫu
nhiên! Tôn giả Ưu Ba Li thật xứng đáng
được thế nhân kính ngưỡng, là tấm
gương cho các dân tộc đau khổ hướng lên
để thêm mạnh ḷng tin, và làm cho ánh sáng b́nh
đẳng của Phật pháp chiếu rọi khắp
cả chúng sinh, muôn đời không dứt.