Mười Vị Đệ Tử Lớn
của Phật
Nguyên tác Hán
Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
---o0o---
Tôn giả XÁ LỢI PHẤT
(Sariputra - Sariputa)
(Vị thượng thủ có trí tuệ siêu việt
nhất)
1.-
TRƯỚC VÀ SAU KHI RA ĐỜI:
Thành Vương Xá
(Rajagrha - Rjagaha) là kinh đô của vương quốc Ma
Kiệt Đà (Magadha), ở miền Nam Ấn Độ.
Cách thành này chừng vài dặm, có một thôn trang tên là Ca La
Tí Noa Ca (Nalaka), rừng trúc xinh tươi, non xanh
nước biếc, cảnh trí thật là u nhă. Đó là quê
hương của tôn giả Xá Lợi Phất, vị
đệ tử có trí tuệ lớn của đức
Phật.
Xá Lợi Phất
được sinh ra trong một gia đ́nh thuộc ḍng Bà
la môn. Thân phụ của tôn giả đă từng là một
luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn.
Thân mẫu tôn giả, trong thời gian mang thai tôn giả th́
tâm trí trở nên linh mẫn khác thường, đến
nỗi ông em ruộy của bà là Câu Hi La (Kausthila - Kotthita),
vốn dĩ cũng là một tay nghị luận cự
phách đương thời mà cũng phải chịu thua
bà. Bởi vậy, ông rất lấy làm hổ thẹn,
phải bỏ nhà mà đi. Ông biết rằng, chị ḿnh
đă chịu ảnh hưởng của cái bào thai, và
đứa bé đang nằm trong bụng mẹ kia, sau này
nhất định sẽ là một bậc có trí tuệ
hơn người; nếu ḿnh không cố công học
hỏi thêm th́ thế nào cũng phải thua kém đứa
cháu ấy, rồi người ta cười cho th́ sao! Cho
nên sau khi rời khỏi nhà, ông đă đi khắp nơi
t́m các bậc minh sư để cầu học. Ông chuyên
cần cho đến nỗi móng tay mọc dài mà không có th́
giờ để cắt, khiến cho ai ai cũng gọi
ông là Trường Trảo Phạm Chí (Dirghanakha - Dighanakha -
ông thầy tu móng dài). - Về sau, nhân thấy Xá Lợi
Phất qui y làm đệ tử Phật,ông cũng
xuất gia theo Phật làm sa môn.
Khi lên tám tuổi,
Xá Lợi Phất đả làu thông kinh sử. Lúc bấy
giờ, ở nước Ma Kiệt Đà có hai anh em Cát
Lợi và A Già La, đều là hàng trưởng giả. Một
hôm, họ thết tiệc lớn khoản đăi quốc
vương, thái tử, các vị đại thần, cùng
các vị luận sư. Trong pḥng bày tiệc, tất cả
chỗ ngồi của khác đều được qui
định rơ ràng, tùy theo thân danh và địa vị
từng người; thế mà cậu bé tám tuổi Xá
Lợi Phất kia, không biết sợ sệt ai hết,
đă dám ngang nhiên leo lên chỗ ngồi cao quí dành có các
vị luận sư để ngồi. Lúc đầu, các
vị đại thần và luận sư thấy thế th́
cứ cho Xá Lợi Phất v́ c̣n là con nít không biết, ǵ,
cho nên không thèm nói năng ǵ tới. lại c̣n cho đám
đệ tử trẻ tuổi của họ đến
chơi với cậu; nhưng một lúc sau, nghe cách nói
năng của Xá Lợi Phất rất là khác
thường, ngôn từ rơ ràng, khúc chiết, nghĩa lí tinh
tường, rành mạch, th́ các các quan đại thần,
các vị đại luận sư đều lấy làm
kinh ngạc, khen ngợi và bái phục, riêng quốc
vương th́ vô cùng hoan hỉ, liền truyền lịnh
lấy ngay một thôn trang thưởng cho Xá Lợi
Phất. Cậu thần đồng tám tuổi ấy
thật đă làm rạng rỡ cho gia đ́nh, và chính ngay
thân phụ của cậu, vốn là một danh gia
đương thời, cũng phải công nhận
rằng sự thông minh tài trí của ông không thể sánh
kịp với đứa con cưng quí của ḿnh.
2.-BẬC
THẦY CHÂN CHÍNH:
Xá Lợi Phất
lớn lên, trở thành một thanh niên cao lớn, nét
mặt thanh tú, đôi mắt có thần, tay dài quá gối,
được di truyền của thân phụ, cho nên
cũng có cái phong độ của một nhà học
giả trứ danh. Trong giới học thuật bấy
giờ, không ai là không biết đến đại danh
của chàng thanh niên “hậu sinh khả úy” đó.
Năm hai
mươi tuổi, Xá Lợi Phất xin phép song thân đi
du phương học đạo, t́m cầu chân lí.
Đầu tiên, chàng đến xin học với một
thầy Bà la môn tên là San Xà Da (Sanjavairattiputra -
Sanjayabelatthiputta). Một thời gian sau, v́ thấy San Xà Da
không đủ khả năng làm thỏa măn ước
vọng của chàng, Xá Lợi Phất lại muốn
từ giă thầy để đi nơi khác.
Lúc bấy giờ,
trong số bạn học, có một thanh niên tên Mục
Kiền Liên (Maudgalyayana - Moggallana), là người bạn tri
kỉ duy nhất của chàng. Chàng bèn nói ư tưởng
của ḿnh cho Mục Kiền Liên biết, và Mục
Kiền Liên cũng có ư tưởng giống như vậy.
Hai người liền quyết định rời học
viện của San Xà Da và tự ḿnh chiêu tập đồ
chúng để lập nên một học viện mới.
Cả hai người đều tự cho rằng, trên
thế gian không c̣n ai thông minh tài trí hơn họ, cho nên không
c̣n ai có đủ tư cách và khả năng xứng
đáng để làm thầy họ nữa.
Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên, không những tuổi tác xấp
xỉ bằng nhau, mà tư tưởng và tŕnh độ
học vấn cũng không khác nhau mấy. Cả hai
người cùng có chí nguyện quyết t́m cầu chân lí.
Họ thương kính nhau, ở cùng nhau, và cư xử
với nhau thật vô cùng ḥa hợp. Từ đây, họ
chỉ cùng học hỏi với nhau và dạy dỗ
đồ chúng ở trong học viẹn, ngoài ra, trong toàn
cơi Ấn Độ, họ không c̣n thấy có bất cứ
nhà học giả nào đáng kể dưới mắt
họ. Cho đến một hôm Xá Lợi Phất bỗng
nh́n thấy thầy A Thị Thuyết (hay A Thuyết
Thị, A Xả Bà Thệ, Át Bệ, Asvajit - Assaji, là một
trong năm vị t́ kheo đầu tiên xuất gia làm
đệ tử Phật, đă từng nhiều năm tu
khổ hạnh, đến khi được nghe Phật dạy
về giáo lí “Bốn Sự Thật” th́ chứng quả
thánh) trên một đường phố trong kinh thành
Vương Xá ...
Dáng vẻ của
thầy A Thị Thuyết trông trang nghiêm làm sao! Mỗi
cử chỉ đi, đứng của vị t́ kheo ấy
đều tỏ rỏ oai ghi tế hạnh. Thoạt nh́n
thấy, Xá Lợi Phất bỗng cảm thấy tâm
hồn rúng động. Thật kinh ngạc, thật ḱ
lạ, không thể tả được! Không dằn
được thắc mắc Xá Lợi Phất liền
bước đến trước mặt A Thị
Thuyết, chào hỏi một cách cung kính:
- Xin lỗi ngài cho
tôi hỏi thăm, ngài tên là ǵ và đang cư ngụ
tại đâu?
Thaây A Thị
Thuyết trả lời:
- Xin cám ơn ngài
đă hỏi thăm. Tôi tên là A Thị Thuyết đang
cư ngụ tại tu viện Trúc Lâm (Venevana - Veluvana)
ở phía ngoài kinh thành cách đây không xa lắm. (Có
thuyết nói rằng, lúc Xá Lợi Phất gặp
đại đức A Thị Thuyết th́ tu viện Trúc
Lâm chưa được xây cất; đức Phật và
chúng tăng đang cư trú trong một khu rừng ở
ngoại ô phía Nam thành Vương Xá - Chú thích của
người dịch).
- Bậc tôn sư
của ngài là ai? Và thường dạy ngài những
đạo lí ǵ?
- Thầy tố là
người thuộc ḍng họ Thích Ca, người ta
thường Người là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài
thường dạy cho chúng tôi về chân lí của vũ
trụ và nhân sinh, mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi th́
không thể nào hoàn toàn lănh hội hết được.
Giáo lí Thầy tôi thường giảng dạy mà tôi ghi
nhớ nhiều nhất là như
vầy:
“Các
pháp do nhân duyên mà sinh,
Và cũng lại do nhân duyên mà diệt”.
Và Người c̣n
dạy:
“Tất cả các hành
nghiệp đều là vô thường,
Đều là pháp sinh
diệt.
Và một khi chấm
dứt được sự sinh diệt,
Th́ có được
sự an lạc trong cảnh giới niết bàn tịch
tịnh”.
Thật tôi không
biết diễn tả thế nào để nói lên
được ḷng cảm kích của chúng tôi đối
với những lời giáo huấn của Thầy chúng tôi!
Xá Lợi Phất
cảm thấy như trời long đất lở khi
vừa nghe được danh xưng “đức Phật”
cùng giáo pháp của Ngài do từ miệng thầy A Thị Thuyết
nói ra! Như ánh sáng chói ḷa của mặt trời chiếu
ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về
các vấn đề vũ trụ nhân sinh tích tụ từ
trước đến nay bỗng dưng đều
được quét sạch. Hai người đi với
nhau thêm một quăng đường để đàm
đạo. Đi bên cạnh vị t́ kheo vừa mói gặp
lần đầu mà Xá Lợi Phất cảm thấy
như là bạn tâm giao đă lâu đời. Sau đó, Xá
Lợi Phất xin cáo từ, và hứa với A Thị
Thuyết thế nào cũng sớm đến tu viện
để xin yết kiến đức Phật.
Xá Lợi Phất
bương bả trở về học viện. Mục
Kiền Liên xem thấy thần sắc Xá Lợi Phất sao
mà khác thường, nét vui mừng hớn hở lộ ra
trên mặt bạn hôm nay thật chưa từng thấy bao
giờ! Bèn hỏi ḍ:
-Xá Lợi Phất!
Sao? Có việc ǵ hứng thú lắm mà hôm nay trông bạn vui
vẻ quá vậy?
- Mục Kiền
Liên! Tôi mừng quá! Trong đời, đây là lần
đầu tiên tôi thấy cao hứng như vậy! Này, tôi
nói cho bạn biết nhé, tôi đă t́m thấy bậc tôn
sư của chúng ḿnh rồi! ...
Mục Kiền Liên
trố mắt:
- Này, đứng nói
như vậy, trên đời này lại c̣n ai có thể làm
thầy chúng ta nữa chứ!
- Có chớ, có! Đó
là đức Phật! Tôi xin nhắc lại, đó là
đức Phật!
Rồi Xá Lợi
Phất đem tất cả những ǵ đă nghe
được từ thầy A Thị Thuyết về
đức Phật và giáo pháp của Ngài, nói lại cho
Mục Kiền Liên nghe. Hai người bạn, một
người thuật và một người nghe, trong giây
phhút quí báu ấy, đều vô cùng vui sướng, cảm
động đến nỗi nước mắt chảy
ràn rụa.
Pháp “nhân duyên”,
người thường nghe đến th́ không hiểu là
ǵ, nhưng khi lọt vào tai của một người có
trí tuệ và đang t́m cầu chân lí như Xá Lợi
Phất th́ khác hẳn. Ông cảm thấy như công phu
tụ học của ḿnh trong bao nhiêu năm qua đều
trở thành rỗng tuếch! Điều đó không sai,
bởi v́, chỉ có người nào thấy rơ
được “nhân duyên” th́ mới thấy rơ
được Phật pháp.
Liền ngày hôm sau, Xá
Lợi Phất đă cùng Mục Kiền Liên, dẫn theo hai
trăm đồ chúng của họ, cùng đến tu
viện Trúc Lâm xin xuất gia theo Phật. Đức Phật
rất hoan hỉ, v́ biết rằng, từ ngày thành
đạo, đến nay mới có được hai
người đệ tử đích thực có khả
năng, có thể tiếp thọ chân lí do ḿnh truyền
đạt; trong khi đó th́ Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên cũng biết chắc chắn rằng, cho
đến hôm nay ḿnh mới đích thực có
được bậc Thầy chân chính!
3.-
GIÁM ĐỐC CÔNG TRƯỜNG XÂY CẤT TU VIỆN K̀ VIÊN:
Sau khi Xá Lợi
Phất xuất gia theo Phật th́ uy tín của tăng
đoàn mạnh mẽ thêm lên. Tôn giả rất
được Phật tin cẩn. Tôn giả đă là
người đầu tiên được Ngài giao cho
sứ mạng lên miền Bắc để giáo hoá, nhân
tiện quản đốc công tŕnh xây cất tu viện Ḱ
Viên (Jetavana).
Nhắc lại, trong
hai năm đầu sau ngày đức Phật thành
đạo, công việc hoằng hóa của đức
Phật chỉ mới phát triển ở khu vực phía Nam
sông Hằng trong phạm vi các vương quốc Ca Thi
(Kasi) và Ma Kiệt Đà. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Xá
Vệ (Sravasti - Savatthi) của vương quốc Kiều
Tát La (Kosala), thuộc miền Bắc Ấn Độ, có
một vị trưởng giả tên là Tu Đạt
(Sudatta). Nhân duyên cơ ngộ, một hôm nhân xuống
Vương Xá thăm người thân mà được
diện kiến đức Phật. V́ ḷng ngưỡng
mộ, ông đă xin qui y Tam Bảo và thỉnh nguyện
Phật cho phép ông được xây cất một ngôi tu
viện ở kinh thành Xá Vệ - quê hương ông -
để cúng dường Phật và tăng đoàn làm
cơ sở tu học và hoằng pháp ở phương
Bắc.
Sau khi dùng “vàng ṛng
trải đất”, mua được khu vườn cây
của thái tử Ḱ Đà (Jeta) tại thành Xá Vệ,
trưởng giả Tu Đạt liền trở lại
Vương Xá xin Phật cho một vị t́ kheo lên đó
để trông coi công việc xây cất tu viện. Phật
pháp đối với dân chúng Xá Vệ thật là mới
mẻ. Nơi đó lại có đông đảo ngoại
đạo hoạt động; cho nên người
được cử lên đó không những phải
đủ sức quán xuyến công việc xây cất tu
viện, mà c̣n phải có đủ khả năng hàng
phục ngoại đạo. V́ thấy rơ điều
đó, đức Phật đă giao nhiệm vụ ấy
cho Xá Lợi Phất, và tôn giả đă cùng với Tu
Đạt lên đường đi về phương
Bắc ...
Đúng như
đức Phật đă lượng định
trước, công việc xây cất được khởi
công không lâu th́ ma nạn liền đến. V́ ḷng
đố kị, v́ lo sợ Phật giáo bành trướng,
rất đông giáo sĩ ngoại đạo đă cùng
đến yêu cầu trưởng giả Tu Đạt
hủy bỏ ư định xây tu viện để cúng
dường Phật; không những thế, họ c̣n
bảo Tu Đạt không được tin theo đức
Phật nữa. Nhưng trưởng vốn đă
đặt niềm tin sâu sắc nơi đức Phật
rồi, th́ dù cho ngoại đạo muốn nói năng
thế nào đi nữa, ông cũng không đổi ư. Quí
vị giáo sĩ ngoại đạo bèn thay đổi
kế hoạch. Họ thách tôn giả Xá Lợi Phất công
khai tranh luận với họ; v́ họ tin rằng, với
cách này, chắc chắn họ sẽ đánh bại
được Xá Lợi Phất để cho Tu
Đạt sáng mắt ra mà tỉnh ngộ. Khi biết
được tin này, trưởng giả lo sợ vô cùng.
Ông nghĩ rằng rằng, một ḿnh tôn giả Xá Lợi
Phất th́ làm sao có thể thắng được số
giáo sĩ ngoại đạo đông đảo như
vậy! Ông bèn đến yết kiến tôn giả
để tỏ lộ tâm trạng lo lắng của ḿnh;
nhưng khi nghe điều ấy, tôn giả đă không chút
ǵ tư lự, lại c̣n tỏ ra hết sức vui
mừng, v́ đối với tôn giả, đây mới chính
là một cơ hội thật tốt để hoằng
dương giáo pháp.
Ngày giờ và
địa điểm mở cuộc tranh luận đă
được ước định. Bên phía ngoại
đạo cử ra vài mươi vị luận sư
để đối chọi với chỉ một ḿnh tôn
giả Xá Lợi Phất.
Nên biết rằng,
trong cuộc tranh luận này, về số lượng, tuy
đại diện đức Phật chỉ có một ḿnh
tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng trên thực lực th́
một Xá Lợi Phất ấy cũng đủ
để đánh bại hàng ngàn, hàng vạn các vị
luận sư ngoại đạo. Tôn giả là một
vị đệ tử ít có ai sánh kịp trong số các
đệ tử của Phật. Lại nữa, chúng ta
hẳn c̣n nhớ, tôn giả vốn xuất thân từ
một gia đ́nh Bà la môn, mà tổ phụ và thân phụ
đều là những bậc học giả, luận sư
lỗi lạc trong giới Bà la môn. Ngay từ lúc nhỏ,
tôn giả đă hưởng thụ được
trọn vẹn cái di sản tinh thần đó của ông,
cha, đă từng tinh thông mọi điển tịch
ngoại đạo; lớn lên lại gặp cơ duyên
xuất gia theo Phật và đă chứng quả thánh, th́ c̣n
chọn ai hơn được tôn giả để
đối phó với ngoại đạo trong trường
hợp này! Cho nên, không cần nói chúng ta cũng biết
được rằng, tôn giả Xá Lợi Phất đă
thắng quí vị luận sư ngoại đạo trong
cuộc thử thách này. Có điều đáng nói, sau
cuộc tranh luận công khai ấy, quí vị giáo sĩ
ngoại đạo đă thấy rơ được chân lí,
phá bỏ kiến chấp, đồng ḷng xin tôn giả Xá
Lợi Phất giới thiệu họ được
gặp Phật và qui y theo Phật tu học. Cũng nhân
cơ hội này mà rất đông đảo quần chúng
được biết đến Phật pháp và
đều xin qui y Tam Bảo. Riêng trưởng giả Tu
Đạt th́ vui mừng hớn hở, càng khâm phục tôn
giả Xá Lợi Phất, ông lại càng cảm kích oai
đức của Phật. Lúc đó, tuy đức Phật
vẫn c̣n đang hành hóa ở phương Nam, mà ánh sánh chân
lí đă rọi chiếu đến phương Bắc.
Công tŕnh xây cất tu
viện Ḱ Viên được tiến hành rất nhanh chóng.
Theo đồ án do tôn giả Xá Lợi Phất thiết
kế, tu viện gồm có mười sáu gian nhà rộng
lớn dùng cho những sinh hoạt tập thể như
giảng đường, hội trường; sáu
mươi gian nhà nhỏ dùng làm pḥng ngủ, pḥng tĩnh
dưỡng, pḥng rửa mặt, kho chứa vật dụng
v.v...; ngoài ra c̣n có các sân vận động, sân tắm, ao
nước, v.v...
Một hôm, khi tu
viện xây cất sắp xong, tôn giả chỉ lên hư
không nói với Tu Đạt:
- Trưởng
giả Tu Đạt! Hăy nh́n ḱa! Trên không trung hiện ra
những ǵ, ông thấy không?
Tu Đạt lấy
làm lạ đáp:
- Thưa tôn giả,
con có thấy ǵ đâu!
- À phải rồi,
nếu dùng nhhục nhăn th́ không thể thấy
được những cảnh này đâu. Bây giờ ông hăy
nương vào thiên nhăn của tôi mà nh́n lại một
lần nữa nhé!
- Thưa tôn giả,
con đă thấy rồi. Con thấy có rất nhiều
điện đẹp đẽ, trang nghiêm. Tu Đạt
rất làm sung sướng nói với Xá Lợi Phất như
vậy.
- Đó là cung
điện ở cơi trời Lục Dục, để dành
cho ông đấy. Ở đây ông xây tu viện để
cúng dường đức Phật dùng làm cơ sở
hoằng pháp; dù tu viện chưa hoàn tất, nhưng cung
điện dành cho ông ở cơi trời Lục Dục th́
đă hoàn thành rồi.
- Thưa tôn giả,
cung điện của cơi trời Lục Dục nhiều
như thế th́ về sau con nên ở cung trời nào
tốt hơn?
- Ở cung trời
Đao Lợi th́ mạng sống rất dài, lại có ư
thức và siêng năng trong việc tu hành Phật
đạo, cho nên rất ít khi bị đọa lạc.
- Vậy th́ trong
đời tương lai con nguyện được sinh
về cung trời Đao Lợi.
Trong lúc Tu Đạt
nói lời ấy th́ bao nhiêu cung điện khác dần
dần biến mất, chỉ c̣n lại cung trời
Đao Lợi là sáng rỡ huy hoàng. Tu Đạt thấy
thế th́ vô cùng vui mừng. Đó là việc có một không
hai trong đời ông từ trước đến
giờ.
4.-
TÂM ĐẠI THỪA KHÔNG THỐI CHUYỂN:
Nói đến
việc trư3ơng giả Tu Đạt, nhân xây cất tu
viện cúng dường Phật mà có thể nương vào
thiên nhăn của tôn giả Xá Lợi Phất để nh́n
thấy được đến các cung trời,
tưởng cũng nên nhắc lại trường hợp
đặc biệt của cặp mắt Xá Lợi Phất
trong một câu chuyện tiền thân của tôn giả cách
sáu mươi tiểu kiếp về trước, khi tôn
giả đang tu hạnh bồ tát.
Thuở đó, trong
khi phát tâm tu hạnh bồ tát, Xá Lợi Phất đă
rất chú trọng đến hạnh bố thí. Để
thực hiện hạnh bố thí, Xá Lợi Phất không
những phát nguyện giúp cho mọi người tài
vật, nhà cửa, ruộng vườn, mà thậm chí c̣n hi
sinh đến cả thân thể và tính mạng nữa. Tâm
nguyện chân thành của Xá Lợi Phất lúc đó đă
làm cảm động đến cả trời
đất. Bấy giờ có một vị trời muốn
thử tâm đạo của Xá Lợi Phất bèn hóa
hiện làm một gă thanh niên tuổi chừng hai
mươi, đứng bên đường chờ Xá
Lợi Phất đi ngang qua. Khi Xá Lợi Phất vừa
tới trước mặt th́ gă thanh niên liền khóc lóc kêu
gào thảm thiết. Xá Lợi Phất thấy thế th́
động mối thương tâm, bèn an ủi hỏi han:
- Này cậu! Có
chuyện ǵ mà cậu đứng đây khóc lóc thảm
thiết quá vậy?
- Xin ông đừng
hỏi làm ǵ! Tôi dù có nói chuyện này với ông cũng
chỉ vô ích mà thôi.
- Cậu ạ! Tôi là
kẻ tu hành, có tâm nguyện giúp đỡ những ai
bị đau khổ. Chỉ cần cậu nói rơ cái hoàn
cảnh bất hạnh của cậu, nếu khả năng
tôi có thể làm được ǵ để giúp đỡ
th́ tôi tức khắc làm cậu vừa ư ngay.
- Tôi biết chắc
chắn là ông thể giúp ǵ được cho tôi đâu! Tài
sản ở thế gian tôi không hề thiếu thốn,
chỉ v́ mẹ tôi bịnh quá nặng, không thể t́m
thuốc chữa mà tôi đau đớn đến phải
khóc lóc thảm thiết như vầy. Theo lời thầy
thuốc bảo th́ tôi phải đi t́m cho được
một con mắt sống của một người tu hành
đem về làm thuốc th́ chứng bệnh hiểm nghèo
của mẹ tôi mới chữa khỏi được.
Tôi vừa đi vừa nghĩ, đến như con
mắt sống của một người b́nh
thường c̣n chưa dễ kiếm, huống hồ là
của một người tu hành! Nghĩ đến
điều khó khăn này, rồi nghĩ đến mẹ
bịnh nằm trên giường, vừa rên siết vừa
trông ngóng con mau đem con mắt về làm thuốc, mà ḷng
tôi đau như cắt ...
- Cậu ạ! Không
có ǵ khó khăn cả. Vừa rồi tôi đă nói với
cậu về cái tâm nguyện của tôi. Tôi chính là một
kẻ tu hành, và mắt của tôi đúng là mắt của
một người tu hành. Tôi xin biếu cậu một con
mắt của tôi để cậu đem về làm
thuốc chữa bịnh cho bà cụ.
Gă thanh niên vui
mừng nhảy nhót:
- Thật sao! Ông hoan
hỉ cho tôi một con mắt sao?
- Bao nhiêu tài sản
tôi đă đem bố thí cho người hết rồi. Tôi
đang muốn tiến thêm một bước nữa trên
đường tu hạnh bồ tát là bố thí đến
thân thể tôi, nhưng khổ nỗi là chưa có ai cần
tới. Hôm nay gặp được cậu tội
thật thấy măn nguyện. Tôi vui sướng lắm và
cảm ơn cậu vô cùng. Vậy cậy hăy dùng cách nào
đó để lấy con mắt của tôi đi!
Nhưng gă thanh niên
không chịu, nói:
- Không
được đâu,! Làm như vậy th́ có vẻ như
tôi cưỡng đoạt con mắt của ông. Tôi không
dám. Ông đă tự nguyện cho tôi th́ xin ông hăy tự móc nó
ra trao cho tôi.
Xá Lợi Phất cho
lời nói của gă thanh niên là có lí, bèn hạ quyết tâm,
nén đau đớn, đưa tay móc con mắt bên trái ra,
trao tận tay gă, và nói:
- Xin đa tạ
cậu đă giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. Cậy hăy đem
con mắt này về nhà đi!
Gă thanh niên đưa
tau tiếp lấy con mắt do Xá Lợi Phất trao cho,
nhưng bỗng hét to:
- Thật là vô
dụng! Tôi đâu có bảo ông móc con mắt bên trái làm ǵ!
Bịnh của mẹ tôi, theo thầy thuốc bảo,
phải dùng con mắt bên phải mới được!
Nghe thế, Xá
Lợi Phất lại cho ḿnh quả là đồ vô
dụng. Ông tự trách ḿnh sao đă không hỏi
trước cậu ta cho cẩn thận. Giờ th́ đă
lỡ rồi. Phát tâm th́ phải cho trọn vẹn; cứu
người th́ phải hết ḷng. Thế th́ ta phải móc
luôn con mắt bên phải cho cậu ta mới
được! Ông bèn an nủi gă thanh niên:
- Cậu đừng
giận! Vừa rồi v́ tôi quá hấp tấp mà đă quên
hỏi cậu trước cho rơ ràng. Tôi đă biết
lỗi. Con mắt bên phải của tôi vẫn c̣n đây,
để tôi móc ra đền lại cho cậu đem
về làm thuốc chữa bịnh cho mẹ cậu.
Nói xong, Xá Lợi
Phất lại cố nén đau đớn, móc luôn con
mắt bên phải trao cho gă thanh niên. Tiếp lấy con
mắt, không một lời cám ơn, gă lại c̣n
đưa con mắt lên mũi ngửi ngửi, rồi ném
mạnh xuống đất và mắng:
- Ông mà là
người tu hành ǵ! Con mắt của ông sao mà hôi thúi khó
ngửi quá th́ làm sao có thể làm thuốc chữa bịnh
cho mẹ tôi được!
Mắng xong, gă
lại dùng chân đạp lên con mắt của Xá Lợi
Phất. Lúc đó tuy không c̣n trông thấy ǵ được
nữa, nhưng tai Xá Lợi Phất vẫn nghe biết rơ mọi
chuyện. Ông đă nghe gă thanhh niên kia mắng ông. Ông đă
nghe tiếng chân gă dẫm đạp lên con mắt của
ông đă cho gă. Ông than thầm: “Chúng sinh thật khó
độ; tâm bồ tát thật khó phát! Thôi ta cũng không
nên vọng tưởng về việc tiến tu hạnh
đại thừa nữa làm ǵ, mà hăy cứ theo con đường
tự lợi cũ là hơn”. Vừa nghĩ như
vậy th́ bỗng trên hư không xuất hiện rất
nhiều thiên chúng, đồng thanh nói với Xá Lợi
Phất rằng:
- Hỡi vị hành
giả kia! Người không nên thối chí như vậy. Gă
thanh niên vừa rồi chính là một vị trời hóa
hiện để thử đạo tâm của người
đấy thôi. Người hăy giữ vững tâm nguyện
và hăy tinh tấn dơng mănh hơn nữa trên đường
tu hành!
Nghe mấy lời
ấy, Xá Lợi Phất lại tự lấy làm hổ
thẹn, tâm bồ tát lại phát sinh mạnh mẽ.
Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, Xá Lợi
Phất vẫn không thối chuyển trên đường
tu học, cho đến hôm nay được gặp
Phật là liền chứng thánh quả, có được
thiên nhăn thông.
5.- NHẬN
THỨC ĂN KHÔNG TRONG SẠCH:
Xá Lợi Phất
xứng đáng là vị đệ tử hàng đầu
của đức Phật. Tôn giả là bậc có trí
tuệ hơn người, thần lực trội chúng, mà đối
với đức Phật th́ trăm điều
đều y thuận, chưa từng làm trái lời dạy
nào của Ngài. Bởi vậy, trong tất cả đệ
tử, tôn giả là người được
được tín nhiệm nhất.
Trong lần
đầu tiên trở về thăm quê hương Ca T́ La
Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu) sau ngày thành đạo,
đức Phật đă cho La Hầu La (Rahula) xuất gia
theo tăng đoàn tu học. Chính Xá Lợi Phất đă
truyền giới sa di cho La Hầu La. Đức Phật
cũng đă bảo La Hầu La tôn Xá Lợi Phất làm
thầy, phải luôn luôn kề cận để
được tôn giả dạy dỗ cho.
Một hôm sau khi La
Hầu La theo Xá Lợi Phất đi khất thực
trở về, đức Phật trông thấy nét mặt La
Hầu La không được vui. Sau giờ ngọ trai, Ngài
bèn gọi La Hầu La đến gần hỏi xem trong ḷng
có ǵ không vừa ư. La Hầu La cúi đầu thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Thân phận con chỉ là một chú tiểu, lẽ ra th́
không được nói lỗi lầm của bậc
trưởng thượng, nhưng nếu không nói th́ không
ai hiểu được hoàn cảnh của bọn sa di
chúng con.
- Ừ, có việc ǵ
con cứ việc nói ra đi!
- Bạch Thế Tôn!
Khi các bậc trưởng thượng dẫn chúng con
đi thọ thực, quí vị thí chủ cúng dường
cho quí ngài toàn thức ăn hảo hạng; c̣n với bọn
sa di chúng con th́ họ chỉ cho toàn những thức ăn
quá tệ. Con nghĩ, thân thể của mọi
người đều cần thức ăn giống nhau,
đâu có phân biệt tuổi tác hay giới hạnh. Các
bậc trưởng thượng của chúng con chỉ
biết thọ dụng sự cúng dường của thí
chủ mà không có ḷng thương chiếu cố đến
chúng con, đă để cho quí vị thí chủ sinh tâm phân
biệt trong khi cúng dường.
- Chỉ một
việc nhỏ như vậy mà con cũng không nhẫn
được hay sao?
- Xin đức
Thế Tôn thương xót mà không trách mắng con. Bạch
Thế Tôn, ăn uống có đủ chất dinh
dưỡng th́ thân thể mới khỏe mạnh, khí
lực mới tăng trưởng do đó mà tâm mới an
lạc để tinh tấn tu tập. Thực sự th́
chúng con ngày nào cũng chỉ ăn toàn các thức ăn
thiếu dinh dưỡng, cho nên thân thể ngày càng mệt
mỏi, khiến cho tâm ư ít khi được chuyên nhất
để hành tŕ hữu hiệu.
Đức Phật
cũng thấy những điều La Hầu La nói là
đúng sự thật, nhưng vẫn dạy:
- Này La Hầu La! Con
rời bỏ hoàng cung đi theo tăng đoàn có phải là
v́ để nhận sự cúng dường chăng?
- Dạ không phải
như vậy, bạch Thế Tôn! Con gia nhập tăng
đoàn là để học đạo tu hành.
- Vậy th́ con
đâu có cần ǵ phải nói về chuyện ấy.
Nếu chỉ v́ việc học đạo tu hành th́ dù chúng
ta có được thí chủ cúng dường chỉ
một hột mè hay một hột bắp cũng vẫn là
đầy đủ. Thôi con hăy lui đi, hăy lấy
việc tu hành làm trọng, đừng để tâm
đến chuyện ăn uống nữa!
Tuy đức
Phật dạy La Hầu La như vậy, nhưng Ngài
cũng thấy việc thí chủ cúng dường tăng
chúng với tâm phân biệt là không phải. Bởi vậy,
sau khi La Hầu La đi rồi, Ngài lại cho mời Xá
Lợi Phất đến. Ngài dạy:
- Thầy Xá Lợi
Phất! Hôm nay thầy đă nhận được các
thức ăn không trong sạch, thầy có biết không?
Tôn giả nghe
Phật bảo thế th́ thất kinh, bèn chạy ra ngoài,
đem bao nhiêu thức ăn vừa ăn xong cho ói ra
hết, rồi trở vào thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Từ khi theo Thế Tôn xuất gia đến giờ, con
luôn luôn y theo cách thức khất thực do Thế Tôn
chỉ dạy mà hành tŕ . Con chưa bao giờ trái lời
Thế Tôn để xin những thứ đồ ăn
không trong sạch.
Tâm ư của tôn
giả thế nào th́ đức Phật đă thấy rơ,
cho nên Ngài giải thích:
- Thầy Xá Lợi
Phất! Như Lai biết rất rơ là thầy luôn luôn hành
tŕ pháp chế khất thực thật đúng cách, nhưng
đối với tinh thần ḥa ái trong nếp sống
tăng đoàn th́ ḿnh không nên chỉ biết có ḿnh. Pháp
chế luôn luôn phải b́nh đẳng, mà lợi lộc th́
cũng phải chia sẻ đồng đều; hơn
nữa, là bậc trưởng thượng trong chúng th́ lúc
nào cũng nên thương yêu và quan tâm săn sóc các thầy
t́ kheo nhỏ tuổi cũng như các chú sa di chưa
trưởng thành! Một điều điển h́nh là
trong lúc đi khất thực, quí thầy nên để tâm
đến họ.
Nghe Phật dạy,
Xá Lợi Phất đă hiểu rơ sự việc. Tôn
giả rất cảm kích đối với ḷng từ ái
của Phật đối với các đệ tử,
nguyện tiếp nhận, ghi nhớ và hành tŕ lời
Phật dạy.
6.-
KẺ PHẢN BỘI PHẢI SỢ SỆT:
Trong số
đệ tử của Phật có một vị t́ kheo tên
là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), vốn là em họ
của Phật. Khoảng mười năm sau khi theo
Phật xuất gia, ông bị ma nghiệp làm mê muội tâm
linh, đă phản bội đức Phật và tách rời
tăng đoàn của Phật.
Một ôm sau giờ
ngọ trai, đức Phật và chúng tăng cùng nghỉ
ngơi trong giảng đường, bất ngờ,
Đề Bà Đạt Đa đến yêu cầu Phật
trao quyền lănh đạo giáo đoàn lại cho ông ta.
Đứchật không chấp thuận. Ông bèn la hét giận
dữ, nhưng ngài vẫn yên lặng. Ông lại kêu gọi
chúng tăng hăy đi theo ông ta. Lúc ấy, em của ông, tôn
giả A Nan (Ananda), đứg dậy tiến đến
trước mặt ông nói:
- Xin sư huynh
đừng có vọng tưởng. V́ sư huynh là bậc
huynh trưởng của tôi, nên khi nghĩ đến
những tội lỗi nặng nề sư huynh đă
tạo ra, nghĩ đến sự đọa lạc mà
sư huynh phải chịu trong tương lai, tôi cảm
thấy vô cùng xót xa. Đức Thế Tôn là bậc
đại từ bi, một người nhu sư huynh th́
đâu thể nào so sánh được. Nếu hôm nay mà có
hai sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở
đây th́ nhất định là sư huynh không thể buông
lung như thế được ...
Sau đó, với
sự ủng hộ nhiệt t́nh của vua A Xà Thế
(Ajatasatru - Ajatasattu), Đề Bà Đạt Đa đă dùng
nhiều cách như uy hiếp, hoặc đem lợi
lộc dụ dỗ, để níu kéo một số
đệ tử của Phật đi theo ông; đó là
những vị t́ kheo mới xuất gia, nhẹ dạ, ḷng
tin chưa vững chắc, thấy có lợi lộc và uy
thế của vua là đi theo.
Một hôm, nhân lúc các
t́ kheo đệ tử của Phật bỏ theo Đề
Bà Đạt Đa và các đệ tử riêng của
Đề Bà Đạt Đa nhóm họp tại một
nơi nọ, Xá Lợi Phất bỗng xuất hiện.
Với một phong cách đầy uy lực và trang nghiêm, tôn
giả nói với họ:
- Thưa quí huynh
đệ! Tôi có mặt ở đây hôm nay cốt xin
hỏi quí huynh đệ một câu: Quí thầy xuất gia
tu hành là chính v́ để thọ nhận sự cúng
dường hay là v́ sự tu học?
Tất cả
đồng trả lời:
- Chỉ v́ sự tu
học, v́ muốn thoát khỏi biển khổ sinh tử.
- Nếu đă
như vậy th́ tại sao qui huynh đệ không đi theo
con đường chân chánh do đức Phật chỉ
dạy, mà lại đem cái ḷng tin thuần khiết, tôn quí
của ḿnh dâng cho kẻ hoàn toàn bị dao động
bởi lợi dưỡng vật chất? Xin qui huynh
đệ hăy tỉnh ngộ?
Trong khi tôn giả nói
những lời ấy th́ từ trên thân thể tôn giả
xuất hiện muôn đạo hào quang sáng rỡ. Trong hào
quang ấy lại hiện ra từ dung của đức
Phật, khiến cho tất cả chúng t́ kheo lạc
lối ấy bỗng nhiên đều qú cả xuống và
nói lên lời sám hối. Tôn giả bèn đưa tất
cả trở về lại với tăng đoàn.
Đem lại sự
ḥa hợp cho tăng đoàn là một công lao vô cùng to
lớn của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức
Phật hết sức khen ngợi. Riêng Đề Bà
Đạt Đa, ông không sợ đức Phật mà
lại rất sợ Xá Lợi Phất.
Về sau, v́ tội
nghiệp quá thâm trọng nên Đề Bà Đạt Đa
phải đọa vào địa ngục. Vua A Xà Thế th́
sớm biết ăn năn hối lỗi nên đă
được cứu độ. C̣n tôn giả Xá Lợi
Phất th́ càng được tăng đoàn kính trọng.
7.-
TIẾP NHẬN MỘT PHÁP MÔN CỨU ĐỘ CHÚNG SINH:
Một lúc nọ
đức Phật ngự tại tu viện Ḱ Viên. V́
thương xót chúng sinh măi phiêu bạt trong biển khổ
sinh tử không nơi nương tựa, luân hồi trong
sáu nẻo mà không biết được một nơi nào
có an lạc hạnh phúc chân thật để quay về,
cho nên Ngài muốn nói một pháp môn để cứu
độ; đó là giới thiệu cơi Cực Lạc
của đức Phật A Di Đà (Amita) và cách thức
rất dễ hành tŕ để được văng sinh
về cơi ấy, nhưng lại sợ những
người có căn cơ thấp kém, tin không tới mà
không chịu tiếp nhận, Ngài bèn quyết định
chọn tôn giả Xá Lợi Phất làm đối
tượng nói pháp. Trong số thính chúng lúc bấy giờ
cũng gồm đủ những người có các căn
cao, vừa, thấp, nhưng v́ Ngài biết rơ rằng,
chỉ có vị đại trí tuệ ấy mới
biết được cái cảnh giới thật thanh
tịnh, thật trang nghiêm của cơi Cực Lạc, và mới
có được ḷng tin chân thật nơi đức
Phật A Di Đà. Ngài dạy:
- Này Xá Lợi
Phất! Cách thế giới của chúng ta thật xa về
phương Tây, có một thế giới tên là Cực
Lạc. Vị giáo chủ chu thế giới ấy là
đức Phật A Di Đà, hiện tại đang nói
pháp. Thầy Xá Lợi Phất! V́ sao cơi đó tên là Cực
Lạc? Bởi v́ cơi đó cái ǵ cũng viên măn, ở đâu
cũng an lạc, không giống như thế giới Ta Bà
có quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều thống
khổ của chúng ta ở đây. Ở cơi nước
ấy, nói về thiên nhiên th́ đất đai bằng
phẳng. sự vật dồi dào, trong sạch, ngay
thẳng, đẹp đẽ; nói về nhân quần xă
hội th́ mọi thứ tiện ích và nhu yếu cho
đời sống con người đều sẵn có
đầy đủ, và người ta chỉ dùng
đến khi nào cần thiết. Khắp cơi nước
ấy, chỗ nào cũng như là đô thị với
những kiến trúc đường hoàng, tề chỉnh,
chỗ nào cũng là vườn hoa tươi đẹp
muôn màu. Thầy Xá Lợi Phất! Chỉ cấn nhất
tâm tŕ niệm danh hiệu đức Phật A Di Đa và siêng
năng tu học ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, vun trồng phước đức th́ trong
tương lai nhất định sẽ được
đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế
giới ấy của Ngài. Chúng sinh ở thế giới Ta
Bà này, nếu muốn thoát khỏi những khổ năo
của sinh tử luân hồi th́ chỉ cần phát nguyện
cầu được văng sinh về thế giới đó.
Như Lai đă từng bảo A Nan lễ bái đức
Phật A Di Đà và thầy ấy cũng đă từng
thấy được từ quang của Ngài. Đại
chúng hăy tin tưởng sâu sắc vào pháp môn khó tin mà Như
Lai vừa nói ra; đó mới xác thật là con
đường được cứu độ của
chúng sinh.
Tôn giả Xá Lợi
Phất hoàn toàn không có chút ǵ hoài nghi về những
điều đức Phật vừa nói. Tôn giả và toàn
thể đại chúng đều tin tưởng sâu sắc
nơi pháp môn này.
8.-
ĐỨC NHƯỜNG NHỊN:
Tôn giả Xá Lợi
Phất, đối với giáo pháp của đức
Phật th́ một mực tin tưởng, tôn kính và thực
hành; đối với công việc hoằng pháp th́ hết
sức chuyên cần; nhưng đối với cá nhân ḿnh
th́ không bao giờ kể đến công lao; có những khen
thưởng, lợi lộc ǵ cũng nhường cho
người khác.
Một lần
nọ, đức Phật dẫn chúng tăng đi hành hóa.
Lúc về đến thành Xá Vệ th́ nhóm t́ kheo
thường được đại chúng gọi là
“lục quần t́ kheo”, đă cố đi thật lẹ
để về tu viện Ḱ Viên trước mọi
người. Họ tranh nhau chiếm hết các chỗ
ngủ nghỉ tương đối tốt trong chúng,
kể cả tịnh thất của tôn giả Xá Lợi
Phất. Họ bảo: “Đây là chỗ của
đức Phật, thầy ta, ta có quyền cư trú”.
Hôm đó Xá Lợi Phất lại về rất trễ. Khi
về đến tu viện, trông thấy tịnh thất
của ḿnh đă bị nhóm “lục quần t́ kheo” chiếm
ngụ, tôn giả không phiền hà ǵ cả, bèn ra gốc cây
tĩnh tọa suốt đêm đó. Sáng sớm đức
Phật dậy, nghe tiếng ho húng hắng ở ngoài
gốc cây. Ngài hỏi:
- Thầy nào ngoài
đó? Sao không tĩnh tọa ở trong nội thất?
Tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Con là Xá Lợi Phất. V́ hôm qua số huynh đệ theo
Thế Tôn về tu viện đông quá, các pḥng ốc
đều không c̣n chỗ trống nên con tạm nghỉ
ở gốc cây một đêm.
Đức Phật
nghe vậy th́ khen ngợi tôn giả là người có
đức nhường nhịn. Tuy vậy, Ngài cũng
tạp họp đại chúng để dạy bảo.
Ngài hỏi:
- Này quí thầy! Trong
giáo đoàn chúng ta, những ai xứng đáng
được dùng giường tốt nhất,
được hưởng thọ các đồ ăn
thức uống ngon nhất?
Đại chúng
đều trả lời khác nhau. Người th́ cho là
những vị t́ kheo xuất thân từ hoàng gia quí tộc;
người th́ cho là những vị t́ kheo xuất thân từ
chủng tộc Bà la môn; người th́ cho là những
vị tinh tấn tu hành và chuyên cần bố giáo. Cuối
cùng Phật dạy:
- Này quí thầy! Ngày
xưa trong núi Tuyết có một con chim, một con
vượn và một con voi cùng kết bạn sống chung
với nhau. Tuy vậy, v́ thân thể, súc vóc và trí khôn của
chúng đều khác nhau, nên con nào cũng tự cao tự
đại, không tôn kính lẫn nhau. Về sau cả ba
đều tự biết như vậy là không phải, cho
nên đă cùng thỏa thuận với nhau là con nào tuổi
tác cao nhất th́ được hai con kia tôn kính và nghe
lời dạy bảo. Nhờ vậy, sau khi mạng chung,
chúng đều được chuyển sinh về các cơi
lành. Cũng vậy, nếu quí thầy biết tôn kính các
bậc trưởng thượng th́ chẳng những trong
hiện tại được mọi người khen
ngợi mà đời sau sẽ được sinh về
các cơi lành. Này quí thầy! Trong giáo pháp của Như Lai không
có các giai cấp cao thấp, nhưng có các vị
trưởng lăo mà pháp lạp cũng như giới lạp
đều cao, đáng phải được đại
chúng tôn kính, cúng dường, phụng sự và lễ bái.
Chính những vị trưởng lăo ấy mới xứng
đáng được dùng giường tốt nhất,
được ưởng thọ các đồ ăn
uống ngon nhất.
9.-
HẾT L̉NG KHEN NGỢI MỘT CÁI CHẾT THẬT
ĐẸP:
Tuy là một vị
trưởng lăo đă chứng quả thánh, nhưng tôn
giả Xá Lợi Phất vẫn tỏ ḷng kính trọng
đối với quí vị phụ nữ đạt được
những thành quả cao quí trong việc tu học.
Một hôm, lúc
đang ngồi thiền trong một khu rừng ở
ngoại ô kinh thành Vương Xá, bỗng tôn giả nghe
tiếng kêu lớn của ni sư Ưu Ba Tiên Na (Upasena)
cũng đang ngồi thiền ở một hang núi gần
đó. Tôn giả lập tức t́m đến nơi.
Thấy tôn giả, ni sư thưa:
- Bạch thầy!
Vừa mới đây, trong lúc đang ngồi thiền, con
cảm thấy như có con ǵ đang ḅ trên người con.
Mới đầu con không chú ư đến, nhưng sau th́ con
biết đó là một con rắn cực độc, và nó
đă cắn con. Chắc chắn là con sắp chết. Trong
thời khắc ngắn ngủi này c̣n lại này. Xin
thầy hoan hỉ t́m các mời quí thầy và quí ni sư
trong vùng này đến đây cho con được từ
biệt.
Trong lúc nói lên
những lời này, ni sư Ưu Ba Tiên Na thật b́nh
tĩnh, không hề hoảng hốt, đau buồn như
thể không có việc ǵ xảy ra. Xá Lợi Phất
nghĩ là t́nh trạng không đến nỗi nào, cho nên nói:
- T́nh trạng không
đến nỗi nghiêm trọng đến thế đâu,
ni sư ạ! Người bị rắn độc
cắn th́ sắc diện biến đổi ngay. Tôi
thấy sắc diện của ni sư vẫn không có chút ǵ
thay đổi.
- Bạch thầy!
Thân thể con người là do “tứ đại” và
“ngũ uẩn” tập hợp cùng các nhân duyên khác mà thành, nó
không có chủ thể, vốn là vô thường, là không;
đó là đạo lí mà con đă thể ngộ
được. Vậy th́ con rắn làm sao có thể
cắn cái “không" được?
Xá Lợi Phất
bấy giờ biết rơ ni sư Ưu Ba Tiên Na đă
thật sự đạt đạo. Tôn giả tán thán:
- Ni sư nói rất đúng;
và như thế là ni sư đă thoát khỏi
được sự đau đớn của thể xác,
đă dùng huệ mạng của ḿnh để duy tŕ
sắc diện không biến đổi.
Nói xong, tôn giả
tức tốc đi thông báo cho quí vị t́ kheo và t́ kheo ni
đang tu tập quanh vùng. Họ liền tụ họp
về hang núi, cùng d́u ni sư Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang.
Lúc bấy giờ, nọc độc của rắn đă
chạy khắp châu thân, t́ kheo ni Ưu Ba Tiên Na, thần
sắc vẫn an nhiên như không hề có việc ǵ xảy
ra, liền nhập niết bàn. Đứng trước con
người giải thoát đó, đại chúng đều
hoan hỉ tán thán. Tôn giả Xá Lợi Phất nói với
mọi người:
- Người tu hành
điều phục được tâm ư th́ xem cái chết
của thể xác như đổ bỏ chén nước
độc, như bịnh nặng được lành.
Sắp chết mà tâm ư vẫn bất động, thần
sắc vẫn an nhiên là v́ người đă dùng con mắt
trí tuệ để nh́n các tướng trạng của
thế gian, đă vượt ra khỏi ngôi nhà lửa.
Thật là tuyệt đẹp!
Lời tán thán
của tôn giả Xá Lợi Phất dành cho t́ kheo ni Ưu Ba
Tiên cũng tức là cái nh́n của Phật Giáo đối
với sự chết. Những vị tu hành đạt đạo
trong Phật Giáo đều có cái nh́n đối với cái
chết hoàn toàn giống nhau như vậy.
(Có sách nói, Ưu Ba
Tiên Na là một vị t́ kheo, em của tôn giả Xá Lợi
Phất. - Chú thích của người dịch).
10.-
L̉NG KHOAN THỨ:
Ngày tháng trôi qua,
tuổi ngày một cao, năm đó tôn giả Xá Lợi
Phất đă gần tám mươi. Tuy vậy, v́ tâm
nguyện hoằng pháp độ sinh vẫn mạnh mẽ,
tôn giả đă không ngần ngại tuổi già sức
yếu, không quản gian nan khó nhọc, cho nên, sau khi khóa an
cư mùa mưa vừa chấm dứt tại tu viện Ḱ
Viên, tôn giả liền xin phép đức Phật đi du
phương hóa đạo. Phật hứa khả,
đồng thời khen ngợi trước đại
chúng cái tinh thần v́ đạo và v́ người của
tôn giả.
Tôn giả rời tu
viện không bao lâu th́ bỗng một vị t́ kheo
đến trước đức Phật thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn!
Đại đức Xá Lợi Phất lần này đi vân
du không phải với tâm niệm chân chính, không phải v́
hoàng dương Phật pháp, mà chính v́ đại
đức đă khinh khi làm nhục con, rồi sinh ra hổ
thẹn, không muốn nh́n thấy mặt con nữa, cho nên
kiếm cách ra đi mà thôi.
Việc nói xấu
người khác ở sau lưng như vậy đă làm cho
đức Phật không hài ḷng. Ngài bèn cho người
tức tốc theo mời tôn giả Xá Lợi Phất quay
về tu viện. Tôn giả vào thẳng giảng
đường hầu Phật. Bấy giờ,
trước mặt đông đủ đại chúng, Ngài
hỏi tôn giả:
- Thầy Xá Lợi
Phất! Sau khi thầy rời tu viện không lâu, có một
thầy lên đây nói với Như Lai rằng, chính thầy
đă khinh khi làm nhục thầy ấy, việc đó có
thật không?
Tôn giả cung kính
thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Từ khi con xuất gia theo Thế Tôn tu học, đến
nay đă gần tám mươi tuổi. Con nhớ rất
rơ, trong suốt khỏng thời gian này, con chưa từng
sát hại một sinh mạng; chưa từng nói một
lời hư vọng; ngoài việc tuyên dương chân lí
ra, con chưa hề nói đến các chuyện lợi, hại,
được, mất, hoặc bàn luận về sở
trường hay sở đoản của bất cứ
một người nào. Trong ba tháng an cư vừa qua, ngày
ngày con đều sám hối, không hề để mất
chánh niệm. Tâm con trong vắt như ngọc bích, không có
một mảy may bất b́nh, th́ có lí nào con lại dám khinh
khi làm nhục người khác! BạchThế Tôn! Bùn
đất quả thật là có đức nhẫn nhục.
Bất luận là đồ vật dơ dáy dến thế
nào nó cũng không cự tuyệt; nó nhận tất cả
những thứ như phân, nước tiểu, máu, mủ,
đờm, dăi v.v... như nhận thức ăn ngon
ngọt. tấm ḷng của đối với mọi
người mà con xin bộc bạch trước Thế Tôn
hôm nay, cũng giống như bùn đất vậy.
Bạch Thế Tôn! Ḍng nước trong kia, bất kể là
đồ vật tốt xâu, nó đều rửa sạch;
tấm ḷng của con đối với mọi
người không hề có niệm yêu ghét, giống như
ḍng nước kia vậy. Bạch Thế Tôn! Cây chổi
dùng để quét sạch rác bụi. Trong lúc quét, nó không
lựa chọn rác tốt rác xấu. Tấm ḷng của con
đối với mọi người cũng như cây
chổi vậy, không hề có niệm phân biệt. Bạch
Thế Tôn! Tâm con thường xuyên an trú trong chánh niệm,
quyết không thể khinh suất đến nổi làm
nhục thầy ấy. Trong khi con thưa những lời
này với Thế Tôn th́ con đă tự biết tâm của
con thế nào; và chắc hẳn vị t́ kheo kia cũng
đă tự biết tâm của ḿnh. Nếu quả thật
là con có lỗi th́ con sẽ xin sám hối trước
thầy ấy để cho tâm con không bị ray rứt.
Bằng thái
độ khiêm cung nhưng cương nghị, tôn giả
Xá Lợi Phất đă bày tỏ tấm ḷng chân thành của
ḿnh trước đức Phật, khiến cho toàn thể
đại chúng, không ai là không cảm động.
Đức Phật bèn bảo vị t́ kheo đă hủy báng
Xá Lợi Phất:
- Thầy đă
hủy báng một vị trưởng lăo th́ không thể
không sám hối. Thầy đă có ư làm cho tăng đoàn
khởi lên cuộc tranh luận, và như thế tức là
thầy không có tinh thần xây dựng sự ḥa hợp cho
tăng đoàn. Nếu thầy không chân thành hối lỗi
th́ rồi đây sẽ phải chịu quả báo đau
khổ không cùng.
Vị t́ kheo kia nghe
lời Phật dạy, vội vàng đến qú
trước Phật, khẩn cầu:
- Bạch Thế Tôn!
Đại đức Xá Lợi Phất quả thật là
bậc cao thưọng. Đối với một vị có
trí tuệ và hùng lực như vậy mà con đă không
biết hộ tŕ và học tập, lại c̣n đem ḷng
tật đố, xin Thế Tôn thương xót, cho con
được cơ hội sám hối tội lỗi!
Một cách từ
ḥa, đức Phật bảo:
- Thầy hăy
đến xin sám hối với thầy Xá Lợi Phất!
Vị t́ kheo kia
liền đến qú trước Xá Lợi Phất. Tôn
giả lấy tay rờ đầu vị t́ kheo và dịu
dàng bảo:
- Trong giáo pháp của
đức Thế Tôn, sự sám hối thật vô cùng
hữu ích. Làm người ai cũng có thể lầm
lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi th́
đó là việc lành rất lớn. Hôm nay tôi chấp
nhận sự sám hối của thầy, từ nay thầy
đừng bao giờ phạm lỗi nữa!
Thái độ và ngôn
từ của Xá Lợi Phất đă làm cho đại chúng
hoàn toàn an lạc.
11.-
NHẬP KIM CƯƠNG ĐỊNH:
Lúc ấy đức
Phật ngự tại tu viện Trúc Lâm ở ngoại ô
kinh thành Vương Xá. Một hôm tôn giả Xá Lợi
Phất đang nhập định kim cương trong núi
Ḱ Xà Quật (Grdhrakuta - Gijjhakuta) th́ có hai con quỉ
đến gần. Nguyên đó là hai con quỉ đang
trấn thủ ở núi này, một con th́ hiền lành tên là
Ưu Ba Ca La và một con th́ hung ác tên là Già La. Khi thấy Xá
Lợi Phất đang ngồi nhập định, con
quỉ dữ bảo con quỉ hiền rằng:
- Này Ưu Ba Ca La, ta
muốn đánh nát đầu ông sa môn kia quá!
Quỉ hiền
cản ngăn:
- Đừng nói
bậy! Vị sa môn kia là đệ tử của
đức Phật. Ông ta là người thông minh trí tuệ
số một mà uy đức thần lực cũng cao
thâm. Nếu ngươi có ư đồ xấu xa đối
với ông th́ trong tương lai sẽ vĩnh viễn
trầm luân, chịu khổ báo vô lượng.
- Ngươi sợ
sa môn lắm vậy sao! Chính sa môn là bọn dễ ăn
hiếp nhất trên đời này. Để ngươi
xem, chỉ một quyền này của ta là cái đầu ông
ấy sẽ nát vụn như cám!
- Đúng như
ngươi nói, ta rất sợ quí vị sa môn! Tuy họ là
những người có thể ăn hiếp
được, nhưng đó là v́ họ tu hạnh
nhẫn nhục. Mặc dù vậy, đức lực
của họ uy mănh vô cùng, nếu ngươi đánh
họ, họ chỉ có thể bị đau đớn
trong chốc lát, nhưng c̣n ngươi th́ sẽ vĩnh
viễn khổ đau ...
Nhưng dù con quỉ
hiền nói ǵ th́ con quỉ dữ vẫn không thèm nghe theo. Nó
liền vung tay, nhắm ngay đỉnh đầu tôn
giả đánh xuống! Con quỉ hiền không dám nh́n, bèn
ẩn thân đi mất. Nói th́ chậm chứ cú đánh
của con quỉ dữ lúc đó lẹ lắm. Tôn giả
bỗng cảm thấy như có chiếc lá rụng trên
đầu, bèn xả định, mở mắt ra th́
thấy một con ác quỉ ḿnh mẩy máu me dầm dề,
và liền đó, nó đọa ngay vào địa ngục.
Tôn giả
đứng dậy, y áo chỉnh tề, trở về tu
viện Trúc Lâm bái kiến đức Phật. Thấy tôn
giả, đức Phật hỏi:
- Thầy Xá Lợi
Phất! Thân thể thầy có được an khang không?
- Bạch Thế Tôn!
Con vẫn không có bịnh hoạn ǵ cả, mà chỉ
cảm thấy hơi đau trên đầu mà thôi.
- Thầy Xá Lợi
Phất! Hôm nay v́ thầy nhập kim cương
định nên quỉ Già La đă không thể đả
thương thầy được; nếu không th́,
thầy biết không, một cái đánh của nó có thể
chẻ hai núi Tu Di! Thế mới biết, thần lực
của kim cương định lớn lao là như
vậy, tất cả quí thầy nên tinh tấn tu tŕ.
12.-
XIN PHẬT CHO PHÉP NHẬP NIẾT BÀN TRƯỚC:
Lúc bấy giờ
Phật đang ngự trong một khu rừng thuộc làng
Trúc Phương, ở ngoại ô thành T́ Xá Li (Vaisali- Vesali).
Hôm đóm sau thời pháp thoại, đức Phật đă
thông báo cho toàn thể đại chúng biết rằng, trong
ba tháng nữa Ngài sẽ nhập niết bàn. Lời thông báo
đó của Ngài đă làm cho mọi người kinh hoàng,
sửng sốt, và đau buồn cực độ. Riêng Xá
Lợi Phất th́ xót xa đến nỗi không muốn nh́n
thấy đức Phật nhập niết bàn. Trong lúc
thiền định, tôn giả quán niệm: “Trong quá
khứ, các vị đệ tử thượng thủ
của chư Phật đều nhập niết bàn
trước chư Phật. Ngày nay ḿnh cũng là đệ
tử thượng thủ của Phật, vậy ḿnh
cũng nên nhập niết bàn trước Phật".
Nghĩ thế, tôn
giả bèn xuất định, đến qú trước
đức Phật, thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Giờ đây con muốn nhập niết bàn, xin Thế Tôn
hứa khả cho.
Đức Phật
chăm chú nh́n Xá Lợi Phất, hồi lâu mới hỏi:
- V́ sao thầy
muốn nhập niết bàn sớm vậy?
- Bạch Thế Tôn!
Thế Tôn đă bảo, không c̣n bao lâu nữa Thế Tôn
sẽ nhập niết bàn. Thế Tôn đă ban cho quá
nhiều ân đức lớn lao, làm sao con cầm ḷng
được khi nh́n thấy Thế Tôn nhập niết
bàn! Vả lại, Thế Tôn đă từng dạy, trong quá
khứ, các vị đệ tử thượng thủ
của chư Phật đều nhập niết bàn
trước chư Phật, th́ con nghĩ, nay cũng
vậy, đây chính là lúc con nên nhập niết bàn. Xin
Thế Tôn từ bi hứa khả.
- Thầy muốn
nhập niết bàn tại đâu?
- Bạch Thế Tôn!
Làng Ca La Tí Noa Ca là quê hương của con, nơi đó,
thân mẫu con nay đă trên một trăm tuổi và vẫn
c̣n khỏe mạnh. Con muốn về đó để
thăm thân mẫu con lần cuối, sau đó con sẽ nhập
niết bàn ngay trong căn pḥng mà trước kia thân mẫu
đă từng sinh dưỡng con.
- Thầy đă
muốn thế th́ Như Lai cũng không thể ngăn
cản được. Có điều, thầy là đệ
tử thượng thủ của Như Lai, vậy trước
khi lên đường, thầy cũng nên có vài lời giáo
huấn để lại cho đại chúng.
- Bạch Thế Tôn!
Từ vô lượng kiếp con đă mong cầu
được sinh nhằm vào thời đại có
Phật trụ thế, và cuối cùng, kiếp này con đă
được măn nguyện. Niềm vui mừng
được gặp Phật của con thật trên
đời không ǵ có thể so sánh được! Trong
hơn bốn mươi năm qua, nhờ ơn Thế Tôn
từ bi dạy bảo mà một người ngu si như
con đă mở được con mắt trí tuệ,
thấy rơ được chân lí. Niềm hoan hỉ và ḷng
cảm kích của con đối với Thế Tôn thật
không thể dùng ngôn từ của thế gian để
diễn ta hết được. Giờ đây, không c̣n bao
lâu nữa con sẽ từ giă cơi đời. Nhờ
hưởng thọ nước pháp cam lộ của
Thế Tôn mà con giải thoát được tất cả
những ràng buộc của thế gian, không c̣n khổ năo,
và nhập vào cảnh giới niết bàn tự tại.
Bạch Thế Tôn! Đó là mấy lời từ biệt
của con, xin Thế Tôn cho con được đảnh
lễ!
Tôn giả
đảnh lễ đức Phật. Không khí trong giảng
đường lúc bấy giờ thật nghiêm trang,
trầm mặc ... Đức Phật bảo Xá Lợi
Phất:
- Thầy Xá Lợi
Phất! Tất cả những ǵ Như Lai đă giảng
nói, thầy đều đă lĩnh hội. Bây giờ
Như Lai thọ kí cho thầy: Trong đời vị lai,
thầy sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai,
giáng thế giáo hóa chúng sinh để hoàn thành đạo
quả vô thượng.
Đức Phật
nói xong liền bảo đại chúng tiễn tôn giả Xá
Lợi Phất lên đường. Chư tăng
đều cầm hương hoa tiễn đưa tôn giả.
Họ đi thành hàng, thật yên lặng, thật trang
nghiêm, nhưng cũng thật buồn! Hầu như không ai
cầm được nước mắt ...
13.-
NHỮNG LỜI SAU CÙNG VỚI ĐẠI CHÚNG:
Đại chúng yên
lặng đi theo tôn giả Xá Lợi Phất
được một khoảng đường th́ tôn
giả dừng bước. Đại chúng cũng dừng
bước theo. Tôn giả xoay mặt lại đối
trước đại chúng, cung kính nói:
- Tôi xin cảm
tạ tất cả đại chúng. Quí vị tiễn tôi
đến đây như vậy là đủ rồi. Bây
giờ xin phép quí vị cho một ḿnh chú Quản
Đầu theo tôi, c̣n tất cả quí vị xin trở
lại tu viện để tiếp tục tu học. Thưa
đại chúng! Việc tu học là thiết yếu hơn
hết, tôi hi vọng quí vị luôn luôn nổ lực, tinh
tấn để chóng thoát khỏi những ràng buộc
của ưu bi khổ năo và nhập vào thế giới
của tự tại, giải thoát. Đức Thế Tôn
xuất hiện ở thế gian cũng giống như
bông ưu bát la nở hoa, hàng mấy ngàn năm mới có
một lần. Được sinh làm người đă là
việc khó, mà được có ḷng tin chân chính, chắc
thật, tinh khiết, thuần thành nơi Tam Bảo
lại càng khó hơn. Nay chúng ta đă được
sống đời xuất gia phạm hạnh,
được đức Thế Tôn tự thân dạy dỗ,
đó là việc hiếm có trong cả trăm ngàn muôn ức
kiếp. Tất cả mọi sự đều là vô
thường. Xin quí vị một ḷng tu tập tinh cần
măi măi để vượt thoát khổ đau và
đạt được niết bàn tịch tịnh.
Đó mới là nơi an trú vĩnh viễn của chúng ta.
Tôi cũng rất trông mong quí vị, hăy v́ đức
Thế Tôn mà tuyên dương rộng răi giáo pháp của
Người. Tất cả hăy v́ phúc lợi của nhân sinh
chứ đừng v́ danh lợi của riêng cá nhân ḿnh. Xin
bái biệt!
Nghe mấy lời
của tôn giả, đại chúng vô cùng xúc động.
Họ đều biết rằng, lần ra đi này
của tôn giả sẽ là lần ra đi vĩnh viễn.
Tôn giả sẽ không bao giờ trở lại nữa, Cho
nên những lời của tôn giả hôm nay cũng chính là
những lời nhắn nhủ sau cùng của tôn giả
để lại cho họ. Không ai là không cung kính, không ai là
không ngậm ngùi thương tiếc! Bởi vậy, dù tôn
giả đă nhắc lại lời cáo biệt và xin
đại chúng quay gót, nhưng ai cũng quyến luyến,
cứ yên lặng đứng tại chỗ, không nỡ
rời tôn giả. Không biết làm sao hơn, tôn giả
đành quay lưng bước đi ... Và đại chúng
vẫn đứng yên lặng nh́n theo ... Họ nghĩ
đến sự việc “từ nay sẽ không ai c̣n
được nh́n thấy bậc trí tuệ đệ
nhất ấy nữa!”, bất giác mọi người
đều rơi lệ! Dù đại chúng đều là
những vị đă giác ngộ, nhưng t́nh người,
t́nh đạo và t́nh bạn vẫn luôn luôn là những
thứ t́nh cảm chân thật trong ḷng mọi người.
14.-
CỐ HƯƠNG:
Sau khi bái biệt
đức Phật và tăng đoàn, trên đường
về cố hương, trong ḷng tôn giả Xá Lợi
Phất đă khởi sinh nhiều suy nghĩ; nhưng không
v́ vậy mà bị loạn động, trái lại, tâm ư tôn
giả bấy giờ như trở nên sáng rỡ hơn bao
giờ hết. Tôn giả thấy ḿnh như đang
đứng trên đỉnh ngọn Tuyết Sơn, và toàn
thể vũ trụ lúc ấy đều nổi hiện rơ
rệt trong tâm trí; bất giác tôn giả cảm khái vô
hạn ...
Khi về gần
đến làng cũ th́ mặt trời cũng vừa
lặn, chỉ c̣n một vệt ráng đỏ ở chân
trời, tôn giả bèn ngồi xuống một bên
đường để nghỉ ngơi. Bỗng nhiên,
người cháu của tôn giả là Ưu Bà Li Bà Đa
chạy tới đảnh lễ, nhân đó tôn giả
hỏi:
- Bà nội có ở
nhà không cháu?
- Thưa tôn giả,
bà nội cháu có ở nhà.
- Cháu hăy về
thưa với bà là bác vừa trở về!
- Dạ!
- Cháu thưa với
bà hăy cho người quét dọn sạch sẽ căn pḥng
khi xưa bà đă sinh ra bác. Bác ngồi nghỉ ở đây
một lúc rồi sẽ về.
- Dạ!
Người cháu
đâu có biết tôn giả về nhà để làm ǵ, cho nên
chỉ một mực vâng dạ và chạy mau về nhà
để thưa lại cho bà nội biết.
Đă lâu lắm
rồi Xá Lợi Phất chưa từng về thăm nhà,
nay đột nhiên được tin con về th́ cụ bà
vui mừng không kể xiết. Tuy bây giờ Xá Lợi
Phất đă 80, nhưng đối với cụ bà th́ tôn
giả vẫn là đứa con thơ của ḿnh như
tự thuở nào ... Quét dọn sạch sẽ căn pḥng
ngày xưa đă sinh ra Xá Lợi Phất ư? Thật
lạ lùng! Nhưng niềm vui sắp được
gặp con ngay trong chốc lát nữa đây đă choáng
hết tâm hồn cụ, đâu cần phải thắc
mắc điều ǵ!
Căn pḥng vừa
được quét dọn sạch sẽ xong th́ tôn giả
cũng vừa về tới. Cụ bà cùng cả nhà
đều vui mừng đến chảy nước
mắt. Cụ nói:
- Cuối cùng rồi
đại đức cũng đă về!
Tôn giả cũng
tỏ nỗi vui mừng được gặp lại
mẹ và mọi người trong nhà. Nhưng liền đó
th́ tôn giả thưa ngay với cụ bà về ư định
của ḿnh để cho bà cụ và mọi người
trong nhà rơ. Cụ bà nghe thế th́ kinh hoàng tột
độ! Tôn giả vội trấn tỉnh:
- Xin mẹ hăy b́nh
tĩnh. Sự nhập niết bàn của con là điều
nên hoan hỉ, v́ nó khác với cái chết của
người thường. Lúc này tâm con hoàn toàn yên ổn và
sáng suốt. Đời này con đă may mắn
được gặp Phật và được hóa
độ, được cứu ra khỏi cái biển mê
sinh tử, được giải thoát khỏi những
khổ đau của phiền năo, hoàn toàn không c̣n một
sự sợ hăi nào. Hôm nay con về đây là để
nhập niết bàn. Xin mẹ hăy hoan hỉ lên, trong
đời ai lại không có lúc chết, nhưng nếu
chết không mê muội để thường trú trong
cảnh giới niết bàn tịch tịnh như con hôm nay
th́ đó là hạnh phúc lớn lao.
Cụ bà tuy rất
buồn nhưng cũng hiểu được những
điều tôn giả vừa nói. Cụ thấy rơ
được sự đẹp đẽ cùng sự
tự do giải thoát của con ḿnh trong lúc chuẩn bị
ĺa đời, bất giác trong tâm cụ cũng khởi lên
niềm hoan hỉ vô biên. Cụ ước mong sao
đến lúc cụ lâm chung cũng được như
vậy ...
Bấy giờ tôn
giả tụng lại những bài pháp ngữ của
đức Phật cho cụ bà và mọi người nghe.
Cụ bà rất hiểu tâm ư của tôn giả, liền nói:
- Đại
đức nói rất đúng, vượt thoát sinh tử,
tâm không mê muội đi vào cảnh giới niết bàn là
hạnh phúc vô thượng. Mẹ rất hoan hỉ. Thôi
đại đức hăy đi nghỉ một chốc.
Cụ bà tuy nói
thế nhưng mắt vẫn rơi lệ, liền
trở về pḥng riêng ...
15.-
NIẾT BÀN:
Sau khi cụ bà và
mọi người đă ra ngoài hết, tôn giả bảo
chú thị giả Quản Đầu:
- Con hăy sang pḥng bên
cạnh nghỉ đi, một ḿnh thầy ở đây
được rồi.
Đến nửa
đêm hôm ấy th́ tin tức “tôn giả Xá Lợi Phất
về quê để nhập niết bàn" đă
được truyền đi khắp làng. Phần đông
dân làng đều đă qui y Tam Bảo, nghe thế
đều lập tức kéo nhau đến tụ tập
trước nhà tôn giả; thậm chí, vua A Xà Thế lúc
đó đang có mặt trong kinh thành Vương Xá, nghe tin
cũng tức tốc dẫn triều thần cùng
đến. Tất cả mọi người đều
mong được chiêm ngưỡng tôn giả lần chót
cũng như được nghe những lời giảng
dạy sau cùng của tôn giả. Chú thị giả Quản
Đầu thấy thế, sợ mọi người làm
kinh động đến tôn giả, liền ra sắp
xếp chỗ ngồi cho họ, xin họ ngồi yên
lặng để chờ tôn giả tiếp kiến.
Đêm đă khuya
lắm rồi, mọi người vẫn ngồi im
lặng chờ đợi! Người ta trông thấy
một cây đền dầu trong căn tịnh thất
của tôn giả, ngoài ra th́ hoàn toàn yên lặng, không một
tiếng động nào ...
Cho đến khi
trời rạng sáng, tôn giả gọi Quản Đầu,
hỏi:
- Có ai đến
ở ngoài phải không?
Dạ phải! Dân
làng nghe nói thầy về đây để nhập niết
bàn nên đến cầu kiến rất đông; cả
đức vua cũng đến nữa.
- Vậy à! Con ra
mời quí vị ấy vào cả trong này.
Quản Đầu
liền ra ngoài mời vua A Xà Thế và mọi người
vào nhà. Những người từ trước chỉ nghe
tên mà chưa từng thấy mặt tôn giả, bây giờ
được dịp này, họ mừng rỡ vô cùng. Tuy
vậy, họ vận không vội vàng hấp tấp,
tuần tự đi vào nhà trong im lặng, không hề gây
tiếng động. Khi căn pḥng đă đầy
người, những người không vào được
th́ đứng lại ở ngoài cửa trong im lặng. Khi
đại chúng đă yên vị, tôn giả lên tiếng:
- Quí vị đă
đến thật đúng lúc. Tôi cũng đang muốn
gặp quí vị để thăm nhau lần cuối cùng.
Hơn bốn mươi năm qua tôi măy mắn được
xuất gia theo Phật, hoặc những khi tu học ở
bên cạnh Người, hoặc những lúc vâng mệnh
đi các nơi hành hóa, chưa bao gị tôi khởi lên một
niệm không vui đối với vị ân sư ấy;
trái lại, niềm cảm kích của tôi đối
với Người cứ càng ngày càng dâng cao. Đối
với giáo pháp sâu rộng như biển cả của
Người vẫn c̣n nhiều điều tôi chưa lănh
hội trọn vẹn được; hôm nay nghĩ
đến mà tôi thấy hổ thẹn trong ḷng.
Điều tôi muốn nói với quí vị hôm nay, là xin quí
vị ghi nhớ rằng, chúng ta sinh ta đời
được gặp Phật trụ thế là việc khó
khăn vô cùng, muôn ngàn kiếp không dễ ǵ có
được. Cho nên quí vị phải vâng theo lời
dạy của Người mà tinh tấn tu học. Của
báu trong biển Phật pháp tuy rất nhiều, nhưng
nếu quí vị không hết ḷng t́m cầu th́ không thể
nào có được. Tôi không c̣n ǵ để nắm giữ
nữa. Hôm nay tôi muốn nhập vào cảnh giới
niết bàn tịch tịnh, vĩnh viễn thường
trú trong cái vũ trụ bất sinh bất diệt. Xin cáo
biệt quí vị!
Tôn giả nói xong,
nằm nghiêng bên trái, an trú trong đại định,
rồi nhập niết bàn! Mới trước đó nghe
tôn giả nói, nh́n sắc diện an tịnh của tôn giả,
có ai biết đó là người sắp ĺa trần!
Bởi vậy vua A Xà Thế và đại chúng đều
cung kính, bội phục và thương cảm vô cùng ...
16.-
TINH THẦN VĨNH VIỄN TẠI NHÂN GIAN:
Sau khi tôn giả Xá
Lợi Phất nhập diệt được bảy ngày,
Quản Đầu bèn đưa nhục thân của tôn
giả lên hỏa đàn để làm lễ trà t́; rồi
lại thỉnh xá lợi của tôn giả đem về
chỗ Phật đang ngự. (Bấy giờ là cuối
mùa an cư thứ 45, Phật đang ngự tại vùng
ngoại ô thành phố T́ Xá Li, và đó là mùa an cư cuối
cùng trong đời đức Phật - Chú thích của
người dịch). Trước hết Quản
Đầu đi t́m tôn giả A Nan và thuật lại sơ
qua sự việc. Mặt đầm đ́a nước
mắt, tôn giả A Nan dẫn Quản Đầu
đến hầu Phật để tŕnh lên một cách
cặn kẻ về sự viên tịch của tôn giả Xá
Lợi Phất. Đức Phật im lặng lắng nghe.
Quản Đầu tŕnh xong, v́ quá bi thương, tôn giả
A Nan lại khóc thành tiếng. Đức Phật phải
trấn tỉnh:
- Thầy A Nan!
Thầy không nên bi thương quá như vậy! Thầy Xá
Lợi Phất viên tịch không phải là điều cao
quí sao!
A Nan cung kính
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Su huynh Xá Lợi Phất của chúng con là người
có trí tuệ cao tột, chuyên tŕ giới luật, oai nghi
nghiêm mật, có biện tài thuyết pháp, suốt
đời nhiệt t́nh với sự nghiệp hoằng hóa
độ sinh, điều đó không phải chỉ có chúng
con biết, mà tất cả nhân gian đều xưng tán.
Nay đột nhiên sư huynh chúng con không c̣n tại thế
nữa, v́ nghĩ đền tiền đồ của chánh
pháp, của giáo đoàn ngàn năm về sau, cho nên con
rất đau buồn. Không những chỉ một ḿnh con
đau buồn mà tất cả mọi người, ai
cũng không cầm ḷng được!
Đức
Phật lại an ủi:
- Thầy Xá
Lợi Phất tuy không c̣n tại thế nữa nhưng
giáo pháp vẫn c̣n đó. Vô thường vốn là thật
tướng của thế gian, cũng như sự sinh
diệt vốn là đạo lí tự nhiên của vũ
trụ. Không c̣n bao lâu nữa chính Như Lai cũng sẽ
nhập niết bàn! Quí thầy lúc đó cũng đừng
nên thất vọng, v́ giáo pháp của Như Lai vẫn c̣n
nguyên vẹn chứ không mất theo Như Lai. Dù hàng ngàn, hàng
vạn năm về sau, nếu bất cứ ai giữ
được ḷng tin chắc thật nơi Như Lai th́
Như Lai vẫn luôn luôn có mặt trong tâm trí họ và
hộ tŕ họ. Quí thầy nên nương dựa vào chánh
pháp mà không nên nương dựa vào ai khác.
Dạy xong mấy
lời, đức Phật tiếp lấy xá lợi tôn
giả Xá Lợi Phất do Quản Đầu dâng lên,
đưa ra trước đại chúng, Ngài dạy
tiếp:
- Quí vị t́ kheo!
Linh cốt này đây, mới mấy ngày trước th́
chính là vị Đại Trí Xá Lợi Phất. có trí tuệ
rộng lớn vô biên, trừ Như Lai ra th́ không ai có thể
sánh bằng. Thầy ấy đă chứng ngộ
được pháp tánh, sống đời thiểu
dục, tri túc, thường tu tập thiền định,
luôn luôn dũng mănh, tinh tấn, nhiệt t́nh v́ giáo pháp và v́
nhân sinh, công năng hàng phục ngoại đạo và tuyên
dương chánh pháp thật cao dầy. Thầy Xá Lợi
Phất đă hoàn toàn dứt trừ mọi khổ năo,
chứng được đạo quả giải thoát. Này
quí thầy! Hăy chiêm ngưỡng đi! Đây là xá lợi
vị trưởng tử của Như Lai!
Đức
Phật nói lời ấy xong th́ tất cả đại
chúng không ai bảo ai đều cúi đầu thành kính
đảnh lễ trước xá lợi của tôn giả
Xá Lợi Phất.
Tôn giả Xá
Lợi Phất tuy đă viên tịch, nhưng tinh thần
của ngài vẫn vĩnh viễn tồn tại ở
thế gian ...