HT. THÍCH THIỆN CHÂU
Thiền định
quán niệm hơi thở là một phương pháp căn bản và thích hợp
với các đối tượng
mới tu thiền trong các nền văn hoá khác nhau. Phương
pháp này được Đức
Phật thuyết giảng trong kinh tạng Nikàya. Sau đây là những hướng dẫn của HT. Tiến sĩ Thích Thiện Châu, người đă mang bức thông điệp này truyền bá trong nhiều
tầng lớp Phật tử, đặc biệt là giới trẻ sinh viên ở các nước Châu Âu, trích từ
bài viết "Thiền định với cuộc sống hôm nay" tại Hội thảo "Phật giáo và thời
đại" ở Paris, Pháp, tháng 9/1995.
Phương pháp thiền định do Phật truyền dạy khác hẳn với các phương pháp thiền định của ngoại đạo. Ngày nay người ta thường nhắc đến phương
pháp "kiềm chế hơi thở" (prànàyàna) của Hathayoga. Đây là phương
pháp rất xưa thường được các ẩn sĩ Ấn Độ tu tập. Trong kinh Mahàsaccaka (Mn, I, 243), Phật có nhắc đến phương pháp này với danh từ "thiền không thở" (appànaka jhàna). Chính Phật có tu tập trước khi giác ngộ và nhận thấy nguy hại của nó – thân thể
đau đớn và không dẫn
đến giác ngộ. Do đó Phật từ bỏ và trở
lại tu tập phương pháp mà Phật
đă thực hành lúc c̣n
bé, khi ngồi dưới gốc cây Jambu xem vua
cha cày ruộng trong ngày lễ
khai mùa và chứng được sơ thiền. Kinh nghiệm về phương pháp trên như Phật cho biết:
"Các thầy, ta bèn thường tu tập phương pháp quán niệm hơi thở này trong hầu
hết thời giờ của ta. Và nhờ sống trong tu tập phương pháp này mà thân
thể và đôi mắt ta không hề mệt nhọc; nhờ kết quả ấy mà tâm ta giải
thoát các lậu hoặc".
(Sn, V, 317) hay;
" Các thầy, phương pháp quán niệm hơi thở, nếu được tu tập, dẫn đến b́nh an, cao cả, ngọt ngào, hoan hỷ;
nó làm tiêu mất các tư tưởng
xấu ác và làm tâm
ư an tịnh". (Mn, III, 82
; Sn, V, 321-322 ; Vin, III, 70).
Hai đoạn kinh trên diễn tả những nét đặc thù của phương pháp "quán niệm hơi thở". Nó cũng khác hẳn với các phương pháp thiền định khác do chính Phật truyền dạy như 10 đề mục bất tịnh, bất tịnh nơi thân thể v.v…
Các phương pháp thiền định khác dù rất sâu sắc và có khả
năng điều
trị tham dục, song đồng
thời gây nên sự nhàm chán, ghê
tởm nơi thiền sinh và có thể
đưa đến
tự hủy diệt đau đớn. Trong khi đó phương
pháp quán niệm hơi thở làm cho thiền sinh cảm thấy mát mẻ, khỏe khoắn, trầm tĩnh, không dao động. Ngay từ khi mới tu tập, thiền sinh cả thân và tâm được
b́nh an, tĩnh lặng, phiền năo tan biến, tuệ quán phát triển một cách dễ dàng và cuối cùng là chứng
đạt an lành trọn vẹn của Niết bàn.
Phương pháp thiền định chú ư hơi thở gồm 16 chủ đề, chia làm 4 phần, mỗi phần gồm 4 chủ đề. Phần 1 là phần mở đầu của thiền quán, cần thiết và thích hợp cho người tu Thiền. Trong khi đó
3 phần sau nhằm phát triển tuệ quán. Mục đích của phần một là xây dựng
sự chú ư để làm căn bản cho sự phát triển trí tuệ. Bốn phần của toàn bộ phương pháp bao gồm tuần tự 4 niệm xứ: thân, thọ, tâm và pháp.
Phần 1 có thể dẫn đến chứng đạt 4 bậc thiền. Và sau đó, bằng phát triển tuệ quán có thể
chứng đạt
A la hán với 4 vô ngại trí (Patisambhidà): hiểu nghĩa, hiểu đạo, hiểu tiếng và biện tài.
PHẦN MỘT
Thiền sinh nên sắm sửa hành trang cho cuộc
đi xa, với đời sống giản dị, lành mạnh, nơi chốn tu tập thích hợp, dụng cụ và tư
thế ngồi thiền đúng đắn, rồi bắt đầu thực tập phương pháp "Quán niệm hơi thở".
Chủ đề 1
1. Hít vô dài, vị ấy biết: "Tôi hít vô
dài"
Thở ra dài, vị ấy biết :
"Tôi thở ra dài"
2. Hít vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi hít vô
ngắn"
Thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn"
Trong thực tập phương pháp "Quán niệm hơi thở", có hai hoạt động khác nhau về hơi thở: hít vô và
thở ra. Sự biết rơ và phân biệt
này dẫn thiền sinh đến sự chú ư. Theo Patisambhidàmagga,
I, 177, có 9 cách hít vô và
thở ra mà thiền sinh biết rơ ḿnh đang làm như vậy.
1. Hít vô dài
2. Thở ra dài
3. Hít vô dài, thở ra dài, mỗi hơi thở choán một khoảng thời gian.
Thực tập như thế, thiền sinh cảm thấy hơi thở dần dần trở nên an hoà : rồi sự ưa thích tiếp tục khởi lên. Như thế, với sự ưa thích, thiền sinh :
4. Hít vô dài
5. Thở ra dài
6. Hít vô và thở ra dài
và hơi thở trở nên an hoà hơn
trước. Trong giai đoạn này, thiền sinh trở nên hoan hỷ;
với tâm ư hoan hỷ, thiền sinh :
7. Hít vô dài
8. Thở ra dài
9. Hít vô dài và thở
ra dài
và tâm ư trở nên an hoà một cách tuyệt đối. Tâm ư thiền sinh lúc này không
c̣n có quán niệm về hơi thở dài nữa và như vậy được thanh thản tự tại. Trong giai đoạn này, hơi thở trở nên nhẹ nhàng vi tế; do đó không c̣n thấy có hơi thở
thô tháo như lúc mới bắt đầu. Hơi thở dài gồm 9 cách như trên goị là Thân (kàya); sự hiểu rơ 9 cách trên
gọi là Niệm (sati); quán chiếu về tính chất vô thường, vô ngă của
hơi thở là trí tuệ.
Thiền sinh chứng đạt trí tuệ trong thực tập về 9 cách này là
thành tựu được phương
pháp Niệm thân gồm cả Niệm tức (anàpàsati) của phương pháp bốn niệm xứ (satipatthana).
Chủ đề 2
Thực tập chủ đề 2 về hơi thở ngắn cũng gồm có 9 cách như
đă giải thích ở trên. Sự sai khác đối với chủ đề 1 là hơi thở nhẹ nhàng vi tế hơn. Bởi v́ hơi thở ngắn chỉ choán một khoảng thời gian ngắn tương ứng với điều kiện thân thể của thiền sinh.
Như vậy thiền sinh có thể xây dựng sự chú ư theo 2 chủ đề và mỗi chủ đề gồm 9 cách thở khác nhau. Thiền
sinh chứng các thiền vị nhờ phương pháp thiền định và đạt tuệ quán nhờ phương pháp niệm xứ. Tất cả kết quả này đều dựa trên 4 hoạt động (2 hít vô dài ngắn,
2 thở ra dài ngắn) thuộc về yếu tố không khí (không đại),
diễn biến trên đầu mũi trong h́nh thức hơi thở vô/ra dài ngắn.
Chủ đề 3
"Cảm giác toàn thân (hơi
thở), tôi hít vô
Cảm giác toàn thân (hơi
thở), tôi thở ra".
Chủ đề thực tập này khó hơn
hai chủ đề trước.
Ở đây thiền
sinh phải thực tập ba điều :
1. Chú ư hơi thở khi hít vô và
thở ra
2. Phân biệt 3 giai đoạn nơi hơi thở: đầu, giữa, và cuối.
3. Tu luyện tâm ư
Trong trường hợp chú ư luồng hơi hít vô th́
nơi đầu mũi là đầu,
tim là giữa và lỗ rốn là cuối. Khi chú ư luồng hơi thở ra th́ lỗ rốn là đầu, tim là giữa và đầu mũi là cuối.
Chú ư như thế, thiền sinh hít vô
và thở ra trong lúc tâm
ư liên hệ với sự hiểu biết dựa trên cảm giác về toàn bộ hơi thở. Do đó chủ đề ba này được
diễn tả trong nghĩa tinh thần:
"Cảm giác toàn thân (hơi
thở), tôi hít vô
Cảm giác toàn thân (hơi
thở), tôi thở ra"
Sở dĩ đồng bộ hơi thở được gọi là Thân v́
nó là một
thành phần thuộc những yếu tố cấu tạo thân thể. Với một số người, bắt đầu của toàn thân hơi thở toả ra trong những hạt nhỏ được nhận
thấy rơ ràng nhưng khoảnggiữa và phần cuối th́ lại không. Với một số người khác, khoảng giữa hơi thở được nhận
thấy rơ ràng nhưng bắt đầu vào phần cuối th́ lại không. Với một số người khác nữa, phần cuối hơi thở được nhận
thấy rơ ràng, nhưng bắt đầu và khoảng giữa th́ lại không. Với một số ít người,
cả ba phần đều được nhận
thấy rơ ràng và không
nhầm lẫn.
Tuy nhiên, bất cứ thiền sinh nào cũng mong muốn và cố gắng
thành tựu hoàn toàn chủ
đề thực tập này.
Chủ đề 4
"An tịnh thân hành, tôi hít
vô
An tịnh thân hành, tôi thở
ra".
Nhờ thực tập chủ đề 4 này, thiền sinh tiến tới giai đoạn cuối cùng của chánh định. Trong giai đoạn này thiền sinh thực nghiệm đầy đủ sự an tịnh nơi thân thể và do đó chứng đạt đầy đủ chánh định (sự an tịnh hoàn toàn nơi
thân thể luôn luôn dẫn
đến an vui và do đó tâm ư chứng được chánh định).
Trong thực tế, động tác vô ra hơi
thở tuy được điều
khiển bởi tâm ư song không thể hiện hữu nếu không có thân
thể, cũng như động tác lên xuống
của gió trong ống bễ là do cả người thợ lẫn ống bễ mà có. V́
thế, mặc dù động tác hơi thở được điều khiển bởi tâm ư song vẫn được gọi là thân hành, điều
này có nghĩa là đồng bộ thân thể hay là nhân tố
thuộc về thân thể.
Khi thân thể nặng nề, tâm ư sầu năo hay không được chế ngự th́ thân hành trở
nên thô tháo, trầm trệ và hơi thở trở nên gấp rút, hổn hển đến nỗi mũi không đủ để thở ra và người ta phải thở thêm bằng miệng. Trái lại, khi thân thể
nhẹ nhàng, tâm ư an vui hay được chế ngự th́ hơi thở trở nên an tịnh, vi tế và người
ta có thể nhận thấy rơ ràng động
tác của nó.
Khi người ta chạy
mau, mang nặng hoặc có những động tác quá mạnh th́ hơi thở trở nên thô tháo.
Song khi thân thể được nghỉ ngơi, thư thái th́ hơi thở trở nên an tịnh, vi tế. Nói cách khác, nhờ
tu tập thiền định, thân thể trước kia thô tháo nay an tịnh và hơi thở hổn hển lần lần được điều
hoà. Trong giai đọan đầu, hơi thở điều hoà làm cho
thân thể thư thái, bộ năo an tịnh và hoạt động một cách êm ái. Lần
lần thiền sinh chế ngự được hơi thở bằng cách không cần thiết phải lấp đầy khoảng trống của hai lỗ mũi với khối lượng lớn không khí. Thiền
sinh hít vô thở ra với ư niệm giảm bớt sự thô tháo nơi hơi thở và cố gắng
giữ đều đặn nhịp thở cho đến lúc chứng được
thiền vị. Sự thật, hơi thở vốn do tâm ư điều khiển cho nên trạng
thái hoạt động của nó tùy thuộc
tâm trạng trong thời điểm nào đó :
hơi thở thô tháo khi
tâm ư loạn động và hơi thở nhẹ nhàng khi tâm ư an tịnh. Khi thiền sinh chứng được thiền
vị th́ tâm ư trở nên an tịnh và hơi thở
trở nên vi tế hơn trong các thiền
vị kế tiếp quá tŕnh tu của
bốn bậc thiền : sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và khi chứng
được tứ
thiền th́ thân hành của
hơi thở vô ra không hoạt
động nữa.
Theo Thanh tịnh đạo
luận (Vism, 283) th́ có 8 trạng
thái ở trong đó không có hơi thở
: 1. Trong thai mẹ, 2. Khi chết đắm dưới nước, 3. Trong loài hữu t́nh vô thức,
4. Khi chết, 5. Trong
lúc tu thiền, 6. Trong cơi trời Vô tưởng, 7. Trong cơi trời
Vô sắc, 8. Trong Diệt tận định (chứng đạt sự diệt tận hết cảm thọ và nhận thức).
Như vậy, hơi thở thuộc thành phần thân thể thô tháo trước khi tu tập
thiền định
lần lần được điều
ḥa bắt đầu từ sơ thiền và trở nên hoàn toàn
an tịnh khi chứng được
tứ thiền.
Trong trường hợp thiền sinh tu theo
phương pháp Tuệ quán (Vipassanà) th́ hơi thở thuộc thành phần thân thể trước khi tu tập
một chủ đề tuệ quán là thô
tháo. Song trải qua
quá tŕnh phát triển tuệ quán hơi thở trở nên vi tế và an tịnh. Khi tâm ư chứng đạt đầy đủ tuệ giác và thông ngộ
ba pháp ấn (khổ, vô thường, vô ngă) th́
lúc bấy giờ hơi thở tiến vào giai đoạn
cuối cùng của an tịnh và tâm ư chứng
đạt đầy
đủ chánh định về chủ đề quán niệm hơi thở.
Như thế là trong cả
hai trường hợp
: trường hợp
tu tập quán niệm hơi thở và chứng được tứ thiền ; trường
hợp tu tập chủ đề tuệ quán và thông
ngộ ba pháp ấn, hơi thở thuộc thân hành hoàn toàn
an tịnh. Đó là mục tiêu mà thiền
định mong đạt được
khi tu tập chủ đề quán niệm hơi thở. V́ thế mà chủ đề IV được diễn
tả :
"An tịnh thân hành, tôi hít
vô
An tịnh thân hành, tôi thở
ra".
PHẦN HAI
Phần hai cũng gồm 4 chủ đề với phương pháp phát triển
"quán niệm hơi thở" ể
tiến tới
"tuệ quán"
tức là thọ niệm xứ gồm cả định và tuệ.
Chủ đề 5
"Cảm giác hỷ, tôi hít vô
Cảm giác hỷ, tôi thở ra".
Chủ đề hành thiền này và những
thiền đề
tiếp theo thuộc hệ thống thiền quán có chủ
đề v́ chúng liên hệ
với quá tŕnh tâm lư
của những người đă chứng đạt các bậc thiền nhờ sự tu tập
trước kia.
Có hai cách diễn tả về "cảm giác hỷ" trong khi thiền sinh chứng đạt định tâm bằng phương pháp "quán niệm hơi thở". Thứ nhất, khi thể nhập thiền vị thứ nhất và bậc thiền thứ hai, thiền sinh cảm giác hỷ nhờ thành tựu trong sự chứng đạt đầy đủ các thiền đề (chủ đề hành thiền). Thứ hai, vượt lên từ hai bậc thiền đầu (I và II) mà trong
ấy hỷ có mặt, thiền sinh chú ư hỷ vốn liên hệ với các thiền vị và nhận
thức rằng hỷ là vô
thường. Ngay trong lúc thông
hiểu tính chất vô thường của hỷ nhờ tuệ quán, thiền sinh cảm giác hỷ một cách không lầm
lộn.
Về quán điểm này, Patisambhidà, I, 187 diển
tả như sau :
"Do hít vô dài, thiền sinh chứng đạt định tâm và nhận
thức rằng tâm ư đang hướng về một điểm. Do hiểu biết và định tâm ấy mà hỷ phát
khởi. Do hít vô ngắn và thở ra ngắn… do hít vô, thở ra và cảm giác toàn thân…,
an tịnh thân hành … mà hỷ
phát khởi".
Như vậy thiền sinh cảm giác hỷ và toàn
thân thấm nhuần hỷ suốt quá tŕnh hành thiền
qua những giai đoạn : quán niệm, cảm giác, minh sát,
tin tưởng, tinh
tấn, chú ư, định tâm… V́ thế mà chủ đề diễn tả :
"Cảm giác hỷ, tôi hít vô
Cảm giác hỷ, tôi thở ra".
Chủ đề 6
"Cảm giác lạc, tôi hít vô
Cảm giác lạc, tôi thở ra".
Thiền đề
này vốn liên hệ với ba thiền vị đầu (I, II, III) trong
đó thiền sinh cảm giác lạc phát xuất từ đối tượng của quán niệm hơi thở và nơi sự
nhận thức rơ rệt của tâm ư. Về chi tiết, chủ đề này không khác
chủ đề trên.
Chủ đề 7
"Cảm giác tâm hành, tôi
hít vô
Cảm giác tâm hành, tôi
thở ra".
Với thiền đề này, thiền sinh nhận thức đầy đủ tâm hành vốn
liên hệ với các thiền vị. Danh từ tâm hành ở đây áp dụng
cho hai uẩn : thọ (lạc, khổ và trung tính
tưởng (nhận
thức đối
tượng qua 6 giác
quan).
Chủ đề 8
"An tịnh tâm hành, tôi hít
vô
An tịnh tâm hành, tôi thở
ra".
Với thiền đề này, thiền sinh tu luyện nhằm làm cho các yếu
tố tâm lư trở nên an tịnh và tinh tế.
Các yếu tố tâm lư vốn quấn chặt thọ và tưởng, trong khi thọ và tưởng lại liên hệ hỷ, lạc. Tuy nhiên, lạc lại hệ thuộc thọ và có khả
năng ràng buộc thiền sinh trong các
thiền vị và làm trở
ngại cho thiền sinh trong sự chứng đạt cao hơn. Do đó, các yếu tố tâm lư hệ
thuộc thọ là những t́nh cảm mà tính chất
là thô kệch thấp kém. V́ thế
thiền sinh phải nhận thức tính chất của chúng là vô
thường và phát triển tuệ quán và như vậy
vượt khỏi
những cảm giác cảm t́nh vui thích
tầm thường
trong các thiền vị. V́ thế chủ đề diễn tả :
"An tịnh tâm hành, tôi hít
vô
An tịnh tâm hành, tôi thở
ra".
Bốn thiền đề trên được phát triển trong tŕnh tự của Thọ niệm xứ. Và v́ thế
chúng thuộc phần hai của Bốn niệm xứ.
PHẦN BA
Phần ba gồm 4 thiền đề thuộc phần III trong Bốn niệm xứ, tức là quán niệm
về tâm.
Chủ đề 9
"Cảm giác tâm, tôi hít
vô
Cảm giác tâm, tôi thở
ra".
Khi đă chứng đạt các thiền vị, thiền sinh quán niệm tính chất vô thường của tâm ư trong mỗi thiền vị và nhận thức rằng tâm ư vốn thay đổi trong từng giây từng phút. Với tư duy này,
thiền sinh hít vô và
thở ra.
Chủ đề 10
"Với tâm hân hoan, tôi
hít vô
Với tâm hân hoan, tôi
thở ra".
Trong khi tu luyện thiền đề này, thiền sinh hít vô,
thở ra với sự vui vẻ, sung sướng
và thanh thoát. Trong giai đoạn này, hân hoan
phát khởi bằng hai cách :
1/ Thiền sinh thể nhập hai thiền vị đầu (I,
II), trong đó có hỷ. Trong lúc chứng
đạt hai thiền vị này, thiền sinh với hỷ, vui vẻ, sung sướng
trong tâm.
2/ Vượt lên từ mỗi thiền vị, thiền sinh quán niệm tính chất vô thường của hỷ vốn liên hệ các thiền vị. Như vậy ngay trong lúc
quán niệm, thiền sinh xem hỷ như là đối
tượng của
tâm ư và vui vẻ, sung sướng với tâm ư. V́ thế
chủ đề diễn tả :
"Với tâm hân hoan, tôi
hít vô
Với tâm hân hoan, tôi
thở ra".
Chủ đề 11
"Với tâm thiền định, tôi hít vô
Với tâm thiền định, tôi thở ra".
Trong lúc tu luyện thiền đề này, tâm ư thiền
sinh cần phải chú ư vào đối tượng (hơi thở) bằng phương tiện của thiền bậc nhất, thiền bậc hai… Thể nhập thiền bậc thấp rồi tiến lên thiền bậc cao hơn, thiền sinh quán niệm
tính chất thay đổi của tâm ư liên hệ với các thiền vị. Trong quá tŕnh
tiến lên của thiền quán có lúc
tâm ư được
chú định do sự nhận thức tính chất vô thường nơi tâm ư. Bằng phương thức này, thiền sinh chú tâm
trong khi quán niệm hơi thở. V́ thế chủ đề diễn tả :
"Với tâm thiền định, tôi hít vô
Với tâm thiền định, tôi thở ra".
Chủ đề 12
"Với tâm giải thoát, tôi hít vô
Với tâm giải thoát, tôi thở ra".
Thiền đề
này có nghĩa là thiền sinh trong khi tu
luyện nhằm cởi mở tâm ư ra khỏi mọi sự ràng buộc. Trong bậc thiền thứ nhất, thiền sinh cởi mở được những triền cái ngăn che (tham dục,
sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ) ; trong bậc thiền thứ hai, thiền sinh cởi mở được tầm và tứ ; trong bậc thiền thứ ba, thiền sinh cởi mở được hỷ ;
và trong bậc thiền thứ tư, thiền sinh cởi mở được lạc và khổ. Thể nhập các thiền vị thấp rồi tiến lên các thiền
vị cao, thiền sinh quán niệm tâm ư vốn liên hệ các thiền vị và nhận
thức rằng tâm ư là vô
thường. Ngay trong khi thiền
quán, thiền sinh hít vô,
thở ra, thiền
sinh cởi mở khỏi tâm ư những kiến chấp thường c̣n bằng quán niệm vô thường, lạc bằng quán niệm khổ, ngă bằng quán niệm vô ngă, tịnh
bằng quán niệm bất tịnh, luyến ái bằng quán niệm từ bỏ, nguồn gốc sống chết bằng quán niệm khổ diệt, cố chấp bằng cách xả ly. V́ thế
chủ đề diễn tả :
"Với tâm giải thoát, tôi hít vô
Với tâm giải thoát, tôi thở ra".
Trên đây là 4 thiền đề nhằm quán niệm tâm, thuộc về phần ba của Bốn niệm xứ.
PHẦN BỐN
Phần bốn cũng là phần chót của phương pháp quán niệm
hơi thở gồm bốn chủ đề thuộc phần IV quán pháp trong
Bốn niệm xứ :
Chủ đề 13
"Quán niệm vô thường, tôi hít vô
Quán niệm vô thường, tôi thở ra".
Chủ đề này liên hệ
đạo lư vô thường. Vô thường là tính chất
thiên nhiên của 5 uẩn, sanh diệt, và đổi thay nơi con người, cả thân thể lẫn tâm thức. Thiền sinh vừa hít vô thở
ra vừa quán niệm mỗi uẩn (sắc thân, cảm giác, nhận thức, ư chí, hiểu biết) là vô thường.
Chủ đề 14
"Quán niệm ly dục, tôi hít vô
Quán niệm ly dục, tôi thở ra".
Ly dục có hai nghĩa :
- Giải thoát mọi ràng buộc do tham đắm cuộc đời giả dối, mong manh.
- Giải thoát hoàn toàn là
Niết bàn. Xa lià tham
dục là điều kiện tất yếu dẫn đến giải thoát hoàn toàn. Thiền
sinh vừa hít vô thở
ra vừa quán niệm ly dục với hai nghĩa trên.
Chủ đề 15
"Quán niệm khổ diệt, tôi hít vô
Quán niệm khổ diệt, tôi thở ra".
Có hai loại khổ diệt : khổ diệt giai đoạn, chỉ cho sự trừ bỏ lần lần các lậu hoặc trong những thiền cảnh khác nhau : khổ diệt vĩnh viễn chỉ cho sự tiêu diệt hoàn toàn khổ
đau trong khi đạt được mục đích cuối cùng (Niết bàn). Thiền sinh vừa hít vô thở
ra vừa quán niệm hai loại khổ diệt trên.
Chủ đề 16
"Quán niệm xả ly, tôi hít vô
Quán niệm xả ly, tôi thở ra".
Xả ly trong chủ đề cuối cùng này được
áp dụng trong tuệ quán và chánh
đạo với hai ư nghĩa : trừ bỏ và vượt ra.
Trong tuệ quán, theo quá
tŕnh phát triển lần lần, thiền sinh trừ bỏ những tâm ư nhiễm ô do nhận thức lầm lạc gây nên bởi
chấp trước
các pháp hữu vi, thiền sinh hướng tâm đến Niết bàn và do đó vượt qua những
giai đoạn tu chứng thấp kém và những chấp trước vốn là những trở ngại cho sự chứng đạt Niết bàn.
Chánh đạo là con đường đưa đến nơi cao cả, v́ thế cũng đưa đến sự trừ bỏ các lậu hoặc và sự hướng
tâm đến Niết bàn ; xả ly trong
chánh đạo là sự vượt
qua tất cả những điều kiện thuộc thế gian. Như thế, xả ly có
hai nghĩa : trừ bỏ
và vượt qua.
Tu tập chủ đề này, thiền sinh vừa hít vô thở ra vừa quán niệm xả ly với hai nghĩa trên.
Phần bốn của phương pháp quán niệm
hơi thở này thuộc tuệ quán, trong khi đó
ba phần trên thuộc cả định tâm lẫn tuệ quán.
Như vậy, phương pháp quán niệm hơi thở gồm 4 phần, 16 chủ đề, mỗi phần liên hệ với 1 phần trong Bốn niệm xứ, mỗi niệm xứ được khai triển trở thành một hệ thống độc lập về thiền định Phật giáo, là phương pháp tu hành
chủ yếu có khả năng đưa đến giác ngộ giải thoát. Với ư nghĩa này, phương pháp quán niệm hơi thở quả là phương pháp căn bản cho giác ngộ
giải thoát. Điều này được Phật
minh xác trong đoạn kinh sau đây :
"Các Tỳ kheo, phương pháp thiền định và quán niệm hơi thở là cho Bốn
niệm xứ được thành tựu. Khi Bốn niệm xứ phát triển th́ Bảy giác chi được thành tựu. Khi Bảy giác chi được thành tựu th́ giác ngộ giải thoát được thành tựu". (Mn, III, 82).
Hơn nữa, ai có tu tập
phương pháp thiền định này th́ biết
rơ sự dừng nghỉ của những hơi thở cuối cùng như Phật nói rơ trong
đoạn kinh sau đây :
"Rahula, khi quán niệm hơi thở phát triển theo cách thức
này th́ những hơi thở cuối cùng được biết khi chúng dừng nghỉ, chứ chúng không dừng
nghỉ một cách không hay biết" (Mn, I, 425).
Điều này có nghĩa là những người tu tập phương pháp quán niệm
hơi thở,lúc chết hay biết sự dừng nghỉ của hơi thở cuối cùng ; do đó, có thể
chết một cách tự tại trong tư thế nằm, ngồi hoặc đi tùy theo ư muốn.
Tuệ Trung Thượng sĩ chết rồi lại ngồi dậy khuyên dạy thân quyến, rửa tay, uống trà rồi lại viên tịch trong tư thế nằm một cách yên lặng
; Điều Ngự
Giác Hoằng Trần Nhân Tông, sau khi
dạy bảo đệ tử, viên tịch theo tư thế ngồi của sư tử ; một Đại đức ở
chùa Cittalapabatta (Sri
Lanka) viên tịch trong lúc đi
kinh hành nơi hành lang tu viện.
Những thiền sinh tu tập
phương pháp quán niệm hơi thở một cách đúng đắn chắc chắn thành tựu được nhiều
lợi ích tức khắc như sức khoẻ, quân b́nh… dứt bỏ được các dây ràng
buộc và chứng đạt bốn thiền vị căn bản để hướng đến
Niết bàn giải thoát an lạc trong quả vị A la hán, và nếu
muốn có thể thực hiện giác ngộ hoàn toàn, bằng cách thành tựu
sung măn Bảy giác chi, trong quả vị Phật Đà.
(Nguyệt san Giác Ngộ số 49)
http://www.lotuspro.net/5-2000/16chude.htm
--
1) http://thegioitamlinh.ace.st/t1413-topic
2) http://langmai.org/phapduong/phap-thoai-phien-ta/tinh-yeu-kinh-quan-niem-hoi-tho
3) http://chanh-y.blogspot.de/2011/07/16-cach-tho-trong-kinh-118-trung-bo_05.html
|