CHẤP TRƯỚC - NGUỒN
GỐC BẤT HẠNH VÀ KHỔ ĐAU
Thích Nữ Liên
Trí
Ảnh minh họa: con tằm
Trên con đường chuyển
hóa tâm thức, hoàn thiện chính ḿnh và phát
triển tối đa tiềm năng ở mỗi con
người, chúng ta gặp nhiều khó khăn
với những tâm lư tiêu cựctrong tâm, v́ chúng là
những chướng ngại đáng
kể trên con đường tu tập, giải
thoát khổ đau.
Một trong
số những tâm lư tiêu
cực cần chuyển hóa càng sớm càng
tốt là tâm lư cố chấp, một “thành viên
cứng đầu” tạo lực cản không nhỏ làm
tŕ trệ, bế tắc và thậm chí, đưa
đến sự nản ḷng của chúng
ta trên con đường tu
tập và chuyển hóa. Người nào thiên nặng
về tâm lư cố chấp được Đức
Phật gọi là người “cố chấp”,
“chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng
để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Căn
cứ vào một số lời dạy trong kinh
điển, bài viết này bàn về người cố
chấp và những chướng ngại mà
người cố chấp tự tạo ra cho ḿnh
trong cuộc sống.
Người cố chấp: như tằm kéo kén
Một h́nh tượng gần gũi giúp chúng
ta có thể dễ dàng liên tưởng về
người cố chấp là những con tằm kéo
kén để rồi tự ràng buộc ḿnh vào trong
tổ kén bịt bùng và chật chội ấy.
Người cố chấp cũng như thế.
Trong phần Sám hối lục căn của Khóa
hư lục, vua Trần Thái Tông đă diễn
tả ư này rằng:
Mắc mứu t́nh trần,
Lấp tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén,
Càng buộc càng bền.
Đức Phật từng tuyên bố rằng,
người nào có thể bỏ bớt “cố
chấp tư kiến, tánh khó hành xả” th́ sở
tri kiến sẽ được đoạn giảm
dần (Kinh Đoạn giảm, Trung bộ
kinh số 8) và dĩ nhiên, đau
khổ cũng theo đó giảm dần. Khi làm như vậy,
người ấy sẽ tự ḿnh nới lỏng sợi
dây ràng buộc để nhẹ nhàng hơn,
bớt căng thẳng và ngột ngạt hơn.
Trong bài kinh này, Đức
Phật cũng nhấn mạnh rằng “con
người tự ḿnh bị rơi vào bùn
lầy th́ không thể kéo lên một người bị
rơi vào bùn lầy”, một người cố
chấp tư kiến, tự ràng buộcḿnh, không
tự giải thoát th́ không thể nào giúp
người khác từ bỏ cố
chấp tư kiến được. Nói cách khác,
người cố chấp th́ không thể khuyên
người khác đừng có cố chấp! Đây
là sự thật hiển nhiên v́ một khi không
tự giúp ḿnh th́ không thể giúp ai! Và thực tế hơn,
không ai có thể cho đi những ǵ ḿnh không có!
Một người tự buộc ḿnh trong ổ kén
của cố chấp th́ không thể tiếp
cận được Tam bảo, như ở trong “vùng
mù” của bóng đêm th́ không thể tiếp cận ánh
sáng mặt trời vậy.
Người cố chấp: xa rời Tam bảo
Chúng ta không khỏi giật ḿnh khi Đức
Phật nói rằng, với “người cố
chấp khó thuyết phục, vị ấy sống
không cung kính, không tôn
trọng bậc Đạo sư, không cung kính,
không tôn trọng Pháp, không cung kính, không tôn
trọng Tăng chúng, không viên măn sự học
tập” (kinh Trường trảo, Trung bộ
kinh số 74). Người có tánh cố
chấp không lường được tai
hại thế này! Thế nhưng, b́nh tâm suy nghĩ một
chút, chúng ta có thể dễ dàng chấp
nhận lời dạy trên của Đức
Phật. Người cố chấp th́ cứ
khư khư ôm giữ cách nhận thức, cách hiểu
của ḿnh, v́ cho đó là đúng, sẽ không tôn
trọng và không chấp nhận quan
điểm của người khác. Nói theo thuật
ngữ nhà Phật th́ đó là “chấp trước tà
kiến”. Do đó, v́ khó thuyết phục nên họ
sẽ không thể viên măn sự học tập
từ Ba ngôi báu. Là người học Phật th́ không có ǵ
trên đời này quư hơn Ba ngôi báu! Chỉ v́ không
lường được sự nguy hiểm, của
tánh cố chấp, sự thiệt tḥikhi không
tiếp cận được với Tam bảo mà
chưa nỗ lực chuyển hóa đó thôi. Nay
nhờ lời dạy này của Đức
Phật mà chúng ta tự xét ḿnh kỹ
hơn, kịp thời chuyển hóa tâm ḿnh
trước khi tự đóng khung ḿnh trong
ṿng cố chấp đầy vô lư và
nhiều khổ đau!
Ở một bài kinh khác, Đức
Phật nói rằng người cố
chấp tự ḿnh ngăn chặn những cơ
hội tiếp cận và học hỏi từ Đức
Phật (bậc Đạo sư), giáo
pháp, chư Tăng và các học pháp (giới) và
đây là gốc rễ đưa đến sự tranh
đấu v́ họ sống trong vô minh, mê mờ
của dục vọng và cố chấp.
Những phẩm chất đặc trưng của
người cố chấp được ghi
nhận trong kinh là “Người chấp
trước sở kiến, kiên tŕ ǵn giữ,
rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung
kính, không tùy thuận bậc Đạo sư,
không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung
kính, không tùy thuận Tăng, không thành
tựu đầy đủ các học pháp” (Tăng
chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36:
Gốc rễ của đấu tranh).
Đoạn kinh này như một định nghĩa cô
đọng về người cố chấp. Họ
tự bao bọc ḿnh bằng lớp tà kiến vô
cùng kiên cố. Đây là một loại “chất liệu
không thấm” giáo pháp nên chúng
ta không ngạc nhiên khi họ tự hạn
chế ḿnh trong khe hẹp nhận
thức một chiều để rồi con
đường họ đi là “càng xa bến giác, càng
gần sông mê!”
Người cố chấp: một chiều
trong nhận thức
Ở Tiểu kinh sư tử hống (Trung
bộ kinh số 11), Đức Phật nói
rằng, người cố chấp vào “pháp có”
sẽ bị chướng ngại với các “pháp
không”, và người cố chấp vào “pháp không”
sẽ bị chướng ngại với các “pháp
có”. Nói cách khác, người cố chấp không
thể nào hiểu và chấp nhận những ǵ khác
với suy nghĩ, nhận thức và niềm
tin của ḿnh! Một khi nhận
thức và suy nghĩ của
người chấp trước bị đóng khung
như một tảng băng đông cứng th́
người ấy sẽ không thấy được
điều ǵ khác, dù có tốt đẹp, sinh
động đang diễn ra ngoài kia. Bằng trải
nghiệm tự thân, ai cũng có thể cảm nhận
điều này không mấy khó khăn. Đây là đầu
mối của tất cả sự bất
ḥa, căng thẳng giữa ḿnh và người trong
bất cứ một tập thể nào, dù
ở phạm vi nhỏ nhất chỉ có hai
con người!
Một người cố chấp vào một
điều ǵ đó, một khái niệm nào đó th́ cho
đó mới là sự thật, ngoài
ra đều không đúng! Một người
khác cố chấp vào “không có điều đó”
hoặc không có cùng cách hiểu về một “khái niệm”
th́ người chủ trương “có” cho cái có là đúng,
trong khi đó, người có quan điểm “không”
sẽ không đồng thuận và cho rằng cái “không”
mới là đúng. Nếu người nào ư
thức được điều này và sống “bỏ
tánh ư của ḿnh và sống theo tánh ư của người
khác” sẽ có đời sống cộng
đồng ḥa hợp như nước với
sữa (Tăng chi bộ kinh, tập III, kinh số 122: Tranh
chấp; tập V, kinh số 54: Thời
gian để tinh cần; kinh số 78: Sự sợ
hăi trong tương lai). Ngược lại, với
tánh cố chấp, mỗi người là một ốc
đảo lạnh lẽo, dù ở gần nhau vẫn không thể
nào sưởi ấm cho nhau, ngược lại c̣n
tạo chướng ngại cho nhau, khiến
cuộc sống trở nên vô cùng mệt
mỏi, căng thẳng và nặng nề.
Với tính cách trên, nếu người cố
chấp không ưa ai một điểm ǵ, th́ trong
mắt họ, người ấy sẽ măi như thế,
không bao giờ thay đổi! Người cố
chấp không cho ḿnh cơ hội để phá vỡ
tường thành chấp phápvà chấp
ngă, đồng thời không cho ai cơ hội “làm
mới”! Họ là người tự vẽ ṿng “kim cô”
để giam hăm sự tự do của chính
ḿnh: tự do nhận thức, tự
do chấp nhận và tiếp
nhận những quan điểm khác với ḿnh.
Họ chỉ khư khư bảo
thủ trong nhận thức một chiều,
tự làm khổ ḿnh, khổ người và khổ cả
hai mà không tự biết. Thậm chí với cái nh́n tà
kiến thái quá, bất cập, người cố
chấp có thể làm khổ ngay cả những
người mà họ quư trọng thương
yêu mà họ coi là “thần tượng”.
Người cố chấp: mắc bệnh “thần
tượng”!
Người cố chấp muốn áp
đặt suy nghĩ, khuôn khổ mà tự người
ấy lên ni tấc cho những người mà
họ thương yêu, quư mến. Nếu những
người thân yêu làm những việc trái
ngược với suy nghĩ và ư thích của ḿnh,
họ không chịu được! Họ không
thể chấp nhận được
một sự thật rằng mỗi người
là một tiểu thế giới và là duy
nhất đặc thù, không ai giống ai, nên mong ai
đó sống theo “khuôn” ḿnh đúc sẵn là
một việc làm không thể! Một khi cố
công làm việc này mà không thỏa măn, hơn ai
hết, người cố
chấp chịu thiệt tḥi và đau
khổ trước tiên! Do đó, đừng nâng ai lên
mức “thần tượng” v́ đă “đúc tượng”
th́ trước sau ǵ tượng cũng đổ! Khi
“thần tượng” một ai đó, cái tâm
lư “thương ai thương cả đường
đi” nó cứ đeo bám và chúng ta cứ dơi theo
từng bước chân của họ!
Không ai có thể hiểu hết một con
người và “thần tượng” cũng là một
con người! Cuộc sống của một con
người tuôn chảy sống
động như một ḍng nước, c̣n cái
mà chúng ta hiểu được về người
ấy chỉ là vài tấm h́nh được ghi lại, là
“cái bóng” của sự thật ở một vài
khoảnh khắc nhất định nào đó trên
ḍng chảy sinh động của vạn
pháp vô thường! Với người cố
chấp, những tấm ảnh được ghép lại
theo sự tưởng tượng chủ
quan của người ấy rồi nâng lên thành
“thần tượng”. Khi ấy, họ không nhận
ra khoảng cách giữa “tưởng” và “thật”,
giữa h́nh ảnh lung linh và sự
thật gồ ghề của người
ḿnh hết ḷng kính trọng và tin
tưởng!
Người cố chấp một khi thần
tượng ai một cách thái quá là đang rơi
vào tà kiến mà không biết. Trong một bài kinh, Đức
Phật gọi người tà kiến là
người chấp trước “Đây là
thường. Đây là thường hằng. Đây là
thường trú. Đây là viên măn” (Tương ưng
bộ kinh, tập I, chương VI, phẩm I, phần
IV: Phạm ThiênBaka). Người mà họ thần
tượng, trong mắt họ, là viên măn, toàn
diện, hoàn hảo và măi măi như vậy
không hề thay đổi. Cho đến một lúc
nào đó, khi vỡ lẽ ra những ǵ ta tưởng
đă hiểu hết về người kia cũng chỉ
là một phần theo kiểu “những mảnh ghép không hoàn
hảo” mà thôi. Khi ấy th́ niềm tin lại
vỡ vụn và cái c̣n lại là hụt hẫng và đau
khổ! Khi ấy, tham sân si lại hiện nguyên
h́nh!
Người cố chấp: tham, sân sâu nặng
Một người cố chấp có
thể nhận ra ḿnh cố chấp, có
thể đồng ư khi “bị quy vào” nhóm
người bảo thủ, nhưng tuyệt
nhiên họ khó chấp nhận ḿnh là
người nặng về tâm tham! Chính bản
thân người cố chấpkhông bao giờ
nghĩ rằng cố chấp là tham! Họ biết
xả tài vật để cúng dường, bố
thí không toan tính mà! Ấy vậy mà trong kinh Ví
dụ con rắn (Trung bộ kinh số 22)
th́ Đức Phật nói người cố
chấp là người c̣n nặng về tâm
tham. Chúng ta có thể quên đi rằng tâm
tham hiện hành trong nhiều phương
diện, không thể diệt trừ một
cách đơn giản qua việc bố
thí tài vật. Với người cố chấp,
họ khư khư chấp vào cái hiểu
biết, nhận thức của ḿnh, mà h́nh
ảnh “như tằm kéo kén” ở trên
đă diễn tả đầy đủ, là do
động cơ tham chấp (tham vào ư kiến, quan
điểm riêng của ḿnh) điều động
và chi phối. Đức Phật từng tuyên
bố “Do duyên chấp trước nên có xan tham”
(Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm III, kinh
số 23: Ái).
Đức Phật từng nói rằng “Phàm phu
thường chấp trước, chấp
thủ và tham đắm” (Tương ưng
bộ kinh, tập I, chương VIII, phần II: Không
khoái), c̣n những ai từ bỏ chấp
thủ, sẽ xứng danh với tên gọi Tỳ-kheo
hoặc Bà-la-môn (Pháp cú câu 367, 396, 414). Do đó, khi nào c̣n
giữ tâm chấp trước, chấp
thủ th́ muôn kiếp măi măi là phàm phu mà
thôi! Vậy mới thấy tâm lư cố
chấp nguy hiểm và chướng
ngại của đến dường nào!
Ở bài kinh Trường trảo (Trung
bộ kinh số 74), Đức Phật dạy
rất chí lư rằng, người cố
chấp hễ thích cái ǵ th́ cho cái đó là sự
thật, ngoài ra là hư vọng, hễ thích ai
th́ cho chỉ có người đó là đúng, những
người khác đều sai! Người cố
chấp như thế sẽ gặp sự đối
nghịch từ hai nhóm người có ư kiến khác:
nhóm thứ nhất hoàn toàn không thích những ǵ
người cố chấp thích, không ưa những
người mà kẻ cố chấp ưa (v́ không
thích, không ưa nên họ không thể chấp
nhận chỉ điều đó là sự thật,
chỉ người kia mới đúng); nhóm người
thứ hai chỉ thích một phần, chứ không phải
tất cả, toàn bộ những ǵ
người cố chấp thích (họ
sẽ chấp nhận một phần sự
thật, một vài phương diện nơi
một con người nào đó là tốt, chứ
không phải cái ǵ nơi người kia cũng tốt!). Mà
một khi “có đối nghịch thời có tranh
luận; khi nào có tranh luậnthời có chống
đối; khi nào có chống đối thời có bực
ḿnh” (Trung bộ kinh, số 74: kinh Trường
trảo). Như vậy, người cố
chấp tự tạo nên sự đối
nghịch, tranh luận, chống đối
và bực ḿnh; do đó Đức
Phật dạy, người đệ
tử Phật nên từ bỏ cố
chấp để tiến bộ trên con
đường tu tập.
Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy
rằng “chấp vào sân hận là sự
cố chấp bền chặt nhất” (câu
151). Lại ở một bài kinh khác, Đức
Phật dạy rằng nhiều
người phẫn nộ, lại cố
chấp sự phẫn nộ của
ḿnh, trở thànhngười khó nói. Khi những
người thiện tri thức nhắc nhở,
khuyên người ấy không nên trở thành “người
khó nói” th́ người ấy “tránh
né vấn đề với một vấn
đề khác, trả lời ra ngoài vấn
đề, để lộ phẫn nộ, sân
hận và bất măn của ḿnh” (Trung
bộ kinh số 15: kinh Tư
lượng). Đức Phật kết
luận ở bài kinh này rằng, người
như thế đó, dù nhiệt tâm, nhiệt t́nh th́
những người sống chung, sống gần vẫn
không ưa thích và cảm
thấy không thoải mái. Người cố
chấp rất bảo thủ và cứ kiên
tŕ ôm lấy kiến chấp của ḿnh, không
dễ hành xả. Chính v́ vậy, Đức
Phật dạy: là đệ
tử Phật, cần phải phát tâm như
sau: “Ta sẽ không chấptrước thế
tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ
hành xả” (Trung bộ kinh số 15:
kinh Tư lượng).
Thật bất hạnh và khổ đau cho những
ai ôm trong ḷng nhiều tham lam và phẫn nộ!
Người cố chấp: bất hạnh và
khổ đau
Như một hệ quả tất yếu,
người cố chấp cứ khư khư tham
giữ lấy quan điểm của ḿnh, xây thành
tŕ phong kín ư niệm về “tôi” và “của tôi”
một cách kiên cố, bất măn và phẫn
nộ với những quan điểm trái
chiều. Đức Phật gọi những
người như vậy là khó có thể mở
ḷng để tiếp thu, học hỏi thêm
điều ǵ từ người khác. Như một ly
nước đầy th́ không thể chứa thêm
được nước nữa, dù chỉ một
giọt! Người như vậy không bao giờ kham
nhẫn để có đủ thời gian và
sự nhu nhuyến cần thiết để
phân định đúng-sai, hay-dở, chỉ lo bảo
thủ những ǵ thuộc về ḿnh, và đẩy ra
những ǵ ḿnh không ưa thích. Đây là lư
doĐức Phật nói người cố
chấp góp phần làm cho Chánh pháp băng
hoại. Ngài dạy, “Này các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo
nào là những người khó nói, đầy đủ
những tánh khiến họ trở thành khó nói,
khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi
được giảng dạy. Đây là pháp
khiến diệu pháp hỗn loạn và biết
mất” (Tăng chi bộ kinh, chương V,
phẩm XVI, kinh số 156: Diệu pháp hỗn
loạn). Người như vậy chỉ biết
sống theo bản năng để xuôi theo ḍng
chảy về sông mê biển khổ, không tiếp cận
được với giáo pháp để
ngược ḍng về bến giác an vui.
Bên cạnh việc tự ḿnh chặn lối không tiếp
cận được giáo pháp, những tai
hại và nguy hiểm của sự cốchấp
được Đức Phật dạy nhiều
lần trong một số bài kinh. Ngài xác quyết,
người không chấp thủ được
nhiều người ưa thích, gần gũi
và thăm viếng khi có dịp (Tăng chi bộ
kinh, chương VII, phẩm VI, kinh số 54: Siha).
Điều này có thể được hiểu thêm
rằng, người chấp thủ bị
nhiều người không ưa thích, không gần gũi
và thân cận, và đây là một bất
hạnh lớn. Ở kinh Sáu thanh tịnh (Trung
bộ kinh số 112), Đức Phật một
lần nữa khẳng định
người cố chấp bị ràng buộc,
người không cố chấp mới có
thể giải thoát. Đức
Phật thẳng thắn chỉ ra rằng
người c̣n cố chấp th́ không thể
nào chứng quả A-la-hán (Tăng chi bộ kinh,
chương VI, phẩm VIII, kinh số 76: A-la-hán
quả). Ngài c̣n quả quyết rằng, “Ai chấp
trước, này Tỳ-kheo, người ấy bị
ma trói buộc. Ai không chấp trước,
người ấy được giải
thoát khỏi ác ma” (Tương ưng bộ kinh,
tập III, chương I, phẩm II, kinh số 1: Chấp
trước). “Người chấp trước,
không từ bỏ kiến ấy, vị
ấy chắc chắn rơi vào địa
ngục” (Tương ưng bộ kinh, tập IV,
chương VIII, phần VIII: Vỏ ốc).
Hiểu được lời Đức
Phật dạy và khuyến cáo, chúng ta nên
dần tháo gỡ những sợi dây cố
chấp và bảo thủ đang tự ràng
buộc lấy ḿnh vào trong hệ lụy khổ
đau do chính ḿnh tạo nên.
Những ai khéo tu tập,
Chánh tâm trong giác chi,
Từ bỏ các chấp trước,
Hoan hỷ không chấp thủ.
(Tương ưng bộ kinh, tập V, chương I,
phẩm IV, kinh số 34: Đến bờ bên kia)
Chỉ có trí tuệ phát khởi từ công
phu tu tập các pháp, điển h́nh là Thất
bồ-đề phần mới có thể giúp hành
giả phá vỡ thành tŕ cố chấp, giải
thoát sự ràng buộc vào các nhận
thức, quan điểm sai lầm vậy.
Thay lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng
băng” cố chấp
Là người học Phật, câu “duy tuệ thị
nghiệp” ai cũng nằm ḷng. David Loy phát
biểu ư này bằng cách nói khác, rằng “Mục
đích của đạo Phật là sử
dụng trí tuệ để chuyển hóa cá
nhân và xă hội” (The goal of the Buddhist path is wisdom in service
of personal and social transformation). Câu nói của David Loy không
mới, thế nhưng không phải
người Phật tử nào cũng có
thể nhận thức và sống đúng
theo phương châmnày.
Cố chấp thuộc về kiến
thủ, tà kiến và biên kiến, là những
món căn bản phiền năo, gốc rễ sâu dày,
đừng mong bứng một lần là lên ngay!
Điều cần thiết là chúng
ta phải lấy trí tuệ soi rọi vào tâm ḿnh,
với mỗi một việc, trước khi
làm, đang khi làm và sau khi làm, xét một cách công
tâm và khách quan, liệu chúng ta có phải là
người cố chấp với những quan
điểm ḿnh khư khư ôm giữ,
những thành kiến, những tưởng
tượng, mong muốn hay kỳ vọng của ḿnh
về một sự việc nào đó, cá nhân nào
đó… bằng cái nh́n một chiều, phiến
diện và giới hạn của ḿnh hay
không.
Sau khi quán chiếu cẩn thận, cần
phải luôn nhắc ḿnh trong chánh niệm, với
những giới hạn nhất
địnhcủa con người nói chung
và giới hạn cụ
thể của bản thân ḿnh, nhận
thức của một cá nhân như người
mù sờ voi mà thôi! Nếu là người cứng nhắc,
khó góp ư, chúng ta nhận đủ những thiệt
tḥi, bất hạnh, đau khổ đă
được Đức Phật nói đến mà
bài viết này đă điểm qua. Ánh sáng của trí
tuệ sẽ giúp chúng tamở tầm nh́n, mở
tâm bao dung và làm cho tâm nhu
nhuyến hơn, linh hoạt hơn trong cách nh́n,
cách nghĩ, cách làm và cách sống. Một điều
cần nhớ và để sống thanh thản là:
Ai mở ḷng chấp
nhận rằng cuộc đời là những
mảnh ghép đa màu, người ấy có b́nh an và
hạnh phúc!
Chúng ta xứng đáng để được
sống trong nguồn hạnh phúc mà ḿnh có khả
năng tự chế tác để xứng đáng là
người học và hành tŕ giáo pháp chân chánh! Sao
lại không bắt đầu bằng việc dùng trí
tuệ, kiên tŕ phá tảng băng cố
chấp của chính ḿnh?!
Liên Trí