KHI EINSTEIN CHIA BUỒN
Nguyên Giác
Chúng ta biết rằng nhà khoa
học Albert Einstein có những quan
điểm rất gần với nhà Phật. Nhưng
rồi cũng sẽ bất ngờ, khi thấy có lúc
Einstein nói y hệt, gần như 100% y hệt
như giáo lư nhà Phật. Đặc
biệt là khi Einstein viết thư chia buồn một
người bạn thân năm 1950...
Thí dụ, các pháp
là Không. Thí dụ, vạn pháp là thức. Einstein
đều nói lên cả hai quan điểm này.
Trong Kinh Tiểu Không MN 121, và Kinh Đại Không MN 122, Đức
Phật hướng dẫn cách chú tâm từ
một nội dung có nhiều dẫn tới nội dung có
ít, và từ có ít sẽ bước vào Không để an
trú.
Kinh MN 121 có câu:
“Này A-nan! Bởi an trú tánh không nên nay ta
được an trú rất nhiều.”
Về thức,
nhà Phật có phái Duy Thức chủ trương
rằng vạn pháp duy thức, nói đơn
giản là tất cả các pháp là biến hiện
của thức.
Nghĩa vạn
pháp duy thức có phải do phân tích từ Kinh
Pháp Cú Kệ
1 khi Đức Phật dạy, “Ư dẫn
đầu các pháp, Ư làm chủ, ư tạo...”?
Hay
nghĩa vạn pháp duy thức có phải là
từ Kinh SN 35.23 khi Đức Phật dạy
rằng thế giới chính là sáu nội xứ và
sáu ngoại xứ, tức là mắt tai mũi lưỡi
thân ư và sắc thanh hương vị xúc pháp,
và ngoài rakhông thể có thế giới khác?
Khoa học nói ǵ
về hai quan điểm trên?
Trước tiên,
để kể một chuyện về Albert Einstein,
một nhà khoa học lớn.
Một
người bạn thân của Einstein là Robert S.
Marcus, lúc đó đang giữ chức Giám đốc tổ
chức Nghị hội Người Do Thái Thế
giới. Sau khi con trai của Marcus chết v́ bệnh polio
(bệnh bại liệt trẻ em), Einstein viết một
lá thư đề ngày 12 tháng 2/1950 để an
ủi bạn.
Thư Einstein viết, dịch như sau:
Một
người là một phần của cái toàn thể,
mà chúng ta gọi là “Vũ Trụ,” một phần
bị hạn chếtrong thời gian và không
gian. Người đó kinh nghiệm chính anh
ta, kinh nghiệm thấy các suy
nghĩ và cảm thọ của anh như cái ǵ
tách biệt với phần c̣n lại – một kiểu
như là ảo giác quang học của ư
thức anh ta. Nỗ lực tự giải
thoát ra khỏi ảo giác này là
một vấn đề của tôn giáo chân
chính…” (A human being is a part of the whole, called by us
"Universe", a part limited in time and space. He experiences himself,
his thoughts and feelings as something separated from the rest — a kind of
optical delusion of his consciousness. The striving to free oneself from this
delusion is the one issue of true religion.) (link: http://www.lettersofnote.com/2011/11/delusion.html)
Nghĩa là, theo
Einstein, khi có ai thấy họ tách biệt với phần
c̣n lại của thế giới, đó chính là
“ảo giác quang học của ư thức”… Nghĩa
là, chính ư thức tạo ra ảo giác. Như
thế, thoát ra khỏi ảo giác chính là yêu
cầu của tôn giáo chân thực. Nghe như âm
vang của Kinh Kim Cương rằng các pháp
như mộng, huyễn, bào, ảnh…
Đoạn
văn của Einstein cho thấy có thể hiểu như các
pháp là Không, v́ ảo giác quang học của ư
thức có vẻ như nói về một gương tâm
rỗng rang mà người nh́n dễ bị khúc xạ? Và
cũng là biến hiện của thức?
Tới
đây, chúng ta có thể khảo sát về ư thức…
Trên báo Geekwire ngày
3 tháng 11/2017, có bài viết nhan đề “Where does
consciousness come from? Brain scientist closes in on the claustrum” (Ư
thức tới từ đâu? Nhà khoa học năo bộ
ngó gần tới claustrum). (https://www.geekwire.com/2017/consciousness-come-brain-scientist-closes-claustrum/)
Chữ claustrum là
danh từ y khoa, tiếng Việt là “nhân trước
tường”… là một mảnh dây thần
kinh mỏng, nằm giữa năo bộ.
Bản
tin phức tạp này nói về nhà khoa
học thần kinh Christof Koch, người nhiều
thập niên khảo sát về trú xứ của ư
thức, và rồi ḍ t́m năo bộ loài chuột, và rồi
tới gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tiến
sĩ Koch là Viện trưởng và là Trưởng
nhóm nghiên cứu chính ở viện Allen Institute for
Brain Science, bản doanh ở Seattle. Koch và nhà khoa
học quá cố Francis Crick, một người
đă cùng khám phá ra cấu trúc ṿng đôi xoắn
(helix) của DNA, chú ư về claustrum từ hơn một
thập niên trước.
Koch nói hôm
27/10/2017 tại hội nghị World Conference of Science
Journalists ở San Francisco rằng chính mảnh claustrum
nối kết vỏ ngoài chất xám để tạo
ra ư thức, và claustrum giữ chức
năng như người nhạc trưởng trong dàn
ḥa tấu ư thức.
Christof Koch nói
rằng trong các nghiên cứu của viện AIBS,
gắn các máy camera và kính hiển vi rất nhỏ trực
tiếp vào năo bộ các con chuột đă
đổi nhiễm sắc thể, theo
dơi xem cách nào mà khu vực claustrum và mạng lưới
năo bộ bật sáng lên trong khi chuột hoạt động.
Koch chiếu một băng h́nh video cho thấy năo bộ
chuột bật sáng theo các hoạt động.
Koch nói rằng
dây thần kinh năo bộ chuột bật sáng theo các
chuyển động khác nhau.
Có nghĩa là,
chuột có ư thức? Koch đáp là có. Và rồi, Koch tự
gọi ông là một người “panpsychist,” có thể
dịch là
chủ-nghĩa-tâm-thức-phổ-quát, ngờ
vực rằng ư thức trải rộng theo
nhiều mức độ, chứ không có cách
biệt minh bạch giữa người và các loài
vật khác.
Theo Koch, dị
biệt giữa chuột và người y hệt như
sự dị biệt giữa máy video hiệu
Atari 2600 thời thập niên 1970s, và một điện thoại
iPhone bây giờ. Cả hai máy đều có chức
năng tính toán, nhưng máy Atari 2600 không thể nói ǵ
với bạn. Trong khi nhu liệu Siri của iPhone có
thể làm như thế.
Koch nói, các nhà thí
nghiệm đang t́m cách bật mở và tắt
claustrum nơi loài chuột để xem những ǵ xảy
ra.
Koch ghi
nhận một trường hợp khi vô
ư kích hoạt nơi claustrum của một bệnh nhân
bệnh epilepsy (hỗn loạn năo bộ) làm bệnh
nhân này rơi vào hệt như tê liệt. Khi điện
cực tắt, bệnh nhân không nhớ ǵ thời
gian vừa xảy ra.
Nếu ư
thức có thể bật nút tắt và mở, nghĩa là
y hệt như một máy điện toán?
Koch trong nhiều
năm qua đă t́m tới Đức Đạt Lai
Lạt Ma để xin hỗ trợ cho
cuộc nghiên cứu.
Koch nói, “Nếu
bạn làm được cái mà Phật
tử gọi là kinh nghiệm thuần túy,
tức là cái biết trần trụi (pure experience or naked
awareness), tức lá cái kinh nghiệm mà không có nội
dung (content-less experience), bạn chỉ ư
thức thôi. Người ngồi thiền ư
thức mà không có nội dung cụ thể nào
trong ư thức.”
Chỗ này nên ghi
chú rằng, không phải Thiền phái nào của nhà Phật
cũng “giữ cái biết trần trụi” hay “cái
biết không nội dung,” v́ trên nguyên tắc, biết
phải là “biết ǵ.” Thí dụ, phổ
biến trong niệm thân là pháp
niệm hơi thở, có nội dung trong đối
tượng của ư thức, tức là
biết hơi thở dài hay ngắn, và vân vân.
Trong nhà Phật,
các pháp Thiền Tây Tạng và Thiền Tông là
tập trung đi dần tới chỗ nhận
ra bản tâm, được gọi là Tánh
Không của ư thức, tức là “cái biết
trần trụi,” nơi tất cả các đối
tượng ư thức hiện lên. Đối
với nhà Phật, bản tâm ví
như gương sáng rỗng lặng, không hề
có nghĩa ǵ tương tự như cái claustrum mà
Koch nghiên cứu.
Đức
Phật cũng dạy trong Kinh Trung
Bộ về cách hướng ư thức từ
nội dung nhiều (như ngôi làng, rừng...) tới
nội dung ít hơn, và rồi tới không nội dung,
tức là an trú Không.
Koch kể về
một dị biệt với Đức Đạt Lai
Lạt Ma, rằng tại một buổi
họp trong đó lănh đạo Phật Giáo Tây
Tạng hỏi nhà khoa học này rằng ngành khoa
học năo bộ có thể củng cố khái
niệm tái sinh hay không (whether neuroscience could lend
support to the concept of reincarnation). Koch đáp, “Hễ không
có năo bộ, là không có tâm.” (‘No brain, never mind.)
Koch nói, phải có
phần vật lư rồi ư
thức mới vận hành được, nó có
thể là cái ǵ kỳ lạ, thí dụ như vi
hạt (quarks: vi hạt lượng tử), nó có
thể tự nó chuyển động vi hạt
trong không gian hay ǵ đó, nhưng phải có một
cơ chế vận chuyển.
Phóng viên hỏi
Koch, vậy rồi ngài Đạt Lai Lạt
Ma phản ứng ra sao?
Koch nói, Ngài
chỉ mỉm cười thôi.
Trong một bài
báo trên Lion’s Roar ngày 8 tháng 1/2017, có nhan đề rất
đáng chú ư: “Leading neuroscientists and Buddhists agree:
“Consciousness is everywhere”… Nghĩa là, “Các nhà khoa
học thần kinh và các Phật
tử đồng ư: Ư thức có mặt khắp
nơi.” (https://www.lionsroar.com/christof-koch-unites-buddhist-neuroscience-universal-nature-mind/)
Có nghĩa là, nói
gần như y hệt với câu, “vạn pháp duy
thức,” tất cả các pháp là thức
biến hiện.
Các lư
thuyết mới trong ngành khoa học năo bộ nói
rằng ư thức là phẩm tính ẩn tàng trong
tất cả, y hệt như trọng lực (New
theories in neuroscience suggest consciousness is an intrinsic property of
everything, just like gravity).
GS Koch
nói, trọng tâm của ư
thức là cảm thọ cái ǵ
đấy, vậy th́ “làm sao một
mảnh vật chất, như năo bộ của tôi, có
thể cảm thọ bất kỳ thứ ǵ?”
Năm 2013, Koch
đă tới một tu viện ở Ấn
Độ, dự hội nghị, thảo
luận câu hỏi đó với một nhóm nhà
sư: Koch và Đức Đạt Lai Lạt Ma tranh
luận về khoa học năo bộ và tâm trong
suốt một ngày.
Họ có
những cách tiếp cận khác nhau. Koch đưa ra các
thuyết khoa học đương đại về
đề tài, Đức Đạt Lai Lạt
Ma đưa ra các giáo lư Phật giáo. Nhưng
tới tận cùng cuộc thảo luận, hai
người đồng ư trên tất cả các
điểm.
Koch nói rằng
trong nghiên cứu về ư thức,
Koch hợp tác với nhà nghiên cứu có tên
Giulio Tononi. Chính Tononi là cha đẻ lư
thuyết phổ biến nhất về ư
thức, gọi là Integrated Information Theory (IIT),
có thể dịch là Thuyết Thông Tin Tích Hợp,
viết tắt IIT.
Thuyết này
đo lường ư thức theo số đo gọi
là phi. Số đo này hiểu là “số
lượng ư thức.”
Tononi đă đo
số lượng phi trong một năo bộ
người. Y hệt như rung chuông, khoa học gia
gửi một tín hiệu từ trường vào một năo
người, quan sát độ rung xuyên qua các
dây thần kinh neurons, tới và lui, bên này và bên kia, Hễ
độ rung chuyển dài hơn và rơ hơn, nghĩa là
lượng ư thức nhiều hơn. Dùng thí
nghiệm này, Koch và Tononi có thể nhận ra một
bệnh nhân đang tỉnh, hay buồn ngủ, hay
đă ngấm thuốc mê.
Nhu cầu
thực dụng của thí nghiệm ư
thức là, các bác sĩ có thể đo phi để
biết là một người trong trạng
thái thực vật thực sự đă chết hay
chưa, và biết mức dộ ư thức một
người bệnh lăng trí có, cũng như biết khi nào
một bào thai khởi sự có ư thức,
biết mức độ loài thú nhận biết,
thậm chí biết một máy điện toán có thể cảm
thọ hay không.
Thuyết này nói
rằng, bất kỳ một vật ǵ có lượng phi lớn
hơn zero là đều có ư thức. Như thế,
nghĩa là thú vật, cây cỏ, tế bào, vi
trùng và có thể cả các vi hạt protons cũng là
một hữu thể ư thức.
Trong một bài
đúc kết nghiên cứu hàn lâm, Koch và Tononi
viết rằng lư thuyết của họ “xem ư
thức như phẩm tính căn bản, nội
tại của thực tại.” (make the profound statement
that their theory “treats consciousness as an intrinsic, fundamental property
of reality.”)
Câu này, có nghĩa
là “vạn pháp duy thức.”
Bài báo nhắc
rằng ngài Dogen (Thiền sư sáng tổ Tào
Động Tông Nhật Bản) viết trong cuốn Shobogenzo rằng, “Tất cả đều là chúng
sinh.” Cỏ, cây, mặt trời, mặt trăng,
các ngôi sao đều là tâm. (Dogen, the founder of Soto Zen Buddhism,
went so far as to say, “All is sentient being.” Grass, trees, land, sun, moon
and stars are all mind, wrote Dogen.)
Koch nói rằng
các nghiên cứu của ông đă đồng
ư với các giáo lư Phật giáo về vô
ngă, vô thường, về không có
một thượng đế sáng tạo nào.
Tại tu
viện Drepung Monastery, Đức Đạt Lai
Lạt Ma nói với Koch rằng Đức
Phật dạy rằng chúng sinh ở khắp
nơi, tùy mức độ khác nhau, và chúng
ta ở cơi người nên từ
bi với tất cả hữu t́nh bất kỳ
cơi nào. Koch nói rằng tới lúc đó ông mới
thấy sức mạnh nghiêm túc của các nghiên
cứu khoa học về ư thức, “Và rồi khi
tôi thấy côn trùng sâu kiến trong nhà, tôi không giết chúng
nữa.”
Thực sự,
ngành học về ư thức vẫn chỉ mới
đi những bước đầu, tuy đă
có ứng dụng nhiều cho y khoa.
Tới
đây, chúng ta có thể nhớ lại lời
của Einstein về ảo giác quang học
của ư thức ghi trong lá thư nêu
trên. Phải chăng Einstein cũng đồng
ư rằng thế giới này hiện
ra như ảnh hiện ảo giác quang
học của ư thức, và thực sự tất cả
là vô ngă?
Lá thư chia
buồn của Einstein hiển nhiên đă chỉ
vào các giáo lư cốt tủy của nhà Phật
vậy. Có thể đoán rằng đă có (hoặc sẽ
có) nhiều Phật tử hoan
hỷ mượn thư này để chia
buồn khi thấy bạn bè gặp tang sự.
Nguyên Giác
Bài đọc thêm:
An Trú “ở Không” Là Vi Diệu Đệ
Nhất
Kinh Tiểu Không MN 121
Kinh Đại Không MN 122
Chánh Pháp Nhăn Tạng