Phần
I
(Mulapariyaya sutta) [^]
Như vầy tôi
nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc)
Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới
gốc cây Sa la vương. Tại chỗ ấy, Thế
Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". - "Bạch
Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng
cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả
pháp". Hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ nói". - "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít
nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần
thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập
pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại
là địa đại. V́ tưởng tri địa đại
là địa đại, người ấy nghĩ đến
địa đại, nghĩ đến (tự ngă) đối
chiếu với địa đại, nghĩ đến
(tự ngă) như là địa đại, người ấy
nghĩ: "Địa đại là của ta" - dục
hỷ địa đại. V́ sao vậy? Ta nói người
ấy không liễu tri địa đại.
Người ấy tưởng tri thủy đại
là thủy đại. V́ tưởng tri thủy đại
là thủy đại, người ấy nghĩ đến
thủy đại, nghĩ đến (tự ngă) đối
chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự
ngă) như là thủy đại, người ấy nghĩ:
"Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy
đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy không liễu
tri thủy đại. Người ấy tưởng tri hỏa
đại là hỏa đại. V́ tưởng tri hỏa
đại là hỏa đại, người ấy nghĩ
đến hỏa đại, nghĩ đến (tự
ngă) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ
đến (tự ngă) như là hỏa đại, người
ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục
hỷ hỏa đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy
không liễu tri hỏa đại. Người ấy
tưởng tri phong đại là phong đại. V́ tưởng
tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với phong đại,
nghĩ đến (tự ngă) như là phong đại,
người ấy nghĩ: "Phong đại là của
ta"- dục hỷ phong đại. V́ sao vậy? Ta nói
người ấy không liễu tri phong đại. Người
ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người
ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người
ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người
ấy tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên... Người
ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người
ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh
thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả
thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng
tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù. Người ấy
tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ...
Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là
Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri
Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người
ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ
là Phi tưởng phi phi tưởng xứ... Người ấy
tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người
ấy tưởng tri sở văn là sở văn...
Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở
tư niệm... Người ấy tưởng tri sở
tri là sở tri... Người ấy tưởng tri đồng
nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng
tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng
tri tất cả là tất cả... Người ấy
tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn... V́ tưởng
tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ
đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngă) đối
chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngă)
như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn
là của ta" - dục hỷ Niết-bàn, V́ sao vậy? Ta
nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.
Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm
chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng
an ổn, khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa
đại là địa đại. V́ thắng tri địa
đại là địa đại, vị ấy đă
không nghĩ đến địa đại, đă không nghĩ
(tự ngă) đối chiếu với địa đại,
đă không nghĩ (tự ngă) như là địa đại,
đă không nghĩ: "Địa đại là của
ta", - không dục hỷ địa đại. V́ sao vậy?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại...
Thủy đại... hỏa đại... phong đại...
Sanh vật... chư Thiên Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm
thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù
(Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ...
Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng
xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm...
sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả...
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; v́ thắng
tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đă không nghĩ
đến Niết-bàn, đă không nghĩ (tự ngă) đối
chiếu với Niết-bàn, đă không nghĩ (tự ngă)
như là Niết-bàn, đă không nghĩ: "Niết-bàn là của
ta" – không dục hỷ Niết-bàn. V́ sao vậy? Ta nói vị
ấy có thể liễu tri Niết-bàn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, các lậu hoặc đă tận, tu hành thành măn, các việc
nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng xuống,
đă thành đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng
tri địa đại là địa đại. V́ thắng
tri địa đại là địa đại, vị ấy
không nghĩ đến địa đại, không nghĩ
(tự ngă) đối chiếu với địa đại,
không nghĩ đến (tự ngă) như là địa đại,
không nghĩ: "Địa đại là của ta" –
không dục hỷ địa đại. V́ sao vậy? Ta
nói vị ấy đă liễu tri địa đại...
thủy đại... hỏa đại... phong đại...
sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang
âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên...
Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên
xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi
tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở
tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt...
tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn.
V́ thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không
nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với Niết-bàn,
không nghĩ đến (tự ngă) như là Niết-bàn, không
nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ
Niết-bàn. V́ sao vậy? Ta nói vị ấy đă liễu
tri Niết-bàn".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, các lậu hoặc đă tận, tu hành thành măn, các việc
nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng xuống,
đă thành đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng
tri địa đại là địa đại. V́ thắng
trí địa đại là địa đại, vị ấy
không nghĩ đến địa đại, không nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với địa
đại, không nghĩ đến (tự ngă) như là
địa đại, không nghĩ: "Địa đại
là của ta" – không dục hỷ địa đại.
V́ sao vậy? V́ vị ấy không có tham dục, nhờ tham
dục đă được đoạn trừ... thủy
đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri
Niết-bàn là Niết-bàn. V́ thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn,
vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với Niết-bàn,
không nghĩ đến (tự ngă) như là Niết-bàn, không
nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ
Niết-bàn. V́ sao vậy? V́ vị ấy không có tham dục,
nhờ tham dục đă được đoạn trừ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, các lậu hoặc đă tận, tu hành thành măn, các việc
nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng xuống,
đă thành đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng
tri địa đại là địa đại. V́ thắng
tri địa đại là địa đại, vị ấy
không nghĩ đến địa đại, không nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với địa
đại, không nghĩ đến (tự ngă) như là
địa đại, không nghĩ: "Địa đại
là của ta" – không dục hỷ địa đại.
V́ sao vậy? V́ vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận
đă được đoạn trừ... thủy đại...
hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là
Niết-bàn. V́ thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy
không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến
(tự ngă) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ
đến (tự ngă) như là Niết-bàn, không nghĩ:
"Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn.
V́ sao vậy? V́ vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận
đă được đoạn trừ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, các lậu hoặc đă tận, tu hành thành măn, các việc
nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng xuống,
đă thành đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng
tri địa đại là địa đại. V́ thắng
trí địa đại là địa đại, vị ấy
không nghĩ đến địa đại, không nghĩ
đến (tự ngă) đối chiếu với địa
đại, không nghĩ đến (tự ngă) như là
địa đại, không nghĩ: "Địa đại
là của ta" – không dục hỷ địa đại.
V́ sao vậy? V́ vị ấy không có si mê, nhờ si mê đă
được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa
đại. V́ thắng tri địa đại là địa
đại, Ngài không nghĩ đến địa đại,
không nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với
địa đại, không nghĩ đến (tự ngă)
như là địa đại, không nghĩ: "Địa
đại là của ta" – không dục hỷ địa
đại. V́ sao vậy? Ta nói v́ Như Lai đă liễu tri
địa đại... thủy đại... hỏa đại...
Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. V́ thắng
tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến
Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngă) đối
chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự
ngă) như là Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngă)
như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của
ta" – không dục hỷ Niết-bàn. V́ sao vậy? Ta nói v́
Như Lai đă liễu tri Niết-bàn.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa
đại. V́ thắng tri địa đại là địa
đại, Như Lai không nghĩ đến địa
đại, không nghĩ đến (tự ngă) đối
chiếu với địa đại, không nghĩ đến
(tự ngă) như là địa đại, không nghĩ:
"Địa đại là của ta" – không dục hỷ
địa đại. V́ sao vậy? V́ Như Lai biết rằng:
"Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ
hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với
loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói Như
Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly
tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ
bỏ hoàn toàn các ái, đă chơn chánh giác ngộ vô thượng
chánh đẳng chánh giác"... thủy đại... hỏa
đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn.
V́ thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ
đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngă)
đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến
(tự ngă) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn
là của Ta" – không dục hỷ Niết-bàn. V́ sao vậy?
V́ Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản
của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già
chết đến với loài sinh vật". Do vậy,
này các Tỷ-kheo, Ta nói Như Lai, với sự diệt trừ
hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự
xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đă chơn
chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế
Tôn.
(Sabbasavasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!" – "Bạch Thế
Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người
pháp môn pḥng hộ tất cả lậu hoặc". Hăy nghe
và khéo tác ư. Ta sẽ nói". – "Thưa vâng, bạch Thế
Tôn". Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận
các lậu hoặc cho người biết, cho người
thấy, không phải cho người không biết, cho
người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự
diệt tận các lậu hoặc cho người biết,
cho người thấy: có như lư tác ư và không như lư tác
ư. Này các Tỷ-kheo, do không như lư tác ư, các lậu hoặc
chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc
đă sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo,
do như lư tác ư, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi,
và các lậu hoặc đă sanh được trừ diệt.
Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến
được đoạn trừ, có những lậu hoặc
phải do pḥng hộ được đoạn trừ, có
những lậu hoặc phải do thọ dụng
được đoạn trừ, có những lậu hoặc
phải do kham nhẫn được đoạn trừ,
có những lậu hoặc phải do tránh né được
đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ
diệt được đoạn trừ, có những lậu
hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc
phải do tri kiến được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không
được thấy các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không
được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần
thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các
bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải
tác ư, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ư; vị
này v́ không tuệ tri các pháp cần phải tác ư, v́ không tuệ
tri các pháp không cần phải tác ư nên tác ư các pháp không cần
phải tác ư và không tác ư các pháp cần phải tác ư. Này các Tỷ-kheo,
và thế nào là các pháp không cần phải tác ư mà vị ấy
tác ư? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ư
mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay
dục lậu đă sanh được tăng trưởng;
hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi,
hay hữu lậu đă sanh được tăng trưởng,
hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay
vô minh lậu đă sanh được tăng trưởng.
Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ư
mà vị ấy tác ư. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp
cần phải tác ư mà vị ấy không tác ư? Này các Tỷ-kheo,
nghĩa là các pháp do vị ấy tác ư mà dục lậu
chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đă sanh
được trừ diệt, hay hữu lậu chưa
sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đă sanh được
trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi,
hay vô minh lậu đă sanh được trừ diệt.
Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ư mà các
vị ấy không tác ư. Do vị ấy tác ư các pháp không nên
tác ư, do vị ấy không tác ư các pháp cần phải tác ư,
nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi,
và các lậu hoặc đă sanh được tăng
trưởng. Vị ấy không như lư tác ư như sau:
"T ó mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt
trong thời quá khứ? T ó mặt trong thời quá khứ
như thế nào? T ó mặt trong thời quá khứ h́nh vóc
như thế nào? Trước kia ta-là ǵ và ta đă có mặt
như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt
trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời
vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như
thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, h́nh vóc
như thế nào? Trước kia ta-là ǵ và ta sẽ có mặt
như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy
có nghi ngờ về ḿnh trong thời hiện tại: "T
ó mặt hay ta không có mặt? T ó mặt như thế nào? T
ó mặt h́nh vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu
đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?". Với
người không như lư tác ư như vậy, một trong
sáu tà kiến này khởi lên: "T ó tự ngă", tà kiến
này khởi lên với người ấy như thật,
như chơn; "Ta không có tự ngă", tà kiến này khởi
lên với người ấy như thật như chơn;
"Do tự ḿnh, ta tưởng tri t ó tự ngă", tà kiến
này khởi lên với người ấy như thật,
như chơn; "Do tự ḿnh, ta tưởng tri ta không có
tự ngă", tà kiến này khởi lên với người
ấy như thật, như chơn. "Không do tự ḿnh,
ta tưởng tri t ó tự ngă", tà kiến này khởi
lên với người ấy như thật, như
chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy:
"Chính tự ngă của ta nói, cảm giác, hưởng thọ
quả báo các nghiệp thiện ác đă làm chỗ này, chỗ
kia, chính tự ngă ấy của ta-là thường trú,
thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến,
và sẽ vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo,
như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang
vu, kiến hư luận, kiến tranh chấp, kiến kiết
phược.
Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết
sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát
khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo. Ta
nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau. Này các Tỷ-kheo,
và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được
thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy
các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc
Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ
tri các pháp cần phải tác ư, tuệ tri các pháp không cần
phải tác ư. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải
tác ư, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ư, nên
không tác ư các pháp không cần phải tác ư và tác ư các pháp cần
phải tác ư. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần
phải tác ư và vị này không tác ư? Này các Tỷ-kheo, những
pháp nào do tác ư mà dục lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay dục lậu đă sanh được
tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh...
(như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi,
hay vô minh lậu đă sanh được tăng trưởng.
Đó là những pháp không nên tác ư và vị ấy không tác ư.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ư
và vị ấy tác ư? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác
ư mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu
đă sanh được trừ diệt, hay hữu lậu
chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không
sanh khởi, hay vô minh lậu đă sanh được trừ
diệt, đó là những pháp cần phải tác ư và vị ấy
tác ư. Nhờ vị ấy không tác ư các pháp không cần phải
tác ư, tác ư các pháp cần phải tác ư nên các lậu hoặc
chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đă sanh
được trừ diệt. Vị ấy như lư tác ư:
"Đây là khổ", như lư tác ư: "Đây là khổ
tập", như lư tác ư: "Đây là khổ diệt",
như lư tác ư: "Đây là con đường đưa
đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ư
như vậy, ba kiết sử được trừ diệt:
thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo,
các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải
do tri kiến được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do pḥng hộ được đoạn trừ? Ở
đây, có Tỷ-kheo như lư giác sát, sống pḥng hộ với
sự pḥng hộ con mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ấy sống không pḥng hộ với sự pḥng hộ con
mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể
khởi lên. Nếu sống pḥng hộ với sự pḥng hộ
con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy
không c̣n nữa. Vị ấy như lư giác sát, sống pḥng hộ
với sự pḥng hộ lỗ tai... (như trên)... sống
pḥng hộ với sự pḥng hộ lỗi mũi...
(như trên)... sống pḥng hộ với sự pḥng hộ
lưỡi... (như trên)... sống như lư giác sát pḥng hộ
với sự pḥng hộ thân căn... (như trên)... sống
như lư giác sát pḥng hộ với sự pḥng hộ ư
căn. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống
không pḥng hộ với sự pḥng hộ ư căn, các lậu
hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi
lên. Nếu sống pḥng hộ ư căn, các lậu hoặc
tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo,
các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải
do pḥng hộ được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do thọ dụng được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát, thọ
dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh,
ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của
ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài ḅ
sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần
truồng. Vị ấy như lư giác sát, thọ dụng món
ăn khất thực không phải để vui đùa,
không phải để đam mê, không phải để
trang sức, không phải để tự làm đẹp
ḿnh, mà chỉ để thân này được sống lâu
và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi
bị thương hại, để hổ trợ phạm
hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ
các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ
mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được
an ổn". Vị ấy như lư giác sát, thọ dụng
sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh,
ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của
ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loại
ḅ sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của
thời tiết, chỉ với mục đích sống
độc cư an tịnh; vị ấy như lư giác sát thọ
dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để
ngăn chận các cảm giác khổ thống đă sanh,
để được ly khổ hoàn toàn. Này các Tỷ-kheo,
nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các
lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể khởi
lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu
hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này
các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu
hoặc phải do thọ dụng được đoạn
trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do kham nhẫn được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lư giác sát,
kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc phạm của
ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài ḅ
sát; kham nhẫn những cách nói mạ lỵ, phỉ báng. Vị
ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những
cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau
nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết
điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy
không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại
và nhiệt năo có thể khởi lên. Nếu vị ấy
kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và
nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy
được gọi là các lậu hoặc phải do kham
nhẫn được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do tránh né được đoạn trừ? Này các
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát tránh né
voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né ḅ dữ, tránh né chó
dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước
nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi
không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai
văng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du th́ bị
các vị đồng phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh
thường; vị ấy như lư giác sát tránh né chỗ ngồi
không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai văng ấy
và các bạn độc ác ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị
ấy không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại
và nhiệt năo ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy
tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy
được gọi là các lậu hoặc phải do tránh
né được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do trừ diệt được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát
không có chấp nhận dục niệm đă khởi lên, từ
bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại
(dục niệm ấy); không có chấp nhận sân niệm
đă khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận,
không cho tồn tại (sân niệm ấy); không có chấp nhận
hại niệm đă khởi lên, từ bỏ, trừ diệt,
diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy);
không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn khởi
lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn
tại (các ác bất thiện pháp ấy). Này các Tỷ-kheo,
nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các
lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi
lên. Nếu vị ấy trừ diệt như vậy, các lậu
hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này
các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu
hoặc phải do trừ diệt được đoạn
diệt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc
phải do tu tập được đoạn trừ? Này
các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát tu tập
niệm giác chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y
đoạn diệt, hướng đến từ bỏ;
như lư giác sát tu tập trạch pháp giác chi... (như
trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác
chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi...
tu tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly
tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như
vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy
có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như
vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy
không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được
gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được
đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những
lậu hoặc nào phải do tri kiến được
đoạn trừ đă được tri kiến đoạn
trừ, những lậu hoặc nào phải do pḥng hộ
được đoạn trừ đă được
pḥng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào
phải do thọ dụng dược đoạn trừ
đă được thọ dụng đoạn trừ, những
lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được
đoạn trừ đă được kham nhẫn đoạn
trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né
được đoạn trừ đă được
tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải
do trừ diệt được đoạn trừ đă
được trừ diệt đoạn trừ, những
lậu hoặc nào phải do tu tập được
đoạn trừ đă được tu tập đoạn
trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi
là đă sống pḥng hộ với sự pḥng hộ tất
cả lậu hoặc, đă đoạn diệt khát ái,
đă thoát ly kiết sử, đă chánh quán kiêu mạn,
đă diệt tận khổ đau.
Như vậy Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế
Tôn.
(Dhammadayadasutta) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo", – "Bạch Thế
Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, hăy là người thừa tự
pháp của Ta, đừng là những người thừa tự
tài vật. T ó ḷng thương tưởng các Người
và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta
là những người thừa tự pháp của Ta, không phải
là những người thừa tự tài vật". Và này
các Tỷ-kheo, nếu các Người là những người
thừa tự tài vật của Ta, không phải là những
người thừa tự pháp, th́ không những các Người
trở thành những người mà người ta nói:
"Cả thầy và tṛ đều là những người
thừa tự tài vật, không phải là những người
thừa tự pháp", mà cả T ũng trở thành người
mà người ta nói: "Cả thầy và tṛ đều là
những người thừa tự tài vật, không phải
là những người thừa tự pháp". Và này các Tỷ-kheo,
nếu các Người là những người thừa tự
pháp của Ta, không phải là những người thừa
tự tài vật, thời không những các người trở
thành những người mà người ta nói: "Cả Thầy
và tṛ là những người thừa tự pháp, không phải
là những người thừa tự tài vật", mà cả
T ũng trở thành người mà người ta nói: "Cả
Thầy và tṛ đều là những người thừa tự
pháp, không phải là những người thừa tự tài
vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy là những
người thừa tự pháp của Ta, đừng là những
người thừa tự tài vật. T ó ḷng thương
tưởng các Người và Ta nghĩ: "Làm sao những
đệ tử của Ta là những người thừa
tự pháp của Ta, không phải là những người thừa
tự tài vật".
Này các Tỷ-kheo, ở đây, một thời Ta ăn
đă xong, thỏa măn, đầy đủ, đă chấm
dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ư,
và c̣n lại đồ ăn tàn thực của Ta đáng
được quăng bỏ. Khi ấy có hai Tỷ-kheo
đến, đói lả và kiệt sức. T ó thể nói với
hai vị ấy: "Này các Tỷ-kheo, Ta ăn đă xong, thỏa
măn, đầy đủ, đă chấm dứt buổi
ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ư, và c̣n lại
đồ ăn tàn thực này của Ta đáng được
quăng bỏ. Nếu các Người muốn, hăy ăn
đi. Nếu các Người không muốn ăn, Ta sẽ
quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ
xanh, hay Ta sẽ bỏ xuống chỗ nước không có
chúng sanh trong ấy". Rồi một Tỷ-kheo có thể
nghĩ như sau: "Nay Thế Tôn ăn đă xong, thỏa
măn, đầy đủ, đă chấm dứt buổi
ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ư; và đây là
đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng
được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế
Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không
có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước
không có chúng sanh trong ấy. Nhưng Thế Tôn có dạy
như sau: "Này các Tỷ-kheo, hăy là người thừa tự
pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài
vật". Đây là loại tài vật; món đồ
ăn này, ta hăy không ăn loại đồ ăn này và trải
qua đêm ngày hôm nay, bị đói lả và kiệt sức".
Rồi vị ấy không ăn loại đồ ăn này
và trải qua đêm ngày ấy, đói lả và kiệt sức.
Tỷ-kheo thứ hai nghĩ như sau: "Thế Tôn ăn
đă xong, thỏa măn, đầy đủ, đă chấm
dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ư;
và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn,
đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không
ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại
chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ
nước không có chúng sanh trong ấy. Vậy ta hăy ăn loại
đồ ăn này, trừ bỏ đói lả và kiệt sức,
và trải qua đêm ngày hôm nay như vậy". Rồi vị
ấy ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ
đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy
như vậy. Này các Tỷ-kheo, dầu cho Tỷ-kheo này, sau
khi ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ
đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy
như vậy, nhưng đối với Ta, Tỷ-kheo
đầu tiên đáng được kính nể hơn, và
đáng được tán thán hơn. V́ sao vậy? V́ như
vậy sẽ đưa đến cho Tỷ-kheo ấy,
trong một thời gian lâu ngày, ít dục, biết đủ,
khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy là người thừa tự
pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài
vật.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói
xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy,
đi vào tịnh xá.
Lúc ấy, Tôn giả Sariputta, sau khi Thế Tôn
đi chẳng bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: "Này
các Hiền giả Tỷ-kheo!" - "Thưa vâng Hiền
giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sariputta. Tôn giả Sariputta nói:
"Này các Hiền giả, như thế nào vị Đạo
sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học
viễn ly? Và như thế nào vị Đạo sư sống
viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly?"
- "Này Hiền giả, chúng tôi từ xa lại để
được hiểu nghĩa lư câu nói này từ Tôn giả
Sariputta. Lành thay, nếu Tôn giả Sariputta thuyết giảng
nghĩa lư câu nói ấy. Sau khi được nghe Tôn giả
Sariputta thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ
tŕ" - "Chư Hiền, vậy hăy nghe và khéo tác ư, ta sẽ
giảng" - "Thưa vâng, Hiền giả", những
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả
Sariputta nói như sau:
– Này chư Hiền, ở đây vị Đạo
Sư sống viễn ly các đệ tử không tùy học
viễn ly. Những pháp nào vị Đạo Sư dạy
nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ,
và họ sống trong sự đầy đủ, lười
biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ
rơi gánh nặng sống viễn ly. Này chư Hiền, các
Thượng Tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp,
đáng bị quở trách. Vị Đạo Sư sống
viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng
Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp
nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những
pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp
thứ hai, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị
quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười
biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ
rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường
hợp thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng
bị quở trách. Này chư Hiền, các Thượng tọa
Tỷ-kheo do ba trường hợp này đáng bị quở
trách. Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo... (như
trên)... các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường
hợp đáng bị quở trách. Vị Đạo Sư sống
viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Đó là trường hợp thứ nhất, các vị mới
thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp
nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những
pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp
thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị
quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười
biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ
rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường
hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo
đáng bị quở trách. Này chư Hiền, các vị mới
thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng bị
quở trách. Này chư Hiền, như vậy là những
trường hợp vị Đạo Sư sống viễn
ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Và như thế nào, vị Đạo Sư sống
viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly? Này
chư Hiền, vị Đạo Sư sống viễn ly
các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị
Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy
họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy
đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi
gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về
sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng tọa
Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được
tán thán. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ
tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ
nhất, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng
được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo
Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ
bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng
tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ
không sống trong sự đầy đủ, không lười
biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa
lạc và dẫn đầu về sống viễn ly.
Đó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa
Tỷ-kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền,
các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp
này, đáng được tán thán. Này chư Hiền, các
Trung tọa Tỷ-kheo... (như trên)... các vị mới thọ
Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được
tán thán. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ
tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ
nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng
được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo
Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ
bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các vị mới
thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ
không sống trong sự đầy đủ, không lười
biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa
lạc và dẫn đầu về viễn ly. Đó là
trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo
đáng được tán thán. Này chư Hiền, các vị
mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này,
đáng được tán thán. Này chư Hiền, như vậy
là những trường hợp vị Đạo Sư sống
viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly.
Ở đây, này chư Hiền, tham là ác pháp, và sân
cũng là ác pháp, có một con đường Trung đạo
diệt trừ tham và diệt trừ sân, khiến (tịnh)
nhăn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền
con đường Trung đạo ấy là ǵ, (con
đường) khiến (tịnh) nhăn sanh, khiến (chân)
trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn? Đó là con đường Thánh
tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường
Trung đạo, khiến (tịnh) nhăn sanh, khiến (chân) trí
sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết-bàn. Ở đây, này chư Hiền, phẫn
nộ là ác pháp và hiềm hận cũng là ác pháp, giả dối
là ác pháp và năo hại cũng là ác pháp, tật đố là ác
pháp và xan lẫn cũng là ác pháp, man trá là ác pháp và phản bội
cũng là ác pháp, ngoan cố là ác pháp và bồng bột nông nổi
cũng là ác pháp, mạn là ác pháp và tăng thượng mạn
cũng là ác pháp, kiêu là ác pháp và phóng dật cũng là ác pháp.
Có một con đường Trung đạo diệt trừ
kiêu và diệt trừ phóng dật, khiến (tịnh) nhăn sanh,
khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền,
con đường Trung đạo ấy là ǵ, (con
đường) khiến (tịnh) nhăn sanh, khiến (chân)
trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn? Đó là con đường Thánh
tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường
Trung đạo khiến (tịnh) nhăn sanh, khiến (chân) trí
sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết-bàn.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của
Tôn giả Sariputta.
(Bhayabheravasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế
Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào
đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những
lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
Janussoni bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử,
v́ ḷng tin Tôn giả Gotama, đă xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh. Đối với những
vị này, Tôn giả Gotama là vị lănh đạo. Đối
với những vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều.
Đối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị
khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân theo
quan điểm của Tôn giả Gotama.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn,
thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam
tử, v́ ḷng tin nơi Ta, đă xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Ta là vị lănh đạo
của họ. Ta đă giúp ích rất nhiều cho họ. Ta
là vị khích lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp
nhận tuân theo quan điểm của Ta.
– Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những
trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó
khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng
thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng
rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chư
hứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn,
thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn
những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật
khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng
thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng
rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chư
hứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, xưa kia khi T hư hứng ngộ
chánh đẳng giác, khi c̣n là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau:
"Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống
viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống
độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn
tâm trí vị Tỷ-kheo chư hứng Thiền định!"
Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân
nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những
Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh.
Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp
thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn
toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy ḷng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ
như sau: "Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp
không thanh tịnh... (như trên)... có ư nghiệp không thanh tịnh...
(như trên)... có mạng sống không thanh tịnh sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân
nhiễm trước mạng sống không thanh tịnh, những
Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh.
Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống
thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống
hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy ḷng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục,
có ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước tham dục, có ái dục cường liệt,
những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống
tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta
không có tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh,
không có tham dục, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta
không có tham dục như vậy, tự cảm thấy ḷng
tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận
ác ư, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm sân hận ác
ư, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có tâm sân hận, ác ư, sống tại các trú xứ
xa vắng trong rừng núi hoang vu. T ó từ tâm. Ta là một
trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát T ó từ tâm như vậy, T ảm thấy
ḷng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn
trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những
Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn
trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh
không có hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự
cảm thấy ḷng tự tin được xác chứng
hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động,
tâm không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị
dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp
đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có dao động,
tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động,
tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc
Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh
như vậy, tự cảm thấy ḷng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc,
do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi hoặc, do dự,
những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ
được do dự. Ta là một trong những bậc
Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được
nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy ḷng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen ḿnh,
chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen ḿnh,
chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất
thiện khởi lên. Ta không có khen ḿnh, chê người, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta
không có khen ḿnh, không có chê người, Ta là một trong những
bậc Thánh không có khen ḿnh, không có chê người, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta không có khen ḿnh, không có chê
người như vậy, tự cảm thấy ḷng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy,
sợ hăi sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ
hăi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có run rẩy, sợ hăi, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng
ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc dựng
ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có
lông tóc dựng ngược như vậy, tự cảm thấy
ḷng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn
lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân
nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung
kính, danh vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất
thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng,
cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một
trong những bậc Thánh ít dục, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm
thấy ḷng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng
nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước biếng
nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất
thiện khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta
siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc
Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm
thấy ḷng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất
niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước thất
niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp
đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thất niệm,
không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một
trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn,
Ta quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự cảm thấy
ḷng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định
tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn,
những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hăi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán
loạn sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một trong những
bậc Thánh thành tựu định tâm, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn,
Ta tự quán sát Ta thành tựu định tâm như vậy,
từ cảm thấy ḷng tự tin được xác chứng
hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt
tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước
liệt tuệ, đần độn, những Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hăi, khiếp
đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có liệt tuệ,
đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ. Ta là một
trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy,
tự cảm thấy ḷng tự tin được xác chứng
hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Trong những đêm được
biết đến, được xác định, đêm
mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng
tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy,
Ta hăy đến ở tại các trú xứ hăi hùng, lông tóc dựng
ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự
miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây
cối, để T ó thể thấy sự sợ hăi khiếp
đảm ấy". Này Bà-la-môn, sau một thời gian,
trong những đêm được biết đến,
được xác định, đêm mười bốn,
đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa
tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở
tại các trú xứ hăi hùng, lông tóc dựng ngược
như vậy, như tự miếu tại các thảo viên,
tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại
các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy,
một con thú có thể đến, hay một con công làm
rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi;
Ta khởi lên ư nghĩ: "Nay sự sợ hăi khiếp
đảm ấy đă đến!". Này Bà-la-môn, rồi
Ta suy nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong
đợi sự sợ hăi khiếp đảm chớ không
ǵ khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta
mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến, trong hành
vi cử chỉ ấy, Ta hăy trừ diệt sợ hăi khiếp
đảm ấy". Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua
lại mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến,
th́ này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm,
nhưng Ta trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy
trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta
đang đứng mà sự sợ hăi khiếp đảm ấy
đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không
ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hăi
khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này
Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hăi khiếp đảm
ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng,
Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ
hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này
Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hăi khiếp đảm
ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không
đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt
sợ hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.
Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng
ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống
như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn,
Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng
đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói
một cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Vị hữu
t́nh nào không có si ám, sinh ra ở đời v́ hạnh phúc cho
muôn loài, v́ an lạc cho muôn loài, v́ ḷng thương tưởng
cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho
loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một
cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu
t́nh không có si ám, sinh ra ở đời v́ hạnh phúc cho muôn
loài, v́ an lạc cho muôn loài, v́ ḷng thương tưởng
cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho
loài Trời và loài Người". Này Bà-la-môn, Ta tinh cần,
tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh niệm,
không có loạn, thân được khinh an, không có dao động,
tâm được định tĩnh, chuyên nhất. Này
Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
với tầm với tứ. Diệt tầm, diệt tứ,
T hứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh
nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, T hứng và an trú Thiền thứ ba. Xả
lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, T hứng và an trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ
đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi
đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm
đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, T ó tên như thế này, ḍng họ
như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn
như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại
chỗ này. Tại chỗ này, T ó tên như thế này, ḍng họ
như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn
như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở
đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, trong đêm canh
đầu T hứng được minh thứ nhất, vô
minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi
Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về
chúng sanh. Ta với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy
sự sống và sự chết củ húng sanh. Ta tuệ tri
rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp
của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về
thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ư, phỉ
báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. C̣n những chúng sanh nào thành tựu những
thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh
về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về
ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo
các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện
thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy với
thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống
chết củ húng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn,
kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, T hứng
được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối
diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta
thắng tri như thật: "Đây là khổ", thắng
tri như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ",
thắng tri như thật: "Đây là khổ diệt",
thắng tri như thật: "Đây là con đường
đưa đến khổ diệt", thắng tri
như thật: "Đây là những lậu hoặc",
thắng tri như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu
hoặc", thắng tri như thật: "Đây là các lậu
hoặc diệt", thắng tri như thật:
"Đây là con đường đưa đến các lậu
hoặc diệt". Nhờ biết như vậy, nhờ
thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu.
Đối với tự thân đă giải thoát như vậy,
khởi lên trí hiểu biết: Ta đă giải thoát. Ta
đă thắng tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh
đă thành, việc cần làm đă làm, không c̣n trở lui trạng
thái này nữa". Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, T hứng
được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối
diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật nhiệt
tâm tinh cần.
Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng
như sau: "Nay Sa-môn Gotam hưa diệt trừ tham,
chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
Này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục
đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại lạc trú
và v́ ḷng thương tưởng chúng sanh trong tương
lai.
– Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả
Gotama thương tưởng, v́ Tôn giả là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Như
người dựng đứng lại những ǵ bị
quăng xuống, phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đă được Tôn giả Gotama dùng nhiều
phương tiện tŕnh bày giải thích. Con quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama
nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
5. KINH KHÔNG UẾ NHIỄM
(Ananganasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Ở tại đây, Tôn giả Sariputta (Xá lợi
Phất) gọi các Tỷ-kheo. "Chư Hiền Tỷ-kheo".
- "Thưa Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Này chư Hiền, ở đời có bốn hạng
người. Thế nào là bốn? Chư Hiền, ở
đây, có hạng người có cấu uế, nhưng
không như thật tuệ tri: "Nội thân t ó cấu uế".
Lại nữ hư Hiền, ở đây, có hạng người
có cấu uế, và như thật tuệ tri: "Nội
thân t ó cấu uế". Lại nữ hư Hiền, ở
đây có hạng người không có cấu uế, nhưng
không như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu
uế". Lại nữa, chư Hiền, ở đây, có
hạng người không có cấu uế và như thật
tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế".
Chư Hiền, ở đây, hạng người có cấu
uế nhưng không như thật tuệ tri: "Nội
thân t ó cấu uế". Trong hai hạng người có cấu
uế, hạng người này v́ vậy được gọi
là hạng người hạ liệt. Chư Hiền, ở
đây, hạng người có cấu uế và như thật
tuệ tri: "Nội thân t ó cấu uế". Trong hai hạng
người có cấu uế, hạng người này v́ vậy
được gọi là hạng người ưu thắng.
Chư Hiền, ở đây, có hạng người không có
cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: "Nội
thân ta không có cấu uế". Trong hai hạng người
không có cấu uế, hạng người này v́ vậy
được gọi là hạng người hạ liệt.
Chư Hiền, ở đây, hạng người không có cấu
uế và như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có
cấu uế". Trong hai hạng người không có cấu
uế, hạng người này v́ vậy được gọi
là hạng người ưu thắng.
Được nói như vậy, Tôn giả
Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên) nói với Tôn giả
Sariputta như sau:
– Tôn giả Sariputta, do nhân ǵ, do duyên ǵ, trong hai hạng
người có cấu uế này, một hạng người
được gọi là hạ liệt, một hạng
người được gọi là ưu thắng? Tôn giả
Sariputta, do nhân ǵ, do duyên ǵ trong hai hạng người không
có cấu uế này, một hạng người được
gọi là hạ liệt, một hạng người
được gọi là ưu thắng?
– Ở đây, Hiền giả, hạng người
có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri:
"Nội thân t ó cấu uế". Với người
này, có thể chờ đợi như sau: "Người
này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố
gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu
uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi
c̣n có tham, c̣n có sân, c̣n có si, trong khi c̣n cấu uế, trong khi
tâm c̣n ô nhiễm". Này Hiền giả, giống như một
cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ
nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và
người chủ cái bát ấy không dùng đến, không
lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi
bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một
thời gian càng ô nhiễm hơn, càng đầy bụi bặm
hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người
có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri:
"Nội thân t ó cấu uế". Với người
này, có thể chờ đợi như sau: "Người
này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố
gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu
uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi
c̣n có tham, c̣n có sân, c̣n có si, trong khi c̣n cấu uế, trong khi
tâm c̣n nhiễm".
Ở đây, này Hiền giả, hạng người
có cấu uế, và như thật tuệ tri: "Nội
thân t ó cấu uế". Với người này, có thể
chờ đợi như sau: "Người này sẽ khởi
lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn
để diệt trừ cấu uế ấy. Người
này sẽ từ trần, trong khi không c̣n tham, không c̣n sân,
không c̣n si, trong khi không c̣n cấu uế, trong khi tâm không c̣n ô
nhiễm". Này Hiền giả, giống như cái bát bằng
đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ
rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người
chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng
cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền
giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian
được thanh tịnh hơn, được sạch
sẽ hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người
có cấu uế và như thật tuệ tri: "Nội
thân t ó cấu uế". Với hạng người này,
có thể chờ đợi như sau: "Người này
sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng,
sẽ tinh tấn, để diệt trừ cấu uế ấy.
Người này sẽ từ trần, trong khi không c̣n tham,
không c̣n sân, không c̣n si, trong khi không c̣n cấu uế, trong khi
tâm không c̣n ô nhiễm".
Ở đây, này Hiền giả, hạng người
không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri:
"Nội thân ta không có cấu uế". Với người
này, có thể chờ đợi như sau: "Người
này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm
tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của
người này. Người này sẽ từ trần, trong
khi c̣n có tham, c̣n có sân, c̣n có si, trong khi c̣n cấu uế, trong
khi tâm c̣n ô nhiễm". Này Hiền giả, giống như
một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về
hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ.
Và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không
lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi
bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một
thời gian, càng ô nhiễm hơn, càng bụi bặm
hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người
không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri:
"Nội thân ta không có cấu uế". Với người
này có thể chờ đợi sau: "Người này sẽ
tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm tịnh
tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người
này. Người này sẽ từ trần trong khi c̣n có tham,
c̣n có sân, c̣n có si, trong khi c̣n cấu uế, trong khi tâm c̣n ô
nhiễm".
Ở đây, này Hiền giả, hạng người
không có cấu uế và như thật tuệ tri: "Nội
thân ta không có cấu uế". Với người này có thể
chờ đợi như sau: "Người này sẽ
không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm
tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm của
người này. Người này sẽ từ trần, trong
khi không có tham, không có sân, không có si, trong khi không c̣n cấu uế,
trong khi tâm không c̣n ô nhiễm". Này Hiền giả, giống
như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ
về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch
sẽ và người chủ cái bát ấy dùng đến,
lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi
bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một
thời gian, càng được thanh tịnh hơn, càng
được sạch sẽ hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người
không có cấu uế, và như thật tuệ tri: "Nội
thân ta không có cấu uế". Với người này có thể
chờ đợi như sau: "Người này sẽ
không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm
tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm người
này. Người này sẽ từ trần, không có tham, không có
sân, không có si, không c̣n cấu uế, tâm không c̣n ô nhiễm".
Này Hiền giả Moggallana, do nhân này, do duyên này,
trong hai người có cấu uế này, một người
được gọi là hạ liệt, một người
được gọi là ưu thắng. Này Hiền giả
Moggallana, do nhân này, do duyên này, trong hai người này không có
cấu uế, một người được gọi
là hạ liệt, một người được gọi
là ưu thắng.
Này Hiền giả, cấu uế gọi là cấu
uế, danh từ ǵ là đồng nghĩ ái gọi là cấu
uế? - Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh
giới của dục là đồng nghĩ ái gọi là cấu
uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Nếu t ó phạm giới tội, mong rằng
các Tỷ-kheo chớ có biết về ta rằng là đă phạm
giới tội". Này Hiền giả, sự t́nh này có thể
xảy ra: các Tỷ-kheo có thể biết được
các Tỷ-kheo ấy đă phạm giới tội. Tỷ-kheo
này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo đă biết
được ta đă phạm giới tội". Do
đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất măn. Phẫn
nộ và bất măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Nếu t ó phạm giới tội, mong rằng
các Tỷ-kheo hăy quở trách ta ở chỗ kín đáo, không
phải ở giữa Tăng chúng". Này Hiền giả,
sự t́nh này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo quở trách
Tỷ-kheo ấy ở giữa Tăng chúng, không phải ở
chỗ kín đáo. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo
quở trách ta ở giữa Tăng chúng, không phải ở
chỗ kín đáo". Do đó vị này trở thành phẫn
nộ và bất măn. Này Hiền giả, phẫn nộ, và bất
măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Nếu t ó phạm giới tội, mong rằng
một Tỷ-kheo đồng đẳng hăy quở trách ta,
chớ không phải một vị không đồng đẳng".
Này Hiền giả, sự t́nh này có thể xảy ra: một
Tỷ-kheo không đồng đẳng quở trách Tỷ-kheo
ấy, không phải một Tỷ-kheo đồng đẳng.
Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo không
đồng đẳng quở trách ta, không phải một
Tỷ-kheo đồng đẳng". Do đó vị này trở
thành phẫn nộ và bất măn. Này Hiền giả, phẫn
nộ và bất măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng bậc Đạo Sư hăy hỏi
ta nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo!
Mong rằng bậc Đạo Sư không hỏi Tỷ-kheo
khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo!".
Này Hiền giả, sự t́nh này có thể xảy ra: bậc
Đạo Sư hỏi một Tỷ-kheo khác nhiều lần
trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo, bậc Đạo
Sư không hỏi Tỷ-kheo ấy nhiều lần trong khi
giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này nghĩ rằng:
"Bậc Đạo Sư hỏi một Tỷ-kheo khác
nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo. Bậc
Đạo Sư không hỏi ta nhiều lần trong khi giảng
pháp cho chúng Tỷ-kheo". Do đó, vị này trở thành phẫn
nộ và bất măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất
măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng các Tỷ-kheo hăy để ta
đi trước trong khi vào làng để dùng cơm! Mong rằng
các Tỷ-kheo không để một Tỷ-kheo khác đi
trước trong khi vào làng để dùng cơm!" Này Hiền
giả, sự t́nh này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo
để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi
vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để Tỷ-kheo
ấy đi trước trong khi vào làng để dùng
cơm. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo
để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi
vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để ta
đi trước trong khi vào làng để dùng cơm".
Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất măn.
Này Hiền giả, phẫn nộ và bất măn, cả hai
thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo khởi lên ư muốn như sau:
"Mong rằng tại chỗ ăn, ta được chỗ
ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất,
đồ ăn khất thực tốt nhất! Mong rằng
Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn không được chỗ
ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất,
đồ ăn khất thực tốt nhất!" Này Hiền
giả, sự t́nh này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo
khác tại chỗ ăn được chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, đồ
ăn khất thực tốt nhất; c̣n Tỷ-kheo ấy
tại chỗ ăn không được chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, đồ
ăn khất thực tốt nhất. Tỷ-kheo này nghĩ
rằng: "Một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn
được chỗ ngồi tốt nhất, nước
uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt
nhất. Tại chỗ ăn, ta không được chỗ
ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất,
đồ ăn khất thực tốt nhất". Do
đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất măn. Này
Hiền giả, phẫn nộ và bất măn, cả hai thuộc
về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng tại chỗ ăn sau khi ăn
xong, ta sẽ thuyết tùy hỷ pháp, không phải Tỷ-kheo
khác tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, sẽ thuyết
pháp tùy hỷ pháp!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể
xảy ra: một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi
ăn xong, thuyết tùy hỷ pháp; Tỷ-kheo ấy tại
chỗ ăn, sau khi ăn xong, không thuyết tùy hỷ pháp.
Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác tại
chỗ ăn, sau khi ăn xong, thuyết tùy hỷ pháp. Ta tại
chỗ ăn, sau khi ăn xong, không thuyết tùy hỷ
pháp". Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất
măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất măn, cả
hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo
tụ tập tại ngôi tịnh xá, chớ không phải một
Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại
ngôi tịnh xá!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể
xảy ra: một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo
tụ tập tại ngôi tịnh xá; c̣n Tỷ-kheo ấy
không thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi
tịnh xá Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo
khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi
tịnh xá, c̣n ta không thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập
tại ngôi tịnh xá". Do đó vị này trở thành phẫn
nộ và bất măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất
măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni
tụ tập tại ngôi tịnh xá,... (như trên)... ta sẽ
thuyết pháp cho các Nam cư sĩ... ta sẽ thuyết pháp
cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi tịnh
xá, chớ không phải một Tỷ-kheo khác thuyết pháp
cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi tịnh
xá!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể xảy ra:
một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ
tụ tập tại ngôi tịnh xá; c̣n Tỷ-kheo ấy
không thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại
ngôi tịnh xá. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo
khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại
ngôi tịnh xá; c̣n ta không thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ
tụ tập tại ngôi tịnh xá". Do đó, vị này
trở thành phẫn nộ và bất măn. Này Hiền giả,
phẫn nộ và bất măn, cả hai thuộc về cấu
uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng,
lễ bái, cúng dường ta; các vị Tỷ-kheo chớ có
cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường một Tỷ-kheo
khác!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể xảy
ra: các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng lễ bái, cũng
dường một Tỷ-kheo khác, các Tỷ-kheo không cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy.
Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo cung kính, tôn
trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác
chớ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường
ta". Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất
măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất măn, cả
hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo khởi lên ư muốn như sau:
"Mong rằng các Tỷ-kheo-ni... (như trên)... các Nam
cư sĩ... (như trên)... các Nữ cư sĩ cung kính,
tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta. Các Nữ cư sĩ
không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một
Tỷ-kheo khác!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể
xảy ra: các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ
bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác, các Nữ cư sĩ
không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo
ấy. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Nữ cư sĩ
cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo
khác; các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ
bái, cúng dường ta". Do đó vị này trở thành phẫn
nộ và bất măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất
măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng ta nhận được các y phục
tối thắng, Tỷ-kheo khác không nhận được
các y phục tối thắng!" Này Hiền giả, sự
t́nh này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác nhận
được các y phục tối thắng, Tỷ-kheo ấy
không nhận được các y phục tối thắng. Tỷ-kheo
này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác nhận
được các y phục tối thắng; ta không nhận
được các y phục tối thắng". Do đó vị
này trở thành phẫn nộ và bất măn. Này Hiền giả,
phẫn nộ và bất măn, cả hai thuộc về cấu
uế.
Này Hiền giả sự t́nh này xảy ra, ở
đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ư muốn
như sau: "Mong rằng ta nhận được các
đồ ăn khất thực tối thắng... (như
trên)... các sàng tọa tối thắng, các dược phẩm
trị bịnh tối thắng. Tỷ-kheo khác không nhận
được các dược phẩm trị bịnh tối
thắng!" Này Hiền giả, sự t́nh này có thể xảy
ra: một Tỷ-kheo khác nhận được các dược
phẩm trị bịnh tối thắng, c̣n Tỷ-kheo ấy
không nhận được các dược phẩm trị
bịnh tối thắng". Tỷ-kheo này nghĩ rằng:
"Một Tỷ-kheo khác nhận được các dược
phẩm trị bịnh tối thắng; c̣n ta không nhận
được các dược phẩm trị bịnh tối
thắng". Do đó vị này trở thành phẫn nộ
và bất măn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất
măn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh
giới của dục này là đồng nghĩ ái gọi là
cấu uế.
Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo
nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục
này c̣n được thấy và nghe là chưa được
diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống
trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, sống hạnh
khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà
một, theo hạnh mang phấn tảo y, mặc y phục
thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy.
V́ sao vậy? V́ các bậc Tôn giả này c̣n được
thấy và c̣n được nghe các ác, bất thiện pháp,
cảnh giới dục của Tỷ-kheo chưa được
diệt trừ. Này Hiền giả, ví như một bát bằng
đồng, mang từ chợ về hay từ nhà người
thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh, sạch sẽ.
Nhưng người chủ của bát ấy đựng
đầy bát với xác rắn, xác chó hay xác người,
đậy lại với một cái bát đồng khác rồi
mang về hàng chợ lại. Có người thấy vậy
bèn hỏi: "Bạn mang cái ǵ có vẻ đẹp đẽ
ngon lành vậy?" Khi cầm cái bát lên, mở ra và nh́n vào,
th́ với người ấy, không ưa thích khởi lên, sự
ghê tởm khởi lên, và sự yếm ố khởi lên. Những
người đói c̣n chưa muốn ăn các thứ ấy,
huống nữa là những người đă no. Này Hiền
giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện
pháp, cảnh giới của dục này c̣n được thấy
và được nghe là chưa được diệt trừ,
nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại
các trú xứ xa vắng, sống hạnh khất thực, thứ
lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang
phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các
đồng phạm hạnh không cung kính, tôn trọng, lễ
bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. V́ sao vậy? V́ các bậc
Tôn giả này c̣n được thấy và c̣n được
nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục
này là chưa được diệt trừ.
Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo
nào mà các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục
này được thấy và được nghe là đă diệt
trừ, nếu Tỷ-kheo ấy sống gần làng mạc,
chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y người
gi hủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị Tỷ-kheo
ấy. V́ sao vậy? V́ các bậc Tôn giả này được
thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh
giới của dục của vị Tỷ-kheo ấy
đă được diệt trừ. Này Hiền giả, ví
như một bát đồng, mang từ hàng chợ về
hay từ nhà người thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh,
sạch sẽ. Người chủ cái bát ấy dựng
đầy với gạo ngon, cơm lành, các hột đen
đă lấy ra, các loại đồ ăn, đậy lại
với một bát đồng khác rồi mang về hàng chợ
lại. Các người thấy vậy bèn hỏi: "Bạn
mang cái ǵ có vẻ đẹp đẽ ngon lành vậy?"
Khi cầm cái bát lên, mở ra và nh́n vào, th́ đối với
người ấy, ưa thích khởi lên, sự không ghê tởm
khởi lên, sự không yếm ố khởi lên. Người
no c̣n muốn ăn các thứ ấy huống nữa là
người đói. Này Hiền giả, cũng vậy,
đối với vị Tỷ-kheo nào, mà các ác, bất thiện
pháp, cảnh giới của dục này được thấy
và được nghe là đă diệt trừ, nếu Tỷ-kheo
ấy sống ở biên giới gần làng mạc, chấp
nhận biệt thỉnh thực, mang y người gi hủ
cúng, thời các đồng phạm hạnh cung kính, tôn trọng
lễ bái cúng dường Tỷ-kheo ấy. V́ sao vậy? V́
các bậc Tôn giả này được thấy và được
nghe các ác, bất thiện pháp cảnh giới của dục
này đă được diệt trừ.
Được nghe nói vậy, Tôn giả
Mahamoggallana thưa với Tôn giả Sariputta:
– Hiền giả Sariputta, một ví dụ khởi
lên cho tôi!
– Hiền giả Moggallana, hăy nói lên ví dụ ấy.
– Hiền giả, một thời tôi ở thành
Vương Xá, tại Giribbaja. Này Hiền giả, rồi
tôi đắp y vào buổi sáng, mang theo y bát, vào thành
Vương Xá để khất thực. Lúc bấy giờ,
Samiti, con một người làm xe, đang đẽo một
vành xe, và tà mạng ngoại đạo Panduputta, trước
là con của một người làm xe, đang đứng một
bên. Rồi tà mạng ngoại đạo Panduputta trước
là con một người làm xe, khởi lên ư nghĩ như
sau: "Mong rằng Samiti, con người thợ xe, hăy
đẽo đường cong này, đường méo này và
các mắt gỗ này, để vành xe này không có cong, không có
đường méo, không có mắt gỗ, được
trơn tru và được đặt vào trong trục
chính". Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo
Panduputta, trước là con một người làm xe suy nghĩ
như thế nào, thời đúng như vậy, Samiti, con
người làm xe, đẽo đường cong này,
đường méo này và các mắt gỗ này của vành xe ấy.
Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo Panduputta
trước là con người làm xe, hoan hỷ nói lên lời
hoan hỷ như sau: "H́nh như người này đang
đẽo (vành xe ấy) như là với tâm của anh ta,
anh ta biết tâm ta vậy". Này Hiền giả, những
ai không có ḷng tin, v́ mục đích sinh sống, không phải
v́ ḷng tin mà xuất gia, sống đời sống vô gia
đ́nh, những vị gian ngụy, xảo trá, khi cuống,
trạo cử, kiêu mạn, dao động, lắm lời,
tạp thoại, không hộ tŕ các căn, không tiết độ
trong ăn uống, không chú tâm cảnh giác, không tha thiết
với hạnh Sa-môn, không nhiệt thành tôn trọng Phật
pháp, ưa sống sung túc, biếng nhác, dẫn đầu về
đọa lạc, chối bỏ trọng trách sống viễn
ly, giải đăi không tinh tấn, lăng quên không chú niệm,
không định tâm, tâm tán loạn, liệt tuệ, đần
độn. Tôn giả Sariputta với pháp môn này, như là với
tâm của Tôn giả, Tôn giả biết tâm của những
hạng người ấy. Những kẻ Thiện nam tử,
do ḷng tin, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không
gia đ́nh; những vị nào không gian ngụy, không xảo
trá, không khi cuống, không trạo cử, không kiêu mạn,
không dao động, không lắm lời, không tạp thoại,
hộ tŕ các căn, tiết độ trong ăn uống,
chú tâm cảnh giác, tha thiết với hạnh Sa-môn, nhiệt
thành tôn trọng Phật pháp, không sống trong sung túc, không
biếng nhác, bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc,
dẫn đầu về viễn ly, tinh cần, tinh tấn,
nỗ lực, chú tâm cảnh giác, định tâm, nhất
tâm, có trí tuệ, không đần độn. Những vị
này sau khi nghe pháp môn này của Tôn giả Sariputta, h́nh như
đang uống, h́nh như đang nếm với lời nói
và tâm ư. Thật lành thay, một vị Tôn giả đồng
phạm hạnh đă khiến cho vượt khỏi bất
thiện và an trú vào chánh thiện! Này Hiền giả, ví
như một người đàn bà hay người đàn
ông, c̣n đang tuổi trẻ, tánh ưa trang sức, sau khi
gội đầu xong, sau khi được một ṿng hoa
sen xanh hay một ṿng vũ sanh hoa, hay một ṿng thiện
tư hoa, dùng hai tay cầm lấy ṿng hoa ấy và đặt
trên đỉnh đầu. Này Hiền giả, cũng vậy
những Thiện nam tử v́ ḷng tin đă xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh sống không gia đ́nh, không gian ngụy...
(như trên)... Thật lành thay một Tôn giả đồng
phạm hạnh đă khiến cho vượt khỏi bất
thiện và an trú vào chánh thiện!
Như vậy hai vị cao đức ấy cùng
nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.