Kinh Trung bộ
HT. Thích
Minh Châu dịch
Phần III
11. TIỂU KINH
SƯ TỬ HỐNG
(Culasihanadasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông
Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Ở
đây, Thế
Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch
Thế Tôn,
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
– Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn
thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở
đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ
tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo,
các Ông hăy chân chánh rống tiếng rống sư tử
như vậy. Này các Tỷ-kheo, sự t́nh này xảy ra khi ở
đây những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
"Chư Tôn giả có tin tưởng ǵ, có sức lực
ǵ mà chư Tôn giả tuyên bố: "Chỉ ở đây
là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai;
ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ
tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn". Này các Tỷ-kheo,
nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói
như vậy, cần phải trả lời họ như
sau: "Chư Hiền, v́ chúng tôi tự chánh kiến bốn
pháp, được Thế Tôn tuyên bo ho chúng tôi biết, bậc
đă thấy, đă biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác nên chúng tôi nói: "Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ
nhất, ở đây là có Sa-môn thứ hai; Sa-môn thứ ba;
Sa-môn thứ tư". Thế nào là bốn? Chư Hiền,
chúng tôi có ḷng tin bậc Đạo Sư, có ḷng tin Pháp, có sự
thành tựu viên măn các Giới luật, và những pháp hữu
củ húng tôi, những người cư sĩ và những
người xuất gia, được chúng tôi
thương, chúng tôi mến. Chư Hiền, v́ chúng tôi tự
chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn
tuyên bo ho chúng tôi biết, bậc
đă thấy, đă biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác nên chúng tôi nói: "Chỉ ở đây là Sa-môn... Sa-môn thứ
tư". Này các Tỷ-kheo, sự t́nh này xảy ra, khi ở
đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
"Chư Hiền, chúng tôi cũng có ḷng tin bậc Đạo
Sư, vị ấy là Đạo Sư củ húng tôi. Chúng
tôi có ḷng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp củ húng tôi, chúng tôi thành
tựu viên măn các Giới luật, những Giới luật
ấy là Giới luật củ húng tôi. Và những pháp hữu
củ húng tôi, những người cư sĩ và cả những
người xuất gia, được chúng tôi
thương, được chúng tôi mến. Chư Hiền,
như vậy có sự sai biệt ǵ, có sự đặc
thù ǵ, có sự khác biệt ǵ giữa quư vị và chúng
tôi?". Chư Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ
ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả
lời họ như sau: "Chư Hiền, cứu cánh là một
hay cứu cánh là đa diện?" Nếu trả lời
đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải
trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu
cánh không phải đa diện" - "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người có tham, hay cho người không
tham?" Nếu trả lời đứng đắn, các
Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:-
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không
tham, không phải cho người có tham" - "Chư Hiền,
cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người
không sân?" Nếu trả lời đứng đắn,
các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không
sân, không phải cho người có sân" - "Chư Hiền,
cứu cánh ấy cho người có si hay cho người
không si? Nếu trả lời đứng đắn... phải
trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người không si, không phải cho người có si" -
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái,
hay cho người không ái?" Nếu trả lời đứng
đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người không ái, không phải cho người
có ái" - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người
có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?"
Nếu trả lời đứng đắn... phải trả
lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người
không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ".
- "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có
trí, hay cho người không có trí?" Nếu trả lời
đứng đắn... phải trả lời: "Cứu
cánh ấy cho người có trí, không phải cho người
không có trí". - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người
không thuận ứng, không nghịch ứng?" Nếu trả
lời đứng đắn... phải trả lời:
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không
thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho
người thuận ứng, nghịch ứng". -
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa
hư luận, thích hư luận hay cho người không ưa hư luận,
không thích hư luận?" Nếu trả lời đứng
đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải
trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người không ưa hư luận, không thích hư luận, không
phải cho người ưa hư luận, thích hư luận".
Chư Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến này: hữu
kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân
thiết hữu kiến, co hấp hữu kiến; những
vị ấy bị chướng ngại đối với
phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết
phi hữu kiến, co hấp phi hữu kiến; những vị
ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.
Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật
tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt
của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly củ húng, những vị này là những
vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ, không có trí,
có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hư luận,
có thích hư luận; những vị ấy không giải thoát khỏi
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo. Ta nói những
vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật
tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt
của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm,
và sự xuất ly củ húng; những vị này là những
vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ,
có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không
ưa hư luận, thích hư luận; những vị ấy giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo.
Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế
nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm
thủ, ngă luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những
Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất
cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu
tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về
ngă luận thủ. V́ sao vậy? Những Hiền giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri ba sự.
Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự
xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân
chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ,
nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến
thủ, về giới cấm thủ, về ngă luận thủ.
Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự
xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân
chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ,
sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển
thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự
liễu tri về ngă luận thủ. V́ sao vậy? Những
Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ
tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất
cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ;
nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới
cấm thủ, sự liễu tri về ngă luận thủ.
Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng
liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh
hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ
hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự
liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về
giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự
liễu tri về ngă luận thủ. V́ sao vậy? Những
Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ
tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất
cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự
liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển
thị sự liễu tri về ngă luận thủ. Chư Tỷ-kheo,
trong pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối
với Đạo Sư, tịnh tín ấy được
xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với
Pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu
có thành tựu viên măn các Giới luật, sự thành tựu
ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự
thương mến đối với những pháp hữu,
sự thương mến ấy được xem là không
hoàn toàn. V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự t́nh là như
vậy, trong một pháp luật không khéo thuyết giảng,
không khéo hiển thị, không có hướng thượng,
không dẫn đến tịch tịnh, không được
bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Và Như Tỷ-kheo, bậc Như Lai,
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tự xưng liễu tri tất
cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất
cả thủ. Như
Lai hiển thị sự
liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về
kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ,
sự liễu tri về ngă luận thủ. Chư Tỷ-kheo,
trong một pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín
đối với bậc Đạo Sư, tịnh tín ấy
được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối
với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn;
nếu có thành tựu viên măn các Giới luật, sự thành
tựu ấy được xem là hoàn toàn; nếu có sự
thương mến đối với các pháp hữu, sự
thương mến ấy được xem là hoàn toàn. V́
sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự t́nh là như vậy,
trong một pháp luật khéo thuyết giảng, khéo hiển
thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch
tịnh, được bậc Chánh Đẳng Giác hiển
thị.
Chư Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ
này, lấy ǵ làm duyên, lấy ǵ làm tập khởi, lấy
ǵ làm chủng, lấy ǵ làm nhân? Bốn loại chấp thủ
này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái
làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này lấy
ǵ làm duyên, lấy ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm chủng,
lấy ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo, ái này lấy thọ làm
duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng,
lấy thọ làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy
ǵ làm duyên, lấy ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm chủng,
lấy ǵ làm nhân ? Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm
duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy
xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy ǵ làm duyên... lấy
ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm
duyên... lấy sáu nhập làm nhân. Chư Tỷ-kheo, sáu nhập
này lấy ǵ làm duyên... lấy ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo,
sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên... lấy danh sắc
làm nhân. Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy ǵ làm duyên...
lấy ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức
làm duyên... lấy thức làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thức
này lấy ǵ làm duyên... lấy ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức
này lấy hành làm duyên... lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo,
hành này lấy ǵ làm duyên... lấy ǵ làm nhân? Chư Tỷ-kheo,
hành này lấy vô minh làm duyên... lấy vô minh làm nhân. Và Chư
Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đă đoạn trừ vô
minh, đă làm minh sanh khởi, vị ấy do vô minh
được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên
không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến
thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp
thủ ngă luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên
không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự
thân chứng được Niết-bàn; vị ấy tuệ
tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc
nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy
hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
12. ĐẠI KINH SƯ
TỬ HỐNG
(Mahasihanadasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly),
ở phía ngoài thành, trong một khu rừng phía Tây. Lúc bấy
giờ, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi, vừa mới
từ bỏ Pháp luật này, nói lời nói như sau trong Hội
chúng ở Vesali: "Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân,
không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh;
Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự ḿnh tạo ra, do
suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, và thuyết
cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng
hướng thượng, có thể dẫn người thực
hành diệt tận khổ đau". Lúc ấy Tôn giả
Sariputta vào buổi sáng, đắp y, cầm bát, vào thành
Vesali để khất thực. Tôn giả Sariputta nghe
Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi nói như sau trong Hội
chúng ở Vesali: "Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân,
không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh;
Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự ḿnh tạo ra, do
suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm và thuyết
pháp cho một mục tiêu đặc biệt, có khả
năng hướng thượng, có thể dẫn người
thực hành diệt tận khổ đau".
Rồi Tôn giả Sariputta khất thực xong, sau
khi ăn và đi khất thực trở về đến
chỗ ở Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Sunakkhatta thuộc bộ lạc
Licchavi, vừa mới từ bỏ Pháp luật này, nói lời
nói như sau trong Hội chúng Vesali: ""Sa-môn Gotama không
có pháp thượng nhân... (như trên)... diệt tận khổ
đau".
– Này
Sariputta, Sunakkhatta phẫn
nộ và ngu si, do phẫn nộ nên nói lên lời ấy. Này Sariputta,
Ông ta nghĩ: "Ta sẽ nói xấu". Thế mà kẻ
ngu Sunakkhatta-lại nói lời tán thán Như Lai.
Này Sariputta, ai nói như sau là tán thán
Như Lai: "Pháp ấy được thuyết giảng
cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng
hướng dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau".
Này Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ
không có tùy pháp về Ta như sau: "Đây là Như Lai,
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Này
Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không có
tùy pháp này về Ta như sau: "Đây là Thế Tôn, vị
đă chứng được các loại thần thông, một
thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một
thân, hiện h́nh, biến h́nh, đi ngang qua vách, qua thành, qua
núi, như đi ngang hư không, độn thổ trồi
lên ngang qua đất liền như ở trong nước,
đi trên nước không ch́m như trên đất liền,
ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với
bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời,
những vật có đại oai lực, đại oai thần
như vậy, có thể tự thân bay đến cơi Phạm
Thiên". Này Sariputta,
đối với Sunakkhatta ngu si kia sẽ không có tùy pháp này
về Ta như sau: "Đây là Thế Tôn
với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại
tiếng chư Thiên và loài Người, xa và gần". Này Sariputta, đối
với Sunakkhatta ngu si kia sữ không có tùy pháp nào về Ta
như sau: "Đây là Thế
Tôn, sau khi đi sâu vào tâm
chúng sanh, tâm loài Người với tâm của ḿnh, vị ấy
biết được như sau: "Tâm có tham biết là
tâm có tham. Hay tâm không tham biết là tâm không tham... tâm chuyên
chú... tâm tán loạn... đại hành tâm... không phải đại
hành tâm... tâm chưa vô thượng... tâm vô thượng... Tâm Thiền
định... Tâm không Thiền định... tâm giải
thoát... tâm không giải thoát biết là tâm không giải
thoát". Vị ấy biết như vậy.
Này Sariputta, Như Lai có đầy
đủ mười Như
Lai lực, chính nhờ thành tựu
mười lực này, Như
Lai tự nhận cho ḿnh
địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống
con sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân.
Thế nào là mười? Ở đây, này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri xứ là xứ, phi xứ là phi xứ
(Tri thị xứ phi xứ lực). Này
Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri xứ là xứ, phi xứ là phi xứ.
Như vậy là Như Lai lực của Như Lai.
Chính nhờ Như Lai lực này Như Lai tự nhận cho
ḿnh địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng
rống con sư tử trong các Hôị chúng, và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri quả báo tùy thuộc sơ do, tùy
theo sở nhân củ ác hành
nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại (Tri tam thế
nghiệp báo lực.) Này Sariputta, Như
Lai như thật tuệ
tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa,
này Sariputta, Như
Lai như thật tuệ
tri con đường đưa đến tất cả cảnh
giới (Tri nhứt thiết đạo trí lực). Này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri thế giới với mọi cảnh
giới, nhiều chủng loại, nhiều sai biệt (Tri
thế gian chủng chủng tánh lực). Này
Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri chí hướng sai biệt củ
ác loại hữu t́nh (Tri th húng sanh chưởng chưởng
dục lực). Này Sariputta, Như
Lai như thật tuệ
tri ... chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri những căn thượng hạ
củ ác loài hữu t́nh, loài Người (Tri th húng sanh
chư căn thượng hạ lực). Này
Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ
tri sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất
khởi củ ác Thiền, chứng về Thiền, về
giải thoát, về định (Tri chư Thiền tam muội
lực). Này Sariputta,
Như Lai như thật tuệ tri...
(như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này
Sariputta, Như Lai nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, mười đời,
hai mươi đời, ba mươi đời, bốn
mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều thành hoại kiếp. Ngài nhớ rằng: "Tại
chỗ kia, T ó tên như thế này, ḍng họ như thế
này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được
sanh r hỗ nọ. Tại chỗ ấy, T ó tên như thế
này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ
đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây".
Như vậy, Như
Lai nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này
Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai
với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
và chết củ húng sanh. Như Lai
tuệ tri rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ
cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh đều do
hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những
ác hạnh về thân, về lời và về ư, phỉ báng
các bậc Thánh, theo tà kiến,
tạo các nghiệp theo tà kiến.
Những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cơi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Các chúng sanh này làm những
thiện hạnh về thân, về lời và về ư, không
phỉ báng các bậc Thánh, theo
chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên
các thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy,
Như Lai với thiên nhăn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống chết củ húng sanh. Như Lai
tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ
cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ. Này
Sariputta, Như Lai
như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm
luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai nhờ đoạn
trừ các lậu hoặc tự ḿnh chứng tri, chứng
ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này
Sariputta, Như Lai
nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự ḿnh với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai
tự nhận cho ḿnh địa vị Ngưu Vương,
rống tiếng rống con sư tử trong các Hội
chúng và chuyển Phạm luân.
Này Sariputta, Như Lai có đầy
đủ mười Như
Lai lực. Chính nhờ
thành tựu mười lực này, Như Lai tự nhận
cho ḿnh địa vị Ngưu Vương, rống tiếng
rống sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm
luân. Này Sariputta, nếu ai biết Ta
như vậy, thấy Ta như vậy mà c̣n nói: "Sa-môn
Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng
xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy
tự ḿnh tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc
nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu đặc biệt,
có khả năng hướng thượng, có thể hướng
dẫn người thực hành diệt tận khổ
đau". Này
Sariputta, nếu người
ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ
tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người
ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một
gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sariputta,
như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu
Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng
được chánh trí ngay trong hiện tại. Này Sariputta,
Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu
người ấy không từ bỏ lời nói ấy không
từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy;
người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục
như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có bốn
pháp vô sở úy chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai
tự nhận cho ḿnh địa vị Ngưu Vương,
rống tiếng rống con sử tử trong các Hội
chúng và chuyển Phạm luân. Thế nào là bốn? Này Sariputta,
Ta thấy không có lư do ǵ, một Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên,
Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có
thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: "Các pháp này
chưa được chứng ngộ hoàn toàn, mà quư vị
tự xưng đă chứng ngộ hoàn toàn". Này Sariputta,
v́ Ta thấy không có lư do ǵ như vậy, nên Ta sống đạt
được an ổn, đạt được không sợ
hăi, đạt được vô úy. Này Sariputta,
Ta thấy không có lư do ǵ... có thể chỉ trích Ta đúng
pháp rằng: "Các lậu hoặc này chưa được
đoạn trừ mà quư vị tự xưng đă đoạn
trừ". Này
Sariputta, v́ Ta không thấy...
đạt được vô úy. Này Sariputta,
Ta thấy không có lư do ǵ... có thể chỉ trích Ta đúng
pháp rằng: "Những pháp này được gọi là
các chướng ngại pháp khi được thực hành
thời không có ǵ gọi là chướng ngại pháp cả".
Này Sariputta, v́ Ta không thấy...
đạt được vô úy. Này Sariputta, Ta thấy không
có lư do ǵ một Sa-môn Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm
thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta
đúng pháp rằng: "Pháp do quư vị thuyết giảng
không đưa đến mục tiêu đặc biệt,
không có khả năng hướng thượng, không có thể
dẫn người thực hành đến diệt tận
khổ đau". Này
Sariputta, v́ Ta thấy không
có lư do ǵ như vậy, nên Ta sống đạt được
an ổn, đạt được không sợ hăi, đạt
được vô úy.
Này Sariputta, có bốn
pháp vô sở úy, chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai
tự nhận cho ḿnh địa vị Ngưu
Vương... chuyển Phạm luân. Này Sariputta,
nếu ai biết Ta như vậy... người ấy sẽ
bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng
bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có tám Hội chúng này: Hội chúng Sát
đế lỵ, Hội chúng Bà-la-môn, Hội chúng Gi hủ,
Hội chúng Sa-môn, Hội chúng Tứ thiên vương, Hội
chúng Tam thập tam thiên, Hội chúng Màra, Hội chúng Phạm
thiên. Này Sariputta, có tám Hội chúng này. Này Sariputta, Như Lai
thành tựu bốn pháp vô sở úy như vậy, đến
gần và vào tám Hội chúng này. Này Sariputta,
Ta nhớ lại Ta đă đến hàng trăm Hội chúng
Sát-đế-lỵ. Tuy vậy, trước khi Ta ngồi
xuống tại chỗ ấy, trước khi Ta nói chuyện
và trước khi Ta đàm luận; này Sariputta, ta thấy
không có lư do ǵ để nghĩ rằng: "Chắc chắn
sự sợ hăi và run sợ sẽ đến ám ảnh
Ta". Này
Sariputta, v́ Ta thấy không
có lư do ǵ như vậy, nên Ta sống đạt được
an ổn, đạt được không sợ hăi, đạt
được vô úy. Này
Sariputta, Ta nhớ lại,
Ta đă đến hàng trăm Hội chúng Bà-la-môn... (như
trên)... Hội chúng Gi hủ... Hội chúng Sa-môn... Hội
chúng Tứ thiên vương... Hội chúng Tam thập tam
thiên... Hội chúng Màra... Hội chúng Phạm thiên. Tuy vậy,
trước khi Ta ngồi xuống tại chỗ ấy,
trước khi Ta nói chuyện và trước khi Ta đàm luận,
này Sariputta, Ta thấy không có một lư do ǵ để nghĩ
rằng: "Chắc chắn sự sợ hăi và run sợ sẽ
đến ám ảnh Ta". Này Sariputta,
v́ Ta thấy không có lư do ǵ như vậy, nên Ta sống đạt
được an ổn, đạt được không sợ
hăi, đạt được vô úy. Này Sariputta,
nếu ai biết Ta như vậy... người ấy sẽ
bị rơi vào địa ngục, như một gánh nặng
bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có bốn loại sanh. Thế nào là
bốn? Noăn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Này Sariputta,
thế nào là noăn sanh? Này
Sariputta, những loại
chúng sanh nào phá vỏ trứng, mà sanh, này Sariputta như vậy
gọi là noăn sanh. Và này Sariputta, thế nào là thai sanh? Này Sariputta,
những loại chúng sanh nào phá màn da mỏng che chỗ kín
mà sanh, này Sariputta, như vậy gọi là thai sanh. Và này
Sariputta, thế nào là thấp sanh? Này Sariputta,
những loại chúng sanh nào sanh ra từ cá thúi, từ xác chết
thúi, từ cháo cơm thúi, hay trong hồ nước dơ
hay trong ao nước nhớp. Này Sariputta,
như vậy gọi là thấp sanh. Và này Sariputta, thế
nào là hóa sanh? Chư Thiên, các chúng sanh ở địa ngục,
một số thuộc loài người và một số thuộc
đọa xứ. Này
Sariputta, như vậy gọi
là hóa sanh.
Này Sariputt ó bốn loại sanh như vậy.
Này Sariputta, nếu ai biết Ta
như vậy... người ấy sẽ bị rơi vào
địa ngục, như một gánh nặng bị
quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có năm loại sanh thú này. Thế
nào là năm? Địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ,
loài Người, chư Thiên. Này Sariputta,
Ta tuệ tri địa ngục, con đường
đưa đến địa ngục và hành lộ
đưa đến địa ngục. Tùy theo
hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục, sự việc này t ũng
tuệ tri. Và này Sariputta, Ta tuệ tri bàng sanh, con đường
đưa đến bàng sanh. Tùy theo
hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào bàng sanh, sự việc
này T ũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta tuệ tri ngạ quỷ,
con đường đưa đến ngạ quỷ, và
hành lộ đưa đến ngạ quỷ. Tùy theo
hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung,
phải sanh vào ngạ quỷ, sự việc này T ũng tuệ
tri. Và này Sariputta, T ũng tuệ tri loài Người, con
đường đưa đến thế giới loài
Người và hành lộ đưa đến thế giới
loài Người. Tùy
theo hành nghiệp, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh
vào loài Người, sự việc này T ũng tuệ tri. Và
này Sariputta, T ũng tuệ tri chư Thiên, con đường
đưa đến Thiên giới và hành lộ đưa
đến Thiên giới. Tùy theo
hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào thiện thú, Thiên giới, thế giới này, sự
việc này T ũng tuệ tri. Và này Sariputta, T ũng tuệ
tri Niết-bàn, con đường đưa đến Niết-bàn
và hành lộ đưa đến Niết-bàn. Tùy theo hành
nghiệp, do đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự
ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt
và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, sự việc này, T ũng tuệ tri.
Này Sariputta, ở đây, với tâm của Ta,
Ta tuệ tri tâm của một số người. Do hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy, bước vào đạo lộ như vậy,
sau khi thân hoại mạng chung
sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục như vậy. Sau một thời gian, với thiên
nhăn thanh tịnh, siêu nhân, Ta thấy người ấy, sau
khi thân hoại mạng chung
sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục,
phải cảm thọ những cảm giác cực khổ,
thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng như
có một hố than sâu hơn thân người, đầy
vun than hừng, không có lửa ngọn, không có khói, và một
người đi đến, bị nóng bức áp đảo,
bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi khô cổ, đắng
họng, khát nước, và đi thẳng đến hố
than ấy chỉ bằng một con đường. Một
người có mắt thấy người ấy, có thể
nói: "Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ
như vậy, sẽ đi đến hố than kia".
Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy
người kia rơi vào hố than ấy và phải cảm
thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ,
khốc liệt. Này
Sariputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số
người: "Hành nghiệp của người này
như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào
đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục như vậy". Sau một thời
gian, với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy người
ấy sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục,
phải cảm thọ những cảm giác cực khổ,
thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta,
Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy, bước vào đạo lộ như vậy,
sau khi thân hoại mạng chung,
sẽ sanh vào bàng sanh". Sau một thời gian, với
thiên nhăn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi
thân hoại mạng chung, sanh
vào bàng sanh, phải cảm thọ những cảm giác cực
khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng
như có một hố phân, sâu hơn thân người, đầy
những phẩn uế, và một người đi đến,
bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ,
mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước
và đi thẳng đến hố phân ấy chỉ bằng
một con đường. Một người có mắt thấy
người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy
và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đi đến hố phân ấy". Sau một thời
gian, người ấy sẽ thấy người kia
rơi vào hố phân ấy và phải cảm thọ những
cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta... (như trên)... thống khổ,
khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta,
Ta tuệ tri tâm của một số người "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy... sau khi thân hoại mạng chung
sẽ sanh vào ngạ quỷ, phải cảm thọ những
cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt".
Này Sariputta, cũng như có một
cây sống trên miếng đất không bằng phẳng, với
lá thưa thớt, với bóng che từng đám lưa
thưa. Và một người đi đến bị nóng bức
áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng
đến cây ấy chỉ bằng một con đường.
Một người có mắt thấy người ấy có
thể nói: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo
lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy".
Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy
người kia ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy
và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ,
thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta,
cũng vậy ở đây với tâm của Ta... (như
trên)... thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta,
Ta biết tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy... sau khi thân hoại mạng chung,
sẽ sanh vào loài người". Sau một thời gian...
Ta thấy người ấy sanh vào loài người, và cảm
thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sariputta,
cũng như có một cây sống trên miếng đất
bằng phẳng với lá sum sê, với bóng cây rậm rạp.
Và một người đi đến, bị nóng bức
áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng
đến cây ấy chỉ bằng một con đường.
Một người có mắt thấy người ấy có
thể nói: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ của người này như vậy
và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đi đến cây ấy". Sau một thời gian,
người ấy sẽ thấy người kia, ngồi
hay nằm dưới bóng cây ấy và cảm thọ
được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sariputta,
cũng vậy, ở đây, với tâm của Ta...
được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta,
Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy... sau khi thân hoại mạng chung
sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cơi đời
này". Sau một thời gian... Ta thấy người ấy
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cơi đời này và cảm
thọ những cảm giác cực lạc. Này Sariputta,
giống như một ngôi lầu, có gác nhọn, có tô vôi cả
trong lẫn ngoài, được che gió, có then chốt
đóng lại và có các cửa sổ khép kín. Tại đây
có một sàng tọa, trải nệm lông dài, trải nệm
màu trắng, trải nệm bông có thêu hoa, trải nệm bằng
da sơn dương gọi là kadali, có nệm với khuôn
màu treo phía trên, có gối dài màu đỏ cả hai đầu.
Và một người đi đến, bị nóng bức
áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng
đến ngôi lầu ấy. Một người có mắt
thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp
của người này như vậy, cử chỉ như
vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đi đến ngôi lầu ấy". Sau một thời
gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi
hay nằm trong ngôi lầu ấy, trong gác nhọn ấy,
trên sàng tọa ấy và cảm thọ được nhiều
cảm thọ cực lạc. Này Sariputta,
cũng vậy, ở đây với tâm của Ta...
được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ
tri tâm của một số người: "Hành nghiệp
của người này như vậy, cử chỉ như
vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đoạn trừ các lậu hoặc, tự ḿnh với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát
như vậy". Sau một thời gian, Ta thấy vị
ấy đoạn trừ các lậu hoặc, tự ḿnh với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sariputta,
giống như một hồ sen có nước trong, có
nước ngọt, có nước mát, có nước trong
sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp đẽ,
và không xa hồ ấy có khu rừng rậm rạp. Một
người đi đến, bị nóng bức áp đảo,
bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ,
đắng họng, khát nước và đi thẳng đến
hồ sen ấy. Một người có mắt thấy
người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy,
và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đi đến hồ sen ấy". Sau một thời
gian, người ấy sẽ thấy người kia, sau
khi tẩm ḿnh vào hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống
nước và làm cho dịu bớt mọi ưu tư, mệt
mỏi, phiền năo, sau khi ra khỏi hồ liền qua ngồi
hay nằm trong rừng cây rậm rạp ấy và cảm thọ
những cảm giác cực lạc. Cũng vậy, này
Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của
một số người: "Hành nghiệp của người
này như vậy, cử chỉ như vậy, bước
vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ
các lậu hoặc, tự ḿnh với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy".
Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn
trừ các lậu hoặc, tự ḿnh với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ
những cảm giác cực lạc.
Này Sariputta, năm loại này là năm sanh thú. Này Sariputta,
có ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy, và
nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến
thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết
pháp, pháp ấy tự ḿnh tạo ra, do suy luận tác thành,
tùy thuộc trắc nghiệm". Này Sariputta, nếu
người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không
từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy,
th́ người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục
như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sariputta,
Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu thiền
định, thành tựu trí tuệ, có thể chứng
được chánh trí ngay trong hiện tại. Này Sariputta,
Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu
người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không
từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy,
th́ người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục
như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, Ta thắng tri phạm hạnh, đầy
đủ bốn hạnh: về khổ hạnh, Ta khổ
hạnh đệ nhất; về bần uế, Ta bần
uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly
đệ nhất; về độc cư, Ta độc
cư đệ nhất.
Này Sariputta, ở đây, khổ hạnh của Ta
như sau: Ta sống lơa thể, phóng túng, không theo khuôn phép,
liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu
bước tới, không nhận đồ ăn mang đến,
không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho
ḿnh, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ
ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ
ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ
ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận
đồ ăn đặt giữa những cối giă gạo,
không nhận đồ ăn từ hai người đang
ăn, không nhận đồ ăn từ người
đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người
đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ
ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ
có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ
có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống
rượu nấu, rượu men. T hỉ nhận đồ
ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng,
hay chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận
ăn hai miếng, hay chỉ nhận ăn tại bảy
nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng. Ta nuôi sống chỉ
với một chén, nuôi sống chỉ với hai chén, nuôi sống
chỉ với bảy chén. T hỉ ăn một ngày một
bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa.
Như vậy Ta sống theo
hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa
tháng mới ăn một lần. T hỉ ăn cỏ lúa
để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột
cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, uống nước
bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn
phân ḅ, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái
cây rụng để sống. Ta mặc vải gai thô, mặc
vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm
liệm rồi quăng đi, mặc áo phấn tảo y, mặc
vỏ cây tititaka làm áo, mặc d on sơn dương đen,
mặc áo bện từng mảnh d on sơn dương
đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ
cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng
tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa
bện lại, mặc áo bằng lông cú. Ta sống nhổ
râu tóc, Ta theo tập tục sống nhổ râu tóc, Ta theo hạnh
thường đứng không dùng chỗ ngồi, Ta là
người ngồi chỏ hỏ, sống tinh tấn theo
hạnh ngồi chỏ hỏ. Ta dùng gai làm giường,
thường ngủ nằm trên giường gai, sống
dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất
trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống
để bụi và nhớp che dính thân ḿnh, sống và ngủ
ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống
ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh,
theo hạnh không uống nước lạnh, sống một
đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm.
Như vậy Ta sống theo
hạnh hành hạ, dày ṿ thân thể theo
nhiều cách. Này
Sariputta, như vậy là
khổ hạnh của Ta.
Này Sariputta, ở đây hạnh bần ue ủa
Ta như sau: Trên thân Ta, bụi bặm chất đầy trải
nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng.
Như gốc cây tinduka bụi bặm chất đầy trải
nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng; cũng
vậy, này Sariputta, trên thân Ta bụi bặm chất đầy
trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng.
Này Sariputta, Ta không nghĩ rằng:
"Với tay của Ta, Ta hăy phủi sạch bụi bặm
này đi, hay những người khác với tay của họ
hăy phủi sạch bụi bặm này đi cho Ta". Này Sariputta,
Ta không có nghĩ như vậy. Này Sariputta,
như vậy là sự bần ue ủa Ta.
Này Sariputta, như thế này là sự yểm
ly của Ta. Này
Sariputta, tỉnh giác, Ta
đi tới; tỉnh giác Ta đi lui, Ta an trú ḷng từ cho
đến trong một giọt nước với tâm
tư: "Mong rằng Ta không làm hại một chúng sanh nhỏ
nào trong những ác đạo của họ!" Này Sariputta,
như vậy là sự yểm ly của Ta.
Này Sariputta, như thế này là sự độc
cư của Ta. Này
Sariputta, Ta đi sâu vào một
khu rừng và an trú tại chỗ ấy. Khi Ta thấy
người chăn ḅ, người mục súc, người
cắt cỏ, người đốn củi hay người
thợ rừng, Ta liền chạy từ rừng này qua rừng
khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua
thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao
khác. V́ sao vậy? Ta nghĩ rằng: "Mong họ đừng
thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!" Này Sariputta,
giống như một con thú rừng thấy người
liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm
cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng
khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Cũng vậy,
này Sariputta, khi Ta thấy người chăn ḅ, người
mục súc, người cắt cỏ, người đốn
củi, hay người tiều phu, Ta liền chạy từ
rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ
thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này
qua đồi cao khác. V́ sao vậy? Ta nghĩ rằng:
"Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng
thấy họ!" Này
Sariputta, như vậy là hạnh
độc cư của Ta.
Này Sariputta, rồi Ta ḅ bốn chân đến
các chuồng ḅ, khi các con ḅ cái đă bỏ đi, khi các
người chăn ḅ không có mặt, rồi Ta ăn phân các
con ḅ con, các con ḅ c̣n trẻ, các con ḅ c̣n bú. Khi nước tiểu
và phân của T ̣n tồn tại, Ta tự nuôi sống với
các loại ấy. Này
Sariputta, như vậy là hạnh
đại bất tịnh thực của Ta.
Này Sariputta, Ta đi sâu vào một khu rừng rậm
rạp kinh hoàng và an trú tại chỗ ấy. Này Sariputta,
tại khu rừng rậm rạp kinh hoàng này, những ai c̣n
tham ái đi vào khu rừng rậm rạp ấy, thời
lông tóc người ấy dựng ngược. Này Sariputta,
rồi Ta trong những đêm đông lạnh lẽo, giữa
những ngày mồng tám, khi có tuyết rơi, trong những
đêm như vậy, Ta sống giữa trời, và ban ngày sống
trong khu rừng rậm rạp. Ta sống trong những ngày
cuối tháng hè, ban ngày th́ sống giữa trời, c̣n ban
đêm trong khu rừng rậm rạp. Rồi này Sariputta, những
bài kệ kỳ diệu từ trước chưa từng
được nghesau đây được khởi lên:
Nay bị thiêu
đốt, bị buốt lạnh,
Cô độc sống
trong rừng kinh hoàng,
Trần truồng,
Ta ngồi không lửa ấm,
Ẩn sĩ, trong
lư tưởng đăm chiêu.
Này Sariputta, Ta nằm ngủ trong băi tha ma, dựa
trên một bộ xương. Này Sariputta, những đứa
mục đồng đến gần Ta, khạc nhổ
trên Ta, tiểu tiện trên Ta, rắc bụi trên Ta và lấy
que đâm vào lỗ tai. Này
Sariputta, và Ta biết Ta
không khởi ác tâm đối với chúng. Này Sariputta,
như vậy là hạnh trú xả của Ta.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn,
Bà-la-môn có những thuyết như sau, có những kiến
giải như sau: "Sự thanh tịnh đạt
được nhờ món ăn". Họ nói: "Chúng ta
sống nhờ trái táo", và họ ăn trái táo, họ
ăn bột táo, họ uống nước trái táo dưới
nhiều h́nh thức. Này
Sariputta, Ta tự xưng
Ta sống chỉ ăn một trái táo. Này Sariputta,
có thể các Người nghĩ như sau: "Trái táo thời
ấy to lớn". Này
Sariputta, chớ có hiểu
như vậy. V́ trái táo thời ấy giống với trái
táo hiện tại. Này
Sariputta, trong khi Ta sống
chỉ ăn một trái táo, thân thể của Ta trở
thành hết sức ốm yếu.
V́ Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành
như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. V́ Ta
ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc
đà. V́ Ta ăn quá ít, các xương sống
phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. V́ Ta
ăn quá ít, các xương sườn gầy ṃn của Ta
giống như rui cột nhà sàn hư nát. V́ ta ăn quá ít,
nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ
con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu
thẳm trong một giếng nước thâm sâu. V́ Ta
ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn
như trái bí trắng và đắng bị cắt trước
khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Sariputta,
nếu Ta nghĩ: "Ta hăy sờ da bụng" chính
xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta
nghĩ: "Ta hăy sờ xương sống", th́ chính da
bụng bị Ta nắm lấy. V́ Ta
ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của Ta bám chặt
xương sống. Này
Sariputta, nếu Ta nghĩ:
"Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện",
th́ Ta ngă quỵ úp mặt xuống đất, v́ Ta ăn quá
ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy
tay xoa bóp chân tay, th́ này Sariputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp
chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, v́ Ta
ăn quá ít.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn,
Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến
giải như sau: "Sự thanh tịnh đạt
được nhờ món ăn". Họ nói: "Chúng ta
sống nhờ đậu xanh... (như trên)... chúng ta sống
nhờ vừng mè... (như trên)... chúng ta sống nhờ hột
gạo", và họ ăn hột gạo, họ ăn hột
gạo nghiền thành bột, họ uống nước gạo,
và họ ăn hột gạo dưới nhiều h́nh thức.
Này Sariputta, Ta tự xưng Ta sống
chỉ ăn một hột gạo. Này Sariputta,
có thể các Người nghĩ như sau: "Hột gạo
thời ấy to lớn". Này Sariputta,
chớ có hiểu như vậy. V́ hột gạo thời ấy
giống với hột gạo hiện tại. Này Sariputta,
trong khi T hỉ sống ăn một hột gạo, thân thể
của Ta trở thành hết sức ốm yếu. V́ Ta
ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ
hay những đốt cây leo
khô héo. V́ Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta
trở thành như móng chân con lạc đà. V́ Ta
ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống
như một chuỗi banh. V́ Ta
ăn quá ít các xương sườn gầy ṃn của Ta
giống như rui cột của một nhà sàn hư nát. V́ Ta
ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm
trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long
lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm
sâu. V́ Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở
thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí trắng và đắng
bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm
cho nhăn nheo, khô cằn. Này Sariputta,
nếu Ta nghĩ: "Ta hăy sờ da bụng", th́ chính
xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta
nghĩ: "Ta hăy rờ xương sống", th́ chính da
bụng bị Ta nắm lấy. V́ Ta
ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của Ta bám chặt
xương sống. Này
Sariputta, nếu Ta nghĩ:
"Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện",
th́ Ta ngă quỵ, úp mặt xuống đất, v́ Ta ăn
quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy
tay xoa bóp chân tay, thời này Sariputta, trong khi Ta lấy tay xoa
bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, v́
Ta ăn quá ít. Này
Sariputta, dầu T ó theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, T ũng
không chứng được các pháp thượng nhân, không
có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. V́ sao
vậy? V́ với những phương tiện ấy, không
chứng được pháp thượng nhân với Thánh
trí tuệ. Chính
Thánh trí tuệ này chứng
được thuộc về bậc Thánh, có khả
năng hướng thượng, có thể dẫn người
thực hành diệt tận khổ đau.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn,
Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến
giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ luân hồi". Này Sariputta,
thật không dễ ǵ t́m được sự luân hồi
mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá
dài, trừ phi với các vị Tịnh cư thiên
(Suddhavasa). Này
Sariputta, nếu Ta luân hồi
tại Tịnh cư thiên th́ Ta đă không trở lại
đời này nữa. Này
Sariputta, lại có một
số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau,
có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh
chứng đạt được nhờ sanh khởi".
Này Sariputta, thật không dễ ǵ
t́m được sự sanh khởi mà xưa kia Ta không trải
qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị
Tịnh cư thiên. Này
Sariputta, nếu Ta sanh khởi
tại Tịnh cư thiên, th́ Ta đă không trở lại
đời này nữa. Này
Sariputta, lại có một
số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau,
có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh
chứng đạt được nhờ an trú". Này Sariputta,
thật không dễ ǵ t́m được sự an trú mà
xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài,
trừ phi với các vị Tịnh cư thiên. Này Sariputta,
nếu Ta an trú tại Tịnh cư thiên, th́ Ta đă không trở
lại đời này nữa. Này Sariputta,
lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết
như sau, có những kiến giải như sau: "Sự
thanh tịnh chứng đạt được nhờ tế
tự". Này
Sariputta, thật không dễ
ǵ t́m được sự tế tự mà xưa kia Ta không
làm trong một thời gian khá dài khi ta-là vị vua Sát-đế-lỵ
có làm lễ quán đảnh hay làm vị Bà-la-môn giàu có. Này Sariputta,
lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết
như sau, có những kiến giải như sau: "Sự
thanh tịnh chứng đạt được nhờ thờ
lửa". Này
Sariputta, thật không dễ
ǵ t́m được sự thờ lửa mà xưa kia Ta
không làm trong một thời gian khá dài, khi Ta là vị vua
Sát-đế-lỵ có làm lễ quán đảnh, hay làm vị
Bà-la-môn giàu có.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn
có những chủ thuyết như sau, có những kiến
giải như sau: "Khi một thiếu niên c̣n trẻ tuổi,
tóc đen nhánh, huyết khí sung măn, trong tuổi thanh xuân,
người ấy thành tựu trí tuệ biện tài tối
thượng. Nhưng khi người ấy già cả, niên
cao, lạp lớn, đă đến tuổi trưởng
thượng, đă đi đến đoạn cuối cuộc
đời, khi đă tám mươi, chín mươi hay một
trăm tuổi, khi ấy trí tuệ biện tài tối
thượng ấy bị đoạn trừ". Này Sariputta,
chớ có quan niệm như vậy. Này Sariputta, nay Ta đă
già, niên cao, lạp lớn, đă đến tuổi trưởng
thượng, đă đi dến đoạn cuối cuộc
đời, tuổi Ta nay đă đến tám mươi.
Này Sariputta, ở đây T ó bốn vị đệ tử,
tuổi thọ đến một trăm, đă sống một
trăm tuổi, thành tựu chánh niệm đệ nhất,
thành tựu chuyên tâm đệ nhất, thành tựu tinh cần
đệ nhất và đầy đủ trí tuệ biện
tài tối thượng. Này Sariputta, ví như một người
bắn cung thiện xảo, có huấn luyện, khéo tay, thuần
thục, với một mũi tên nhẹ, có thể dễ
dàng bắn ngang qua bóng một cây ta-la. Cũng vậy, những
vị này với chánh niệm đệ nhất như vậy,
được thành tựu trí tuệ biện tài tối
thượng như vậy, nếu những vị này hỏi
Ta nhiều lần một câu hỏi về Bốn Niệm
xứ, và nếu Ta, được hỏi nhiều lần
như vậy, phải giải thích cho họ hiểu và nếu
họ được Ta giải thích như vậy, có thể
hiểu như đă giải thích, và nếu họ không hỏi
Ta về những vấn đề phụ thuộc và các vấn
đề khác, trừ khi ăn, uống, nhai, nếm, trừ
khi đi đại tiện, tiểu tiện, trừ khi ngủ
để lấy lại sức. Này Sariputta, dầu vậy,
sự thuyết pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất,
sự giải thích cú pháp của Như Lai cũng chưa
hoàn tất, sự trả lời các câu hỏi của
Như Lai cũng chưa hoàn tất, khi mà bốn đệ
tử của Ta, tuổi thọ đến một trăm
tuổi, đă sống một trăm tuổi, đă từ
trần sau một trăm tuổi. Này
Sariputta, nếu Ông có gánh Ta trên giường
đi chỗ này chỗ kia, thật sự trí tuệ biện
tài của Như
Lai không có ǵ thay đổi.
Này Sariputta, những ai nói một cách chân chánh sẽ nói
như sau: "Một vị hữu t́nh không bị si chi phối,
đă sanh ra ở đời v́ lợi ích, v́ hạnh phúc cho
chúng sanh, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi
ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người".
Vị ấy sẽ nói về Ta một cách chân chánh như
sau: "Một vị hữu t́nh không bị chi phối...
(như trên)... chư Thiên và loài Người".
Lúc bấy giờ Tôn giả Nagasamala đứng
sau lưng Thế Tôn và quạt cho Ngài! Tôn giả Nagasamala bạch
Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Sau khi nghe pháp môn này, lông tóc con dựng ngược. Bạch
Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là ǵ?
– Này
Nagasamala, do vậy pháp môn
này gọi là pháp môn lông tóc dựng ngược. Ông hăy
như vậy thọ tŕ.
Thế Tôn thuyết giảng
như vậy, Tôn giả Nagasamala hoan hỷ, tín thọ lời
dạy Thế
Tôn.
13. ĐẠI KINH KHỔ UẨN
(Mahadukkhakkhandhasutta) [^]
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế
Tôn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ-đà
Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp Cô
Độc). Lúc ấy nhiều Tỷ-kheo buổi sáng đắp
y, cầm y bát, vào thành Savatthi khất thực. Rồi các Tỷ-kheo
ấy suy nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để đi khất
thực ở Savatthi. Chúng ta hăy đi đến ngôi vườn
các Du sĩ ngoại đạo". Các Tỷ-kheo
ấy đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại
đạo, nói lên những lời chúc tụng hỏi
thăm xă giao rồi ngồi xuống một bên. Các Du sĩ
ngoại đạo ấy nói với các Tỷ-kheo đang
ngồi xuống một bên.
– Chư Hiền, Sa-môn Gotama
nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng
tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục.
Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn
toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu
biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn
Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm
thọ, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn
về các cảm thọ. Chư Hiền, ở đây có sự
đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào
giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết
pháp hay vấn đề giáo huấn?
Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ cũng không chỉ
trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo,
không hoan hỷ, không chỉ trích, các Tỷ-kheo từ chỗ
ngồi đứng dậy, từ biệt với ư nghĩ:
"Chúng ta sẽ học ư nghĩa lời nói này từ Thế
Tôn".
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi khất thực
ở Savatthi, khi ăn xong và đi khất thực trở về,
liền đến chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ
Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch
Thế Tôn,
ở đây chúng con buổi sáng đắp y, cầm y bát
vào thành Savatthi khất thực. Bạch Thế Tôn, rồi
chúng con suy nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để đi khất
thực ở Savatthi. Chúng ta hăy nghĩ đến ngôi vườn
các Du sĩ ngoại đạo". Bạch Thế Tôn, rồi
chúng con đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại
đạo, sau khi đến xong, nói lên những lời chúc
tụng hỏi thăm xă giao rồi ngồi xuống một
bên, Bạch Thế Tôn, các Du sĩ ngoại đạo ấy
nói với chúng con đang ngồi một bên: "Chư Hiền,
Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục,
chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về
các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết
hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu
biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn
Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm
thọ, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn
về các cảm thọ. Chư Hiền ở đây có sự
đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào
giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết
pháp hay vấn đề giảng huấn?" Bạch Thế
Tôn, chúng con không hoan hỷ, không chỉ trích những lời
nói các Du sĩ ngoại đạo. Không hoan hỷ, không chỉ
trích, chúng con từ chỗ ngồi đứng dậy, từ
biệt với ư nghĩ: "Chúng ta sẽ học ư nghĩa
lời nói này từ Thế
Tôn".
– Này các Tỷ-kheo, các Du sĩ ngoại đạo
nói như vậy cần được trả lời
như sau: "Chư Hiền, thế nào là vị ngọt
các dục? Thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự
xuất ly? Thế nào là vị ngọt các sắc pháp, thế
nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế
nào là vị ngọt các cảm thọ, thế nào là sự
nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly?" Này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi vậy, các Du sĩ ngoại đạo
không thể trả lời được và sẽ bị mắc
vào các khó khăn khác. V́ sao vậy? Này các Tỷ-kheo, v́ vấn
đề này không thuộc khả năng hiểu biết của
họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai trong thế
giới này với chư Thiên, Mara, Phạm thiên, với
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, mà
câu trả lời các câu hỏi được chấp nhận,
trừ Như Lai, đệ tử Như Lai và những ai
được nghe hai vị này.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
dục? Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng
dục này: Các sắc pháp do nhăn căn nhận thức, khả
ái, khả lạc, khả ư, khả hỷ, tương ứng
với dục, hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn
nhận thức... các hương do tỷ căn nhận thức...
các vị do thiệt căn nhận thức... các xúc do thân
căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ư,
khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.
Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục
như vậy. Này các Tỷ-kheo, y cứ vào năm pháp
tăng trưởng dục này, có lạc hỷ khởi
lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các dục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử
nuôi sống với nghề nghiệp, như đếm ngón
tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng,
như buôn bán, như chăn ḅ, như bắn cung, như làm
công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy
phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ
nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của
ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài ḅ
sát, bị chết đói chết khát. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực
hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm
nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục,
là nguyên nhân của dục. Này các Tỷ-kheo, nếu thiện
nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần
như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản
ấy không được đến tay ḿnh, vị ấy
than văn, buồn phiền khóc than, đấm ngực, mê man bất
tỉnh: "Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự
là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết
quả". Này các Tỷ-kheo, như vậy, là sự nguy hiểm
các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Này các
Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực
như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như
vậy, và các tài sản ấy được đến
tay ḿnh, v́ phải hộ tŕ các tài sản ấy, vị ấy
cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: "Làm sao
các vu húa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm
cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa
khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay
các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp
đoạt chúng?" Dầu vị ấy hộ tŕ như
vậy, giữ ǵn như vậy, vu húa vẫn cướp
đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn
cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy,
nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự
không xứng đáng vẫn cướp đoạt chúng. Vị
ấy than văn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực,
mê man bất tỉnh: "Cái đă thuộc của ta, nay ta
không có nữa". Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự
nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục
làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh
đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt
với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với
Bà-la-môn, gi hủ tranh đoạt với gi hủ, mẹ
tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ,
cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với
cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với
chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh
đoạt với bạn bè. Khi họ đă dấn ḿnh vào
tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá
nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công
phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở
đây họ đi đến tử vong, đi đến
sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như
trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và
thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt,
và tên được nhắm bắn nhau, đao được
quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn
đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng
đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở
đây họ đi đến tử vong, đi đến
sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như
trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và
thuẩn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới
trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau,
đao được quăng ném nhau, kiếm được
vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng
tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ
nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ
chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ
đi đến tử vong, đi đến sự đau
khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân
của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục
làm nhân... do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà
cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ
hành động như kẻ cướp, họ phục
kích các đường lớn, họ đi đến vợ
người. Các vu húa khi bắt được một
người như vậy liền áp dụng nhiều h́nh
phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng
gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ
chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ
cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng
h́nh phạt vạc dầu, họ dùng h́nh phạt bối
đồi h́nh (xẻo đỉnh đầu thành h́nh con
ṣ), họ dùng h́nh phạt la hầu khẩu h́nh... Hỏa
man h́nh (lấy lửa đốt thành ṿng hoa)... chúc thủ
h́nh (đốt tay)... khu hành h́nh (lấy rơm bện lại
rồi siết chặt)... b́ y h́nh (lấy vỏ cây làm
áo)... linh dương h́nh (h́nh phạt con dê núi)... câu nhục
h́nh (lấy câu móc vào thịt)... tiền h́nh (cắt thịt
thành h́nh đồng tiền)... khối trấp h́nh... chuyển
h́nh... cao đạp đài... họ tưới bằng dầu
sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những
người sống, họ lấy gươm chặt
đầu. Ở đây họ đi đến tử vong,
đi đến sự đau khổ gần như tử
vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm của
dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ
sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về
lời nói, làm các ác hạnh về ư. Do họ sống làm các
ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm
các ác hạnh về ư, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là sự nguy hiểm các dục, đưa đến
đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục
làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục
làm nhân.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các
dục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục
dục tham đối với các dục, sự đoạn
trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các dục.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không
như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị
ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm
như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy,
những vị này nhất định sẽ không như thật
tuệ tri các dục của họ, họ cũng không có thể
đặt người khác trong một địa vị
tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục,
sự kiện như vậy không thể xảy ra. Này các Tỷ-kheo,
những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt
các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm
là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự
xuất ly như vậy, những vị này nhất định
sẽ như thật tuệ tri các dục của họ, họ
cũng có thể đặt người khác trong một
địa vị tương tự, nghĩa là như thật
tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy
ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, như các thiếu nữ
Sát-đế-lỵ, thiếu nữ Bà-la-môn hay thiếu nữ
Gi hủ, tuổi khoảng độ mười lăm hay
mười sáu tuổi, không quá lớn, không quá thấp,
không quá ốm, không quá mập, không quá đen, không quá trắng,
này các Tỷ-kheo, có phải trong thời ấy, họ đạt
đến mỹ diệu tối thượng, sắc
đẹp tối thượng?
– Bạch
Thế Tôn,
phải.
– Này các Tỷ-kheo, y cứ sắc đẹp mỹ
diệu ấy khởi lên lạc thọ và hỷ thọ,
như vậy là vị ngọt các sắc pháp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây người t
ó thể thấy bà chị ấy trong một thời khác,
khoảng tám mươi tuổi, chín mươi tuổi hay
một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng
c̣m, phải dựa gậy để chống đỡ, vừa
đi vừa run rẩy, đau ốm, tuổi trẻ
đă tận, râu rụng, tóc bạc, hư rụng, sói
đầu, da nhăn, tay chân bị khô đét tái xám. Này các Tỷ-kheo,
các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ
diệu về sắc đẹp xưa ki ủa người
đó nay đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện
ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa này các Tỷ-kheo, người
t ó thể thấy bà chị ấy bị bệnh hoạn
đau khổ, trầm bệnh, nằm đắm ḿnh trong
phân tiểu của ḿnh, phải có người nâng dậy,
phải có người đỡ nằm. Này các Tỷ-kheo,
các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ
diệu về sắc đẹp xưa ki ủa người
đó nay đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện
ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa
địa, một ngày hay hai ngày hay ba ngày, thi thể ấy
trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra.
Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải
sự mỹ diệu sắc đẹp xưa ki ủ ô gái
đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa
địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều
hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó
ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn
trùng ăn. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế
nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp
xưa ki ủ ô gái nay đă biến mất và sự nguy hiểm
đă hiện ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng trong nghĩa
địa, với các bộ xương c̣n liên kết với
nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường
gân cột lại... với các bộ xương c̣n liên kết
với nhau, không c̣n dính thịt nhưng c̣n dính máu, c̣n
được các đường gân cột bộ
xương, không c̣n thịt, không có máu, c̣n được
gân cột lại, chỉ c̣n có xương không dính lại
với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là
xương tay, ở đây là xương chân, ở đây
là xương ống, ở đây là xương bắp vế,
ở đây là xương mông, ở đây là xương sống,
ở đây là xương đầu. Này các Tỷ-kheo, các
Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu
về sắc đẹp xưa ki ủ ô gái nay đă biến
mất, và sự nguy hiểm đă hiện ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa
địa, chỉ có toàn xương trắng màu vỏ ốc...
chỉ c̣n một đống xương lâu hơn một
năm... chỉ c̣n các xương thối trở thành bột.
Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải
sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa ki ủ
ô gái nay đă biến mất, và sự nguy hiểm hiện
ra?
– Bạch
Thế Tôn,
sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo và thế nào là sự xuất ly
các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều
phục dục tham đối với các sắc pháp, sự
đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất
ly các sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không
như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị
ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm
như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy,
những vị này nhất định sẽ không như thật
tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng không
có thể đặt người khác trong một địa
vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ
tri các sắc pháp, sự kiện như vậy không xảy
ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật
tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt
như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm
như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy,
những vị này nhất định như thật tuệ
tri các sắc pháp của họ, họ cũng có thể
đặt người khác trong một địa vị
tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc
pháp, sự kiện như vậy có xảy ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
cảm thọ? Ở đây các Tỷ-kheo ly các dục, ly
các bất thiện pháp tự chứng và an trú vào Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo
ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền
thứ nhất... có tầm có tứ, trong khi ấy, nếu
vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ
đến hại người, không nghĩ đến hại
cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm
thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại
ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng
và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh
nhất tâm... Thiền thứ ba... chứng và trú vào Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh
tịnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo xả lạc xả
khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh, trong khi ấy nếu vị ấy
không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến
hại người, không nghĩ đến hại cả
hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ
vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy,
Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, các cảm thọ là vô
thường, khổ, biến hoại, như vậy là sự
nguy hiểm các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly
các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, sự điều phục
dục tham đối với các cảm thọ, sự
đoạn trừ dục tham, như vậy gọi là sự
xuất ly các cảm thọ.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không
như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ
là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự
nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất
ly như vậy, những vị này nhất định sẽ
không như thật tuệ tri các cảm thọ của họ,
họ cũng không có thể đặt người khác
trong một địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các
cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm
là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự
xuất ly như vậy, những vị này nhất định
như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ
có thể đặt các người khác trong một địa
vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ
tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy
ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ
lời dạy Thế Tôn.
14. TIỂU KINH
KHỔ UẨN [^]
(Culadukkhakkhandhasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn sống giữa gịng họ
Sakka (Thích-ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) tại
vườn Nigrodha (Ni-câu-luật Viên). Lúc ấy, có người
Sakka tên Mahànàma đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi
đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Mahànàma, ḍng họ
Sakka bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, đă
lâu rồi, con đă hiểu như thế này lời dạy
Thế Tôn: "Tham là cấu ue ủa
tâm, sân là cấu ue ủa tâm, si là cấu ue ủa tâm". Bạch
Thế Tôn, con đă hiểu như thế này lời dạy
Thế Tôn: "Tham là cấu ue ủa
tâm... si là cấu ue ủa tâm". Tuy vậy, đôi lúc các
tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ
tâm con và an trú, các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú. Bạch
Thế Tôn, con tự suy nghĩ: "Pháp nào tự trong ta
không đoạn trừ được, do vậy các tham
pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an
trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú?"
– Này Mahànàma, có một pháp trong Ông chưa được
đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và
an trú... các si pháp xâm nhập tâm Ông và an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy
trong Ông có thể đoạn trừ được, nếu
Ông không sống trong gia đ́nh, nếu Ông không thụ hưởng
các dục vọng. Và này Mahànàma, v́ pháp ấy trong Ông chưa
được đoạn trừ, nên Ông sống trong gia
đ́nh và thụ hưởng các dục vọng.
Các dục vọng, vui ít, khổ nhiều, năo nhiều,
sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Này
Mahànàma, nếu một vị Thánh đệ tử khéo thấy
như vậy với như thật chánh trí tuệ,
nhưng nếu vị này chư hứng được hỷ
lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một
pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy vị ấy
chưa khỏi bị các dục chi phối. Này Mahànàma,
khi nào vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy
với như thật chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít,
khổ nhiều, năo nhiều. Sự nguy hiểm ở
đây lại nhiều hơn", và vị này chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện
pháp sanh hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy
vị ấy không bị các dục chi phối. Này Mahànàma,
thuở xưa, khi T ̣n là Bồ-tát, chư hứng được
Bồ-đề, chưa thành Chánh Đẳng Chánh Giác, Ta
khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: "Các dục
vui ít, khổ nhiều, năo nhiều, sự nguy hiểm ở
đây lại nhiều hơn", dầu T ó thấy với
như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng T
hư hứng được hỷ lạc do ly dục, ly
ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng
hơn. Và như vậy Ta biết rằng, T hưa khỏi
bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy
với như thật chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít,
khổ nhiều, năo nhiều, sự nguy hiểm ở
đây lại nhiều hơn", và T hứng được
hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một
pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi
bị các dục chi phối.
Và này Mahànàma, thế nào là vị ngọt các dục?
Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục này:
Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả
lạc, khả ư, khả hỷ, tương ưng với
dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...;
các hương do mũi nhận thức...; các vị do
lưỡi nhận thức...; các xúc do thân nhận thức,
khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng
với dục, hấp dẫn. Này Mahànàma,
có năm pháp tăng trưởng các dục như vậy. Này Mahànàma,
y cứ vào năm pháp tăng trưởng các dục này, có
lạc và hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt
các dục.
Và này Mahànàma, thế nào là sự nguy hiểm các dục?...
(như trang... cho đến trang..., với "Này Mahànàma"
the ho "Này các Tỷ-kheo."...) Này Mahànàma,
như vậy là sự nguy hiểm các dục đưa
đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn,
do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do
chính dục làm nhân.
Này Mahànàma, một
thời Ta ở tại Rajagaha (Vương Xá), trên núi
Gijjhakuta (Linh
Thứu). Lúc bấy giờ,
rất nhiều Ni kiền Tử (Nigantha) tại sườn
núi Isigili, trên Kalasila (Hắc Nham), đứng thẳng
người, không chịu ngồi và cảm giác những cảm
thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt,
bén nhạy. Này Mahànàma, rồi Ta vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy,
đi đến sườn núi Isigili, tại Kalasil hỗ
các Nigantha ấy ở, khi đến nơi Ta nói với các
Nigantha ấy:
"– Chư Hiền, tại sao các Người lại
đứng thẳng người, không chịu ngồi xuống
và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ
đau, khốc liệt, bén nhạy như vậy?
"– Này Mahànàma, được nói vậy các
Nigantha ấy trả lời Ta như sau:
"– Này Hiền giả, Nigantha Nataputta-là bậc
toàn tri, toàn kiến, tự xưng là có tri kiến toàn diện
như sau: "Dầu t ó đi, có đứng, có ngủ và
có thức, tri kiến luôn luôn được tồn tại
liên tục ở nơi ta". Vị ấy nói như sau:
"Này các Nigantha, nếu xưa kia Người có làm ác nghiệp,
hăy làm cho nghiệp ấy tiêu ṃn bằng khổ hạnh khốc
liệt này. Sự không làm ác nghiệp trong tương lai
chính do sự hộ tŕ về thân, sự hộ tŕ về lời
nói, sự hộ tŕ về ư ngay trong hiện tại, ở
tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự thiêu
đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự
không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục
trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong
tương lai, các nghiệp được diệt trừ;
do nghiệp được diệt trừ, khổ
được diệt trừ; do khổ được diệt
trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm
thọ được diệt trừ, tất cả khổ
đau sẽ được tiêu ṃn". Và v́ chúng tôi chấp
nhận điều ấy, và chúng tôi kham nhẫn điều
ấy, nên chúng tôi được hoan hỷ.
Này Mahànàma, khi được nói vậy Ta nói
với các Nigantha ấy như sau:
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, trong quá khứ, các Người có mặt hay các
Người không có mặt?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, trong quá khứ, các Người không làm ác nghiệp
hay có làm ác nghiệp?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, các Người không làm các nghiệp như thế
này hay như thế kia.
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng: Mức độ đau khổ như thế này
đă trừ diệt, mức độ đau khổ
như thế này cần phải trừ diệt? Hay, khi mức
độ đau khổ như thế này đă được
trừ diệt, thời tất cả đau khổ sẽ
được trừ diệt?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại
các bất thiện pháp và sự thành tựu các thiện
pháp?"
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền, theo các Người nói,
Niganth ác Người không biết: Trong quá khứ các Người
có mặt hay các Người không có mặt; các Người
không biết, trong quá khứ các Người không làm các ác
nghiệp hay có làm các ác nghiệp; các Người không biết
các Người không làm ác nghiệp như thế này hay
như thế kia; các Người không biết, mức độ
đau khổ như thế này đă được trừ
diệt, mức độ đau khổ như thế này cần
phải trừ diệt; mức độ đau khổ
như thế này đă được trừ diệt thời
tất cả đau khổ sẽ được trừ
diệt; các Người không biết, sự đoạn trừ
ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự
thành tựu các thiện pháp. Chư Hiền Nigantha, sự kiện
là như vậy th́ những kẻ săn bắn ở
đời, với bàn tay đẫm máu, làm các nghiệp hung
dữ, được tái sanh trong loài người, những
hạng ấy có xuất gia trong hàng ngũ Niganth ác Người
không?"
"– Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể
thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu
nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh
phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc th́ vua Magadha
Seniya Bimbisara (Tần-bà-ta-la) có thể đạt được
hạnh phúc, và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc
hơn Tôn giả Gotama. Lời nói này thật sự đă
được các Tôn giả Nigantha nói lên một cách hấp
tấp, không có suy tư. Hiền giả Gotama, hạnh phúc
không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc
phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả
Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh
phúc, thời vua Magadha Seniya Bimbisar ó thể đạt
được hạnh phúc; và vua Magadha Seniya Bimbisara sống
hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Và chính ta ở đây cần
phải được hỏi như sau: "Giữ ác bậc
Tôn Giả, ai sống hạnh phúc
hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả Gotama?" Hiền
giả Gotama, lời nói này thật sự đă được
chúng tôi nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư: Hiền
giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ
hạnh phúc... (như trên)... sống hạnh phúc hơn Tôn
giả Gotama. Hăy để yên sự việc như vậy.
Nay chúng tôi hỏi Tôn giả Gotama: "Giữa quư vị Tôn
giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara
hay Tôn giả Gotama?"
"– Chư Hiền Nigantha, nay Ta sẽ hỏi
các Người một câu, cũng vấn đề này. Nếu
các Người vui ḷng, hăy trả lời câu hỏi ấy.
Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Vua
Magadha Seniya Bimbisar ó thể không di động thân thể,
không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy
lạc thọ luôn bảy ngày bảy đêm có được
không?
"– Này Hiền giả, không thể được.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ
thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisar ó thể không di động
thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác
thuần túy lạc thọ luôn sáu ngày sáu đêm, luôn năm
ngày năm đêm, luôn bốn ngày bốn đêm, luôn ba ngày ba
đêm, luôn hai ngày hai đêm, luôn một ngày một đêm
không?
"– Này Hiền giả, không thể được.
"– Chư Hiền Nigantha, T ó thể không di
động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm
giác thuần túy lạc thọ luôn trong một ngày một
đêm. Chư Hiền Nigantha, T ó thể không di động
thân thể , không nói lên một lời, sống cảm giác
thuần túy lạc thọ luôn trong hai ngày hai đêm, luôn
trong ba ngày ba đêm, luôn trong bốn ngày bốn đêm, luôn
trong năm ngày năm đêm, luôn trong sáu ngày sáu đêm, luôn
trong bảy ngày bảy đêm. Chư Hiền Nigantha, các
Người nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy,
ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Ta?
"– Sự kiện là như vậy, Tôn giả
Gotama sống hạnh phúc hơn vua Magadha Seniya Bimbisara."
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Mahànàma thuộc gịng họ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời
dạy của Thế Tôn.