Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
(Anumanasuttam) [^]
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả
Mahamoggallana sống giữa những người thuộc
ḍng họ Bhagga, tại núi Sumsumaragira, rừng Bhesakala,
vườn
"– Chư Hiền Tỷ-kheo -.
"–
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Tôn giả Mahamoggallana. Tôn giả Mahamoggallana nói như sau:
– Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo thỉnh nguyện:
"Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi, mong rằng
tôi được chư Tôn giả nói!" Nhưng nếu
vị ấy là một người khó nói, đầy đủ
những tánh khiến người ấy trở thành khó nói,
khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được
giảng dạy th́ các vị đồng phạm hạnh
nghĩ rằng, Tỷ-kheo ấy không đáng nói đến,
nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy không đáng được
giáo huấn, nghĩ rằng không nên đặt ḷng tin vào
người ấy. Chư Hiền, thế nào là những
tánh khiến người ấy trở thành khó nói? Chư Hiền,
ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục bị ác dục
chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo có ác dục, bị ác
dục chi phối, như vậy là một tánh khiến trở
thành khó nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo khen ḿnh chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo
khen ḿnh chê người, như vậy là một tánh khiến
trở thành khó nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi
phối; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn
nộ chi phối như vậy là một tánh khiến trở
thành khó nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo phẫn nộ, v́ phẫn nộ làm nhân trở
thành người có hiềm hận; chư Hiền, Tỷ-kheo
phẫn nộ, v́ phẫn nộ làm nhân trở thành người
có hiềm hận, như vậy là... khó nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ,
v́ phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp; chư Hiền,
Tỷ-kheo phẫn nộ, v́ phẫn nộ làm nhân trở
thành co hấp như vậy là... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt
ra những lời liên hệ đến phẫn nộ;
chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ... khó nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc
tội trở lại chống đối vị đă buộc
tội ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội trở lại chỉ trích vị
đă buộc tội ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo bị
buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chất
vấn vị đă buộc tội ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với
một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn
đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất
măn của ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội không giải thích thỏa măn hành động
của ḿnh cho vị buộc tội; chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và năo
hại; chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và năo hại...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
tật đố và xan tham; chư Hiền, Tỷ-kheo tật
đố và xan tham... khó nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt;
chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường
gạt... khó nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn; chư Hiền, Tỷ-kheo
ngoan mê và quá mạn... khó nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo chấp trước thế tục, co hấp
tư kiến, tánh khó hành xả; chư Hiền, Tỷ-kheo
chấp trước thế tục, co hấp tư kiến,
tánh khó hành xả, như vậy là một tánh trở thành
khó nói. Chư Hiền, như vậy được gọi
là những tánh khiến trở thành khó nói.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo không thỉnh
nguyện: "Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi,
mong rằng tôi được chư Tôn giả nói!"; Và
nếu vị ấy là một người dễ nói, đầy
đủ những đức tánh khiến người ấy
trở thành dễ nói, kham nhẫn, cung kính đón nhận
khi được nghe giảng dạy, th́ các vị đồng
phạm hạnh nghĩ rằng, Tỷ-kheo ấy đáng
được nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy
đáng được giáo huấn, nghĩ rằng nên đặt
ḷng tin vào người ấy. Chư Hiền, thế nào là
những đức tánh khiến người ấy trở
thành dễ nói? Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo không
có ác dục, không bị ác dục chi phối; chư Hiền,
Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối,
như vậy là một đức tánh khiến trở thành
dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo không khen ḿnh chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo
không khen ḿnh chê người... dễ nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không bị phẫn
nộ chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ,... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ,
không v́ phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm
hận; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở
thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp;
chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành
dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ, không v́ phẫn nộ thốt
ra những lời liên hệ đến phẫn nộ;
chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành
dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội, không trở lại chống
đối vị đă buộc tội ḿnh; chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại
nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị
buộc tội không trở lại chỉ trích vị đă
khiển trách ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc
tội ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội
không trở lại chất vấn vị đă buộc tội
ḿnh; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở
thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị
buộc tội, không tránh né vấn đề với một
vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề,
để lộ phẫn nộ, sân hận và bất măn của
ḿnh, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở
thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội, giải thích thỏa măn
hành động của ḿnh cho vị buộc tội, chư
Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ
nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
không hư ngụy và năo hại, chư Hiền, Tỷ-kheo
không hư ngụy và năo hại... trở thành dễ nói. Lại
nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật
đố và xan tham, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật
đố và xan tham ... trở thành dễ nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống
và lường gạt. Chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống
và lường gạt... trở thành dễ nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và
quá mạn, chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và quá mạn...
trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
không chấp trước thế tục, co hấp tư kiến,
tánh dễ hành xả, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp
trước thế tục, không co hấp tư kiến,
tánh dễ hành xả, như vậy là một đức
tánh trở thành dễ nói. Chư Hiền, như vậy
được gọi là những đức tánh khiến
trở thành dễ nói.
Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải
tư lượng tự ngă với tự ngă như sau:
"Người này có ác dục, bị ác dục chi phối
nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy.
Và nếu t ó ác dục, bị ác dục chi phối,
các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta".
Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy cần phải
phát tâm như sau: "Ta sẽ không có ác dục, sẽ không
bị ác dục chi phối. Người này
khen ḿnh chê người, nên ta không ưa người ấy,
không thích người ấy. Và nếu ta
khen ḿnh chê người, các người khác sẽ không
ưa ta, sẽ không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo
khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: "Ta
sẽ không khen ḿnh chê người. Người này có phẫn
nộ, bị phẫn nộ chi phối, nên ta không ưa
người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không bị
phẫn nộ chi phối"; "Người này phẫn
nộ, v́ vị phẫn nộ làm nhân trở thành người
hiềm hận nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ
không phẫn nộ, không v́ phẫn nộ làm nhân trở
thành người hiềm hận"; "Người này
phẫn nộ, v́ phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp
nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn
nộ, không v́ phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp";
"Người này phẫn nộ, thốt ra những lời
liên hệ đến phẫn nộ nên Ta không ưa người
ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không thốt ra những
lời liên hệ đến phẫn nộ";
"Người này bị buộc tội, trở lại
chống đối vị đă buộc tội ḿnh, nên Ta
không ưa người ấy... T ó bị buộc tội, sẽ
không trở lại chống đối vị buộc tội
ḿnh"; "Người này bị buộc tội, trở
lại chất vấn vị đă buộc tội ḿnh, nên
ta không ưa người ấy... T ó bị buộc tội,
sẽ không trở lại chất vấn vị đă buộc
tội ḿnh"; "Người này bị buộc tội,
tránh né vấn đề với một vấn đề
khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ
phẫn nộ, sân hận, bất măn của ḿnh, nên ta không
ưa người ấy... Ta bị buộc tội sẽ
không tránh né vấn đề với một vấn đề
khác, không trả lời ra ngoài vấn đề, và không
để lộ phẫn nộ, sân hận bất măn của
ḿnh"; "Người này bị buộc tội, không giải
thích thỏa măn hành động của ḿnh cho vị buộc
tội biết nên ta không ưa người ấy... Ta bị
buộc tội, sẽ giải thích thỏa măn hành động
của ḿnh cho vị buộc tội biết";
"Người này hư ngụy và năo hại nên Ta không
ưa người ấy... Ta sẽ không hư ngụy và
năo hại"; "Người này tật đố và xan
tham nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không tật
đố và xan tham"; "Người này khi cuống và
lường gạt nên ta không ưa người ấy... Ta
sẽ không khi cuống và lường gạt";
"Người này ngoan mê và quá mạn nên ta không ưa
người ấy... Ta sẽ không ngoan mê và
quá mạn"; "Người này chấp trước thế
tục, co hấp tư kiến, tánh khó hành xả nên ta không
ưa người ấy, không thích người ấy.
Và nếu t hấp trước thế tục,
co hấp tư kiến, tánh khó hành xả, các người
khác sẽ không ưa ta, không thích ta". Chư Hiền,
Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như
sau: "Ta sẽ không chấp trước thế tục,
không co hấp tư kiến, tánh dễ hành xả".
Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải
quán sát tự ngă với tự ngă như sau: "Không biết
t ó ác dục, có bị ác dục chi phối không?" Chư
Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "T
ó ác dục và bị ác dục chi phối", th́ chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải
tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng:
"Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối",
th́ chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải
sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học
các thiện pháp. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo phải quán sát tự ngă với tự ngă như
sau: "Không biết t ó khen ḿnh chê người hay không? Ta
không khen ḿnh chê người... các thiện pháp. Lại nữa...
không biết t ó phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối
không...? Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ
chi phối... các thiện pháp. Lại nữa... không biết
t ó phẫn nộ, v́ phẫn nộ làm nhân, trở thành có hiềm
hận không...? Ta không có phẫn nộ, không v́ phẫn nộ
làm nhân, trở thành người hiềm hận... các thiện
pháp. Lại nữa... không biết t ó phẫn nộ làm nhân,
trở thành người co hấp...? Ta không có phẫn nộ,
không v́ phẫn nộ làm nhân, trở thành người co hấp...
các thiện pháp. Lại nữa,... không biết
t ó phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ
đến phẫn nộ...? Ta không có phẫn nộ, không
thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ...
các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội,
không biết t ó trở lại chống đối vị
đă buộc tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không
trở lại chống vị đă buộc tội ta... các
thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội,
không biết t ó trở lại chất vấn vị đă
buộc tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở
lại chất vấn vị đă buộc tội ta ... các
thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội,
không biết t ó tránh né vấn đề với một vấn
đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề,
để lộ phẫn nộ, sân hận, bất măn của
ta...? Ta bị buộc tội, ta không tránh né vấn đề
với một vấn đề khác, không trả lời
ngoài vấn đề, và ta không để lộ sự phẫn
nộ, sân hận và bất măn của ta... các thiện pháp.
Và lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết t
ó giải thích thỏa măn hành động của t ho vị
buộc tội biết... Ta bị buộc tội, T ó giải
thích thỏa măn hành động của t ho vị buộc tội
biết... các thiện pháp. Lại nữa, không biết t ó
hư ngụy và năo hại...? Ta không có hư ngụy và năo hại...
các thiện pháp. Lại nữa, không biết t ó tật
đố và xan tham...? Ta không có tật đố và xan
tham... các thiện pháp. Lại nữa, không biết t ó khi cuống
và lường gạt...? Ta không có khi cuống và lường
gạt... các thiện pháp. Lại nữa... không biết t ó
ngoan mê và quá mạn...? Ta không có ngoan mê và quá mạn... các thiện
pháp". Lại nữa, chư Hiền, ở
đây Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngă như sau:
"Không biết t ó chấp trước thế tục, co
hấp tư kiến, tánh khó hành xả không?" Chư Hiền,
nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "T ó chấp
trước thế tục, co hấp tư kiến, tánh khó
hành xả", th́ chư Hiền, Tỷ-kheo
ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những
ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo
quán sát và biết rằng: "Ta không chấp trước
thế tục, không co hấp tư kiến, tánh dễ hành
xả", th́ chư Hiền, Tỷ-kheo
ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày
đêm tu học thiện pháp.
Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo
thấy rơ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp
chưa được đoạn trừ trong nội tâm,
th́ chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần
phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện
pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát
thấy rơ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp
đă được đoạn trừ trong nội tâm, th́
chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải
sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học
thiện pháp. Chư Hiền, ví như một phụ nữ
hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân,
tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của
ḿnh trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt,
hay trong một bát nước trong sáng. Nếu
người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế
trên mặt ḿnh, th́ người ấy tinh tấn đoạn
trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu
người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế
trên mặt ḿnh, th́ người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ
rằng: "Thật sự ta được điều tốt
đẹp; thật sự ta được thanh tịnh".
Cũng vậy chư Hiền, nếu
trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rơ rằng tất cả
các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở
nội tâm, th́ chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải
tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rơ rằng
các ác, bất thiện pháp đă đoạn trừ ở nội
tâm, th́ chư Hiền, Tỷ-kheo ấy
phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu
học thiện pháp.
Tôn giả Mahamoggallana thuyết giảng
như vậy.
16. KINH TÂM HOANG VU [^]
(Cetokhilasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời,
– Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt
trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm
tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh,
trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự
kiện này không xảy ra. Thế nào là năm
tâm hoang vu chưa được đoạn trừ?
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc
Đạo Sư, do dự, không quyết
đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào
nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết
đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng
về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ
lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn, như vậy là
tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào nghi ngờ Pháp... không có tịnh tín... (như
trên)... nghi ngờ Tăng... không có tịnh
tín... nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết
đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào nghi ngờ các học pháp... không có tịnh tín, tâm của
vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần,
kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai
không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ;
tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa
được diệt trừ. Và lại nữa,
chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ
đối với các đồng phạm hạnh, không có
hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với
các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm
tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của
vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần,
kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai không
hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh
tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa
được diệt trừ. Như vậy
là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền
phược chưa được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo,
đối với những dục, không phải không tham ái,
không phải không dục cầu, không phải không ái luyến,
không phải không khao khát, không phải không nhiệt t́nh,
không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải
không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị ấy
không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ,
tinh tấn. Nếu tâm của ai không
hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh
tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất
chưa được đoạn tận. Và lại nữa,
chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối
với tự thân không phải không tham ái... (như
trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai
chưa được đoạn tận. Và lại nữa,
chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối
với các sắc pháp không phải không tham ái ... (như trên)
... như vậy là tâm triền phược thứ b hưa
được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến
thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống
thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc
về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho
đến thỏa thê cho đến bụng chứa đầy...
(như trên)... như vậy là tâm triền
phược thứ tư chưa được đoạn
tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu
được sanh thiên giới với ư nghĩ: "Ta với
giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này
hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm
chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào sống phạm hạnh... (như
trên)... như vậy là tâm triền phược thứ
năm chưa được đoạn tận. Như vậy là năm tâm triền phược
chưa được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ
năm tâm hoang vu này, chưa đoạn tận năm tâm triền
phược này, vị ấy có thể lớn mạnh
trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự
kiện này không xảy ra.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đă diệt trừ
năm tâm hoang vu, đă đoạn tận năm tâm triền
phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng
thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này
có xảy ra. Thế nào là năm tâm hoang vu
đă được diệt trừ? Chư Tỷ-kheo,
ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Đạo
Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Đạo Sư, không
do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này
hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh
tấn. Nếu tâm của ai hướng về
nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn, như vậy
là tâm hoang vu thứ nhất đă được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào không nghi ngờ Pháp... quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... không nghi ngờ Tăng... quyết đoán, tịnh tín... (như
trên) không nghi ngờ học pháp... quyết đoán, tịnh
tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học
pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm
vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần,
kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng
về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn,
như vậy là tâm hoang vu thứ tư đă được
diệt trừ. Và lại nữa, chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với
các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư
không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị
đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống
đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng
về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực,
chuyên cần kiên tŕ, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu
thứ năm đă được diệt trừ. Như vậy là năm tâm hoang vu đă được
diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền
phược đă được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
đối với những dục không có tham ái, không có dục
cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt
t́nh, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối
với những dục không có tham ái, không có dục cầu,
không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt t́nh, không
có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực,
chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn, như vậy là tâm triền
phược thứ nhất đă được đoạn
tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền
phược thứ hai đă được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền
phược thứ ba đă được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào không ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng
chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc
sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghĩ, khoái lạc về
thụy miên... (như trên)... như vậy
là tâm triền phược thứ tư đă được
đoạn tận. Và lại nữa, chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu
được sanh thiên giới với ư nghĩ: "Ta với
giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này,
hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm
chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào sống phạm hạnh, không mong cầu được
sanh thiên giới với ư nghĩ: "Ta với giới này,
với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm
hạnh này, sẽ được sanh làm chư
Thiên này hay chư Thiên khác", tâm vị ấy hướng
về nỗ lực, chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực,
chuyên cần, kiên tŕ, tinh tấn, như vậy là tâm triền
phược thứ năm đă được đoạn
tận. Như vậy là năm tâm triền
phược đă được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đă đoạn tận
năm tâm triền phược này, thời vị ấy có
thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh
trong pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Vị này tu tập như ư túc câu hữu với dục
Thiền định, tinh cần hành, tu tập như ư túc
câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần
hành, tu tập như ư túc câu hữu với tâm Thiền
định tinh cần hành, tu tập như ư túc câu hữu
với tư duy Thiền định, tinh cần hành với
nỗ lực là thứ năm. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả
nỗ lực, thời có đủ khả năng để
phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có
đủ khả năng để đạt thành vô
thượng an ổn, khỏi các ách
phược. Chư Tỷ-kheo, như có khoảng tám, mười
hay mười hai cái trứng củ on gà mái, những trứng
này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp
nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không
khởi lên sự mong ước: "Mong rằng những
con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với
móng chân nhọn củ húng, hay với mỏ củ húng, có thể
thoát ra một cách yên ổn", những con gà con ấy,
sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn
củ húng hay với mỏ củ húng, có khả năng
thoát ra một cách yên ổn. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy,
Tỷ-kheo đầy đủ mười lăm pháp, kể
cả nỗ lực, thời có đủ khả năng
để phá vỡ, có đủ khả năng để
chánh giác, có đủ khả năng để đạt
thành vô thượng an ổn, khỏi các ách phược.
17. KINH KHU RỪNG [^]
(Vanapatthasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời,
– Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống
tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu
rừng này, các niệm chưa được an trú không
được an trú, tâm tư chưa được định
tĩnh không được định tĩnh, các lậu
hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ
không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng
an ổn, khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt không được chứng đạt,
và những vật dụng này cần thiết cho đời
sống mà một người xuất gi ần phải sắm
đủ, như y phục, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng
này kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ: "Ta sống
tại khu rừng này, Khi ta sống tại khu rừng này,
các niệm chưa được an trú không được
an trú, tâm tư chưa được định tĩnh
không được định tĩnh, các lậu hoặc
chưa được hoàn toàn đoạn trừ không
được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng
an ổn, khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt không được chứng đạt,
và những vật dụng cần thiết cho đời sống
mà một vị xuất gi ần phải sắm đủ,
như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, những vật dụng
này kiếm được một cách khó khăn". Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải từ bỏ ngôi rừng
ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay
lúc ban đêm.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú không được
an trú, tâm tư chưa được định tĩnh
không được định tĩnh, các lậu hoặc
chưa được hoàn toàn đoạn trừ không
được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng
an ổn, khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt không được chứng đạt,
và những vật dụng cần thiết cho đời sống
mà một người xuất gi ần phải sắm
đủ, như y phục, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật
dụng này kiếm được một cách không khó
khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng này.
Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa
được an trú không được
an trú... những vật dụng này kiếm được
một cách không khó khăn. Nhưng không phải v́ y phục
mà ta xuất gia, từ bỏ gia đ́nh sống không gia
đ́nh, không phải v́ đồ ăn
khất thực... không phải v́ sàng tọa... không phải
v́ dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nhưng trong khi ta
ở tại khu rừng này, các niệm chưa được
an trú không được an trú... vô thượng an ổn,
khỏi các ách phược không được chứng
đạt". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
chỉ với suy tính này phải từ bỏ ngôi rừng ấy,
không được ở lại.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được
an trú, tâm tư chưa được định tĩnh
được định tĩnh; các lậu hoặc
chưa được hoàn toàn đoạn trừ được
hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi
các ách phược chưa được chứng đạt
được chứng đạt, nhưng những vật
dụng cần thiết cho đời sống một
người xuất gi ần phải sắm đủ,
như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm
được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại
khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm
chưa được an trú được an trú... vô
thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa
được chứng đạt được chứng
đạt... những vật dụng này kiếm được
một cách khó khăn. Nhưng không phải v́ y phục mà ta
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh, không phải v́ món ăn khất
thực... không phải v́ sàng tọa... không phải v́ dược
phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh. Nhưng trong khi ta ở tại
khu rừng này, các niệm chưa được an trú
được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các
ách phược được chứng đạt". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với
suy tính này, phải ở lại khu rừng ấy, không được
bỏ đi.
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo
sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được
an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược
chưa được chứng đạt được
chứng đạt. Và những vật dụng
cần thiết... kiếm được một cách không
khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần
phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng
này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa
được an trú được an trú... vô thượng
an ổn, khỏi các ách phược chư hứng đạt
được chứng đạt, và những vật dụng
này cần thiết... kiếm được một cách
không khó khăn". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy phải ở lại khu rừng cho đến trọn
đời, không được rời bỏ.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
sống tại một làng nào... sống tại một thị
trấn nào... sống tại một đô thị nào... sống
tại một quốc gia nào... sống gần một
người nào.
Tỷ-kheo sống gần người này, các niệm
chưa được an trú không được an trú...
không được chứng đạt, và những vật
dụng này cần thiết... kiếm được một
cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
suy nghĩ như sau: "Ta sống gần người này.
Khi ta sống gần người này, các niệm chưa
được an trú không được an trú... không
được chứng đạt, và những vật dụng
này cần thiết... kiếm được một cách khó
khăn". Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy ngay
trong phần đêm ấy hay ngay trong phần ngày ấy,
không phải xin phép, cần phải bỏ ngay người ấy
mà đi, không cần theo sát người ấy.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các
niệm chưa được an trú không
được an trú... không được chứng đạt.
Nhưng những vật dụng này cần thiết...
kiếm được một cách không khó khăn.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư
như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống
gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không
được chứng đạt. Nhưng
những vật dụng này cần thiết... kiếm được
một cách không khó khăn. Nhưng không phải v́ y phục
mà ta xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh... không phải v́ đồ ăn
khất thực... không phải v́ sàng tọa... không phải
v́ dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Và khi ta sống gần
người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không
được chứng đạt". Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy, chỉ với ước tính này, cần
phải bỏ người ấy mà đi, không có xin phép,
không có
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người
ấy, các niệm chưa được an
trú được an trú... được chứng đạt.
Những vật dụng này cần thiết...
kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta
sống gần người này. Khi ta sống gần người
này, các niệm chưa được an
trú được an trú... được chứng đạt.
Những vật dụng này cần thiết...
kiếm được một cách khó khăn. Nhưng
không phải v́ y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh... không phải v́ đồ ăn khất thực... không phải v́ sàng tọa...
không phải v́ dược phẩm trị bệnh mà ta xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Và khi ta
sống gần người này, các niệm chưa
được an trú được an trú... vô thượng
an ổn, khỏi các ách phược được chứng
đạt". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ
với suy tính này, cần phải
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người
ấy, các niệm chưa được an trú được
an trú, tâm không định tĩnh được định
tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn
đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ,
vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa
được chứng đạt được chứng
đạt, và những vật dụng cần thiết cho
đời sống mà một người xuất gi ần
phải sắm đủ, như y phục, đồ
ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
người bệnh, những vật dụng này kiếm
được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta
sống gần người này. Khi ta sống gần người
này, các niệm chưa được an trú được
an trú, tâm chưa được định tĩnh
được định tĩnh, các lậu hoặc
chưa được hoàn toàn đoạn trừ được
hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi
ách phược chưa được thành đạt
được thành đạt. Và những vật dụng
cần thiết cho đời sống mà một vị xuất
gi ần phải sắm đủ, như y phục, đồ
ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm
được một cách dễ dàng". Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy phải trọn đời
18. KINH MẬT HOÀN [^]
(Madhupindikasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời,
– Chư Tỷ-kheo, ở đây, Ta vào buổi
sáng, đắp y, cầm y bát vào thành Kapilavatthu để khất
thực. Sau khi khất thực ở Kapilavatthu, ăn xong, trên đường khất thực
trở về, Ta đi đến Đại Lâm để
nghỉ trưa. Sau khi vào rừng Đại
Lâm, Ta ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây
beluvalatthika. Có vị Gậy cầm tay Sakka kéo bộ
khắp nơi, ngao du thiên hạ, đến tại rừng
Đại Lâm, đi sâu vào ngôi rừng, đến tại
Beluvalatthik hỗ Ta ở, khi đến xong, nói lên những
lời hỏi thăm xă giao thân hữu, rồi đứng
một bên, dựa trên cây gậy. Đứng một bên, Gậy
cầm tay Sakka nói với Ta như sau:
"Sa-môn có quan điểm thế nào, giảng thuyết những
ǵ?" Chư Tỷ-kheo, được nói vậy, Ta trả
lời Gậy cầm tay Sakka: "
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế
Tôn:
– Nhưng bạch
– Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên ǵ, một
số hư luận vọng tưởng ám ảnh một
người. Nếu ở đây không có ǵ đáng tùy hỷ,
đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời
như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự
đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến
tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn
tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham
tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn
tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu
tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng
ngữ. Chính ở đây, những ác, bất
thiện pháp này đều được tiêu diệt, không
c̣n dư tàn.
Rồi những Tỷ-kheo ấy đến chỗ
Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, nói lên những
lời chúc tụng, hỏi thăm xă giao với Tôn giả
Mahakaccana rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi
xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy thưa với
Tôn giả Mahakaccana:
– "Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời
dạy tóm tắt này và không giải thích rơ ràng ư nghĩa, từ
chỗ ngồi đứng dậy và đă đi vào tịnh
xá: "Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên ǵ... không c̣n
dư tàn".
Này Hiền giả Mahakaccana, khi Thế Tôn đi
chưa bao lâu, chúng tôi suy nghĩ: "Chư Hiền, Thế
Tôn sau khi nói lên lời dạy vắn tắt này cho chúng ta...
đă đi vào tịnh xá:" Do bất cứ nhân duyên ǵ...
không c̣n dư tàn". Ai có thể giải thích rộng răi ư
nghĩa lời giảng dạy mà Thế Tôn nói lên một
cách vắn tắt... không giải thích rơ ràng ư nghĩa?"
Này Hiền giả Mahakaccana, rồi chúng tôi suy nghĩ:
"Nay Tôn giả Mahakaccana được Thế Tôn tán thán
và được các vị đồng phạm hạnh có
trí kính trọng, Tôn giả Mahakaccan ó thể giải thích rộng
răi ư nghĩa lời giảng dạy được Thế
Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích rơ
ràng ư nghĩa. Vậy chúng ta hăy đi đến
chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, chúng ta hỏi
Tôn giả Mahakaccana ư nghĩa này. Tôn giả
Mahakaccana sẽ giải thích cho".
– Chư Hiền, cũng như một người
ưa thích lơi cây, t́m ṭi lơi cây, đi khắp mọi nơi
t́m lơi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng
và có lơi cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ
qua thân cây, nghĩ rằng phải t́m lơi cây ở nơi cành
lá. Cũng vậy là hành động củ hư Tôn giả,
đứng trước mặt Thế Tôn, quư vị bỏ
qua Thế Tôn, nghĩ rằng phải hỏi tôi về ư nghĩa
này. Chư Hiền, Thế Tôn biết những ǵ cần phải
biết, thấy những ǵ cần phải thấy, Ngài
đă trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí,
trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả,
vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị
trao cho bất tử, vị Pháp Chủ, Như Lai. Quư vị phải tùy thời hỏi
– Hiền giả Mahakaccana, chắc chắn Thế
Tôn biết những ǵ cần phải biết, thấy những
ǵ cần phải thấy, Ngài đă trở thành vị có mắt,
trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành
Brahma, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị
đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị
Pháp Chủ, Như Lai. Chúng tôi phải tùy thời
hỏi
– Vậy chư Hiền hăy nghe
và khéo tác ư, tôi sẽ giảng.
– Thưa vâng, Hiền giả.
– Chư Hiền, Thế Tôn nói lên một cách vắn
tắt lời dạy này... và đă đi vào tịnh xá:
"Này Tỷ-kheo bất cứ v́ nhân duyên ǵ... không c̣n
dư tàn". Chư Hiền, với lời dạy
được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt,
và không giải thích rơ ràng ư nghĩa. Tôi hiểu ư nghĩa một
cách đầy đủ như sau:
Chư Hiền, do nhơn con mắt và các sắc
pháp, nhăn thức khởi lên. Sự gặp gỡ
của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những ǵ có cảm thọ thời có tưởng,
những ǵ có tưởng thời có suy tầm, những ǵ
có suy tầm th́ có hư luận. Do hư luận ấy làm
nhơn, một số hư luận vọng tưởng ám ảnh
một người, đối với các sắc pháp do con
mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện
tại. Chư Hiền, do nhơn lỗ tai và các tiếng,
nhĩ thức khởi lên, do nhơn lỗ mũi và các
hương, tỷ thức khởi lên, do nhơn lưỡi
và các vị, thiệt thức khởi lên, do nhơn thân và xúc,
thân thức khởi lên; do nhơn ư và các pháp, ư thức khởi
lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là
xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những
ǵ có cảm thọ thời có tưởng. Những ǵ có tưởng thời có suy tầm.
Những ǵ có suy tầm thời có hư luận.
Do hư luận ấy làm nhơn, một số hư luận vọng
tưởng ám ảnh một người, đối với
các pháp do ư thức nhận thức, quá khứ, tương
lai, hiện tại. Chư Hiền, sự kiện này xảy
ra: khi nào có mắt, khi nào có sắc pháp, khi nào có nhăn thức,
thời sự thi thiết của xúc được hiển
lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết
của xúc thời sự thi thiết của thọ
được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra:
khi nào có thi thiết của thọ thời sự thi thiết
của tưởng được hiển lộ. Sự
kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết của
tưởng, thời sự thi thiết của suy tầm
được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra:
khi nào có sự thi thiết của suy tầm thời sự
thi thiết của sự ám ảnh một số hư luận
vọng tưởng được hiển lộ. Sự
kiện này xảy ra: khi nào có tai, khi nào
có các tiếng, khi nào có nhĩ thức... Sự kiện này xảy
ra: khi nào có lỗ mũi, khi nào có các hương, khi nào có tỷ
thức... Sự kiện này xảy ra, khi nào có lưỡi,
khi nào có các vị, khi nào có thiệt thức... Sự kiện
này xảy ra: khi nào có thân, khi nào có các xúc, khi nào có thân thức...
Sự kiện này xảy ra: khi nào có ư, khi nào có các pháp, khi
nào có ư thức thời sự thi thiết của xúc
được hiển lộ. Chư Hiền, sự kiện
này không xảy ra: khi nào không có mắt, khi nào không có các sắc,
khi nào không có nhăn thức, sự thi thiết của xúc
được hiển lộ. Sự kiện này không xảy
ra: khi nào không có sự thi thiết của xúc, sự thi thiết
của thọ được hiển lộ. Sự kiện
này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của thọ,
sự thi thiết của tưởng được hiển
lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự
thi thiết của tưởng, sự thi thiết của
suy tầm được hiển lộ. Sự kiện này
không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của suy tầm,
thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số
hư luận vọng tưởng được hiển lộ.
Chư Hiền, sự kiện này không xảy ra: khi nào không
có tai, khi nào không có các tiếng... khi nào không có mũi, khi nào
không có các hương... khi nào không có lưỡi, khi nào không
có các vị... khi nào không có thân, khi nào không có các xúc ... Sự
kiện này không xảy ra: khi nào không có ư, khi nào không có các
pháp, khi nào không có ư thức, sự thi thiết của xúc
được hiển lộ... Chư Hiền, Thế Tôn,
sau khi nói lên lời dạy một cách vắn tắt...
đă đi vào tịnh xá: "Này Tỷ-kheo, do bất cứ
nhân duyên ǵ... không dư tàn". Chư Hiền, đối với
lời dạy Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt
này, và nghĩa lư không được giải thích một
cách rộng răi, tôi đă hiểu ư nghĩa một cách rộng
răi như vậy. Nếu quư vị muốn,
hăy đi đến chỗ
Rồi những Tỷ-kheo ấy, hoan hỷ, tùy hỷ
lời Tôn giả Mahakaccana nói, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi
đến đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nói lên lời dạy
này một cách vắn tắt cho chúng con... đă vào tịnh
xá. "Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên ǵ... không c̣n
dư tàn". Khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, chúng con suy
nghĩ như sau: "Chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói
cho chúng ta lời dạy tóm tắt này, không giải thích ư
nghĩa một cách rộng răi, từ chỗ ngồi đứng
dậy và đă đi vào tịnh xá: "Này Tỷ-kheo, do bất
cứ nhân duyên ǵ, một số hư luận vọng tưởng
ám ảnh một người, nếu ở đây không có ǵ
đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ,
thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy
miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn
tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy
miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn
tận hữu tham tùy miên, sự đoạn tận vô minh
tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp
kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh,
ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở
đây, những ác, bất thiện pháp này đều
được tiêu diệt, không c̣n dư tàn". Nay
ai có thể giải thích rộng răi ư nghĩa lời giảng
dạy này được Thế Tôn nói lên một cách vắn
tắt và không giải thích rơ ràng ư nghĩa?" Bạch Thế
Tôn, và chúng con suy nghĩ: "Nay có Tôn giả Mahakaccana là vị
được Thế Tôn tán dương và được
các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn
giả Mahakaccan ó thể giải thích rộng răi ư nghĩa lời
giảng dạy này được Thế Tôn nói lên một
cách vắn tắt và không giải thích rơ ràng ư nghĩa. Vậy chúng ta hăy đi đến chỗ Tôn giả
Mahakaccana ở, sau khi đến sẽ hỏi Tôn giả
Mahakaccana ư nghĩa này". Bạch Thế Tôn, rồi
chúng con đi đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở,
sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Mahakaccana ư nghĩa
này. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Mahakaccana đă giải
thích ư nghĩa ấy cho chúng con với những
phương pháp này, với những văn cú này, với những
văn tự này.
– Chư Tỷ-kheo, Tôn giả Mahakaccana là bậc
Hiền trí. Chư Tỷ-kheo, Tôn giả
Mahakaccana là bậc Đại tuệ. Chư
Tỷ-kheo, nếu các Người hỏi Ta ư nghĩa này, T ũng
trả lời như Mahakaccana đă trả lời. Như vậy là chính nghĩa lời dạy ấy,
hăy như vậy thọ tŕ.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, như một người bị
đói lả và mệt mỏi, t́m được một
bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy được
nếm, cứ mỗi miếng vị ấy được
thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Bạch
Thế Tôn, cũng vậy, Tỷ-kheo có tri thức biệt
tài, cứ mỗi phần suy tư đến ư nghĩa pháp
môn này với trí tuệ, cứ mỗi phần vị ấy
được thưởng thức sự hoan hỷ,
được thưởng thức sự thỏa mái tâm
trí. Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là ǵ?
– Do vậy, này Ananda, pháp môn này được gọi
là pháp môn bánh mật (Mật hoàn). Hăy như vậy thọ
tŕ!
19. KINH SONG TẦM [^]
(Dvedhavitakkasutta)
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anathapindika (
– Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ,
khi chưa thành Chánh Giác và c̣n là Bồ-tát, Ta suy nghĩ
như sau: "Ta sống suy tư và chia hai suy tầm".
Chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại
tầm nào, Ta phân thành phần thứ nhất; phàm có ly dục
tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, Ta phân thành
phần thứ hai. Chư Tỷ-kheo, rồi
Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: "Dục tầm
này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến
tự hại, đưa đến hại người,
đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ,
dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn".
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm này
đưa đến tự hại", dục tầm
được biến mất, Chư Tỷ-kheo, khi ta suy
tư: "Dục tầm đưa đến hại
người", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm
đưa đến hại cả hai", dục tầm
được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy
tư: "Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần
vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn", dục
tầm được biến mất. Chư
Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả
ly và đoạn tận dục tầm. Chư Tỷ-kheo,
trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
sân tầm khởi lên... (như trên)... hại
tầm khởi lên. Ta tuệ tri: "Hại tầm này khởi
lên nơi Ta, và hại tầm này đưa đến tự
hại, đưa đến hại người,
đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ,
dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn".
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Hại tầm này
đưa đến tự hại"... "Hại
tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo,
không đưa đến Niết-bàn", hại tầm biến
mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy
Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận
hại tầm. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư,
quán sát nhiều vấn đề ǵ, thời tâm sanh khuynh
hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm,
vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi
tâm đă nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy
có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm...
(như trên)... về hại tầm, vị
ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm
đă đặt nặng về hại tầm thời tâm vị
ấy có khuynh hướng về hại tầm.
Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về
mùa thu, khi lúa đă trổ hạt, một
người mục đồng chăn giữ ḅ, cầm
roi đánh các con ḅ bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng,
ngăn chận chúng. V́ sao vậy? Chư
Tỷ-kheo, v́ người mục đồng thấy do nhân
duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội,
sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo,
cũng vậy, Ta đă thấy sự nguy hại, sự hạ
liệt, sự uế nhiễm củ ác pháp bất thiện,
và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh
củ ác thiện pháp.
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm
khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Ly dục tầm
này khởi lên nơi Ta và ly dục tầm này không
đưa đến tự hại, không đưa đến
hại người, không đưa đến hại cả
hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền
năo, đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo,
nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm)
không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi.
Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về
ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy
sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy
tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ
nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi.
Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dơng mănh, tinh tấn,
không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an
trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm
được định tĩnh nhất tâm, chư Tỷ-kheo,
Ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ,
T hứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là xả niệm lạc trú, T hứng và an
trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ,
diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, T hứng
và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh như vậy... (giống như trang... đến trang...).
Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ ba Ta đă chứng
được cuối đêm canh thứ ba; vô minh
được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối
được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong
khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Chư Tỷ-kheo, giống như
trong khu rừng rậm rạp có một hồ nước
lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn sống gần một
bên. Có một người
đến, không muốn chúng được lợi ích,
không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn
chúng được an ổn, khỏi các
ách nạn. Nếu có con đường nào được
yên ổn, được an toàn,
đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ
chận đóng con đường này lại, sẽ mở
con đường nguy hiểm, sẽ đặt con mồi
đực, sẽ đặt con mồi cái. Chư
Tỷ-kheo, như vậy, sau một thời gian đoàn nai
lớn ấy gặp ách nạn và hao ṃn dần.
Chư Tỷ-kheo, có một người đến, muốn
đoàn nai ấy được lợi ích, muốn chúng
được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn. Nếu có con
đường nào được yên ổn, được
an toàn, người ấy sẽ mở con
đường này, sẽ đóng con đường nguy hiểm
lại, sẽ đem con mồi đực đi, sẽ hủy
bỏ con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy
đoàn nai lớn ấy sau một thời gian sẽ
được tăng trưởng, hưng thịnh, thành
măn.
Chư Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ ấy để
giải thích ư nghĩa như sau: Chư Tỷ-kheo, hồ
nước lớn, thâm sâu chỉ cho các dục. Chư Tỷ-kheo, đoàn nai lớn chỉ cho các
loài hữu t́nh. Chư Tỷ-kheo, con người không
muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng
được hạnh phúc, không muốn chúng được
an ổn, khỏi các ách nạn chỉ
cho ác ma. Chư Tỷ-kheo, con đường nguy hiểm chỉ
cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà
tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng,
tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Chư
Tỷ-kheo, con mồi đực chỉ cho hỷ và tham.
Chư Tỷ-kheo, con mồi cái chỉ cho vô
minh. Chư Tỷ-kheo, c̣n người muốn chúng
được lợi ích, muốn chúng được hạnh
phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn
chỉ cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Con
đường yên ổn, an toàn,
đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường
Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh
tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh
tấn, Chánh niệm, Chánh định. Chư Tỷ-kheo,
như vậy Ta mở con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, Ta
đóng con đường nguy hiểm, Ta mang đi con mồi
đực, Ta hủy bỏ con mồi cái. Chư
Tỷ-kheo, những ǵ vị Đạo Sư cần phải
làm cho các đệ tử v́ ḷng thương tưởng họ,
những điều ấy Ta đă làm, v́ ḷng thương
tưởng các Người. Chư Tỷ-kheo,
đây là các gốc cây, đây là các chỗ trống.
20. KINH AN TRÚ TẦM [^]
(Vitakkasanthanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời,
– Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu
tăng thượng tâm cần phải thường thường
tác ư năm tướng. Thế nào là năm?
Ở đây, Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ư tướng
nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi,
thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
tác ư một tướng khác liên hệ đến thiện
không phải tướng kia. Nhờ tác ư một tướng
khác liên hệ đến thiện, không phải tướng
kia, các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một
người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử
một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ
đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái
nêm khác; chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một Tỷ-kheo
y cứ một tướng nào, tác ư một tướng
nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi,
thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
tác ư một tướng khác liên hệ đến thiện,
không phải tướng kia. Nhờ tác ư một tướng
khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ư
một tướng khác với tướng kia, liên hệ
đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của
những tầm ấy: "Đây là những tầm bất
thiện, đây là những tầm có tội, đây là những
tầm có khổ báo". Nhờ quán sát các nguy hiểm của
những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một
người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi,
trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức nếu một
xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng
vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ,
ghê tởm. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo
ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi
quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất
thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ
đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên,
thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
không ức niệm, không tác ư những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ư các tầm ấy,
các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si được
trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ
diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người
có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm
mắt của ḿnh, người ấy nhắm mắt lại
hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy,
nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không
tác ư... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định
tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi
không ức niệm, không tác ư các tầm ấy, các ác, bất
thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ
đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên.
Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải
tác ư đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ư đến
hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy,
các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục...
được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ:
"Tại sao ta-lại đi mau? Ta hăy đi chậm lại".
Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: "Tại
sao ta-lại đi chậm? Ta hăy dừng lại". Trong
khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: "Tại
sao Ta lại dừng lại? Ta hăy ngồi xuống".
Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: "Tại
sao ta-lại ngồi? Ta hăy nằm xuống". Chư Tỷ-kheo,
như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ
thô cứng nhất và làm
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi
tác ư đến hành tướng các tầm và sự an trú các
tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ... đến si
vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng,
lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại
tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng,
lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại
tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục...
liên hệ đến si được trừ diệt,
đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh
nhất tâm, định tĩnh. Ví như một
người lực sĩ nắm lấy đầu một
người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể
chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại.
Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy
trong khi tác ư hành tướng các tầm và sự an trú các tầm
ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi
lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến
răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế
ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ
nghiến răng, dán chặt lưỡi
lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục
tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi y cứ
tướng nào, tác ư tướng nào, các ác bất thiện
tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến
sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỷ-kheo ấy
tác ư một tướng khác, liên hệ đến thiện,
khác với tướng kia, các ác, bất
thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ
đến sân, liên hệ đến si được diệt
trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt
trừ chúng, nội tâm được an
trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ quán sát sự
nguy hiểm các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm
liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên
hệ đến si được trừ diệt, đi
đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ không ức
niệm, không tác ư các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm
liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên
hệ đến si được trừ diệt, đi
đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy tác ư hành tướng các tầm
và an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất
tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy nghiến răng,
dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự
tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện
tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến
sân, liên hệ đến si được trừ diệt,
đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ
chúng, nội tâm được an trú, an tịnh,
nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được
gọi là đă an trú trong đọa tầm
pháp môn. Vị ấy có thể tác ư đến
tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ư đến
tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đă
đoạn trừ khát ái, đă giải thoát các kiết sử,
khéo chinh phục kiêu mạn, đă chấm dứt khổ
đau.
21. KINH VÍ DỤ CÁI CƯA [^]
(Kakacupamasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời,
–
Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo khác và bảo:
– Này Tỷ-kheo, hăy đi, nhân danh Ta, cho gọi Tỷ-kheo
Moliyaphagguna: "Hiền giả Phagguna bậc Đạo
Sư gọi Hiền giả".
– Bạch Thế Tôn, vâng!
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến
chỗ Tôn giả Moliyaphagguna, khi đến xong, liền
thưa Tôn giả Moliyaphagguna:
– Hiền giả Moliyaphagguna, bậc Đạo
Sư gọi Hiền giả.
– Vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Moliyaphagguna vâng đáp Tỷ-kheo ấy,
đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Moliyaphagguna đang ngồi xuống
một bên:
–
– Bạch Thế Tôn, có như vậy.
– Này Phagguna, có phải Ông là Thiện nam tử, v́
ḷng tin, đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này Phagguna, thật không xứng đáng cho Ông, một
Thiện nam tử, v́ ḷng tin đă xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh, mà sống liên hệ với
các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ như vậy.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt
Ông, nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, này Phagguna, Ông phải
từ bỏ những dục liên hệ đến thế
tục, những tư duy liên hệ đến thế tục.
Này Phagguna, Ông phải học tập như sau: "Mong rằng
tâm của ta sẽ không bi biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ
không nói những lời ác ngữ! Mong rằng
ta sẽ sống với ḷng lân mẫn, với tâm từ bi,
không ôm ḷng sân hận!"
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, một thời các Tỷ-kheo của
T ó tâm rất thuần thục hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, ở
đây, Ta bảo các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo,
Chư Tỷ-kheo, thuở xưa, tại
thành Savatthi này có nữ gi hủ tên là Vedehika. Chư Tỷ-kheo, tiếng đồn
tốt đẹp sau đây được khởi lên về
nữ gi hủ Vedehika: "Nữ gi hủ Vedehika là hiền
thục, nữ gi hủ Vedehika là nhu thuận; nữ gi hủ
Vedehika là ôn ḥa". Chư Tỷ-kheo, nữ gi hủ Vedehik
ó người nữ tỳ tên là Kali, người này khéo tay, siêng năng, và làm việc cẩn thận
chu toàn. Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali khởi lên ư nghĩ:
"Chủ của ta được tiếng đồn tốt
đẹp khởi lên như sau: "Nữ gi hủ Vedehika
là hiền thục; nữ gi hủ Vedehika là nhu thuận; nữ
gi hủ Vedehika là ôn ḥa". Không biết nữ chủ của
t ó nội sân mà không tỏ lộ hay không có nội sân, hay v́
công việc ta-làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ t ó
nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy ta hăy thử nữ chủ của ta!"
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng ngày sau dậy
thật trễ. Chư Tỷ-kheo, nữ gi hủ Vedehika nói
với nữ tỳ Kali:
"–
"–
"– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ
vậy?
"– Thưa nữ chủ, có việc
ǵ đâu?
"– Thật sự không có việc
ǵ à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!"
Và nữ chủ phẫn nộ, bất
măn, trừng mắt.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ:
"Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng
không tỏ lộ, không phải không có. V́ những công việc
ta-làm cẩn thận chu toàn, nên nữ chủ
của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải
không có.
"–
"–
"– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ
vậy?
"–
"– Thật sự không có việc
ǵ à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!"
Và nữ chủ phẫn nộ, bất
măn, thốt lên những lời bất măn.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ:
"Nữ chủ của ta thật sự có nội sân
nhưng không tỏ lộ, không phải không có. V́ những
công việc ta-làm cẩn thận chu toàn
nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ
lộ, không phải không có. Vậy ta hăy thử
thêm nữa nữ chủ của ta!"
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng hôm
sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ
chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali:
"–
"–
"– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ
vậy?
"–
"– Thật sự không có việc
ǵ à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!"
Rồi phẫn nộ, không hoan hỷ,
nàng cầm cái then gài cửa, đánh một cú trên đầu
nữ tỳ khiến bể đầu. Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali,
với đầu bể máu chảy, liền đi kể lể
với các nhà láng giềng:
"– Hăy xem việc làm của nữ
chủ hiền thục! Hăy xem việc làm của nữ chủ nhu thuận!
Hăy xem việc làm của nữ chủ ôn ḥa! Sao nữ chủ
nói với nữ tỳ độc nhất: "Hôm nay
Ngươi dậy trễ", rồi phẫn nộ, bất
măn, nàng cầm then gài cửa, đánh tôi một cú trên đầu
khiến bể đầu".
Chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, tiếng
đồn xấu sau đây được khởi lên về
nữ chủ Vedehika: "Nữ chủ Vedehika là độc
ác! Nữ chủ Vedehika là không nhu thuận! Nữ
chủ Vedehika là không ôn ḥa!" Cũng vậy chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo hết
sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức
ôn ḥa trong khi chưa bị những lời nói bất khả
ư, xúc phạm. Và chư Tỷ-kheo, chỉ khi nào Tỷ-kheo bị
những lời nói bất khả ư, xúc phạm, khi ấy vị
ấy mới được xem là hiền lành, mới
được xem là nhu thuận, mới được xem
là ôn ḥa. Chư Tỷ-kheo, Ta không gọi một Tỷ-kheo
là dễ nói, khi vị ấy dễ nói về các vật dụng
như y áo, món ăn, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh, khi vị ấy thành tựu
được tánh dễ nói. V́ sao vậy?
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy khi không được
các vật dụng như y áo, thức ăn, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, không c̣n là dễ nói,
không c̣n thành tựu tánh dễ nói. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp trở thành dễ
nói, thành tựu tánh dễ nói, vị ấy Ta mới gọi
là dễ nói. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy suy nghĩ:
"Chỉ v́ tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp chúng
ta sẽ trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ
nói". Chư Tỷ-kheo, các Người phải
học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà
các Người có thể dùng khi nói với các người
khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không
chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay
không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người
khác, các Người có thể nói đúng thời hay phi thời.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người
khác, các Người có thể nói lời chơn thực hay
nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo,
khi nói với các người khác, các Người có thể
nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người
khác, các Người có thể nói lời lợi ích hay nói lời
không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với
các người khác, các Người có thể nói với từ
tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại
đây, các Người cần phải học tập
như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm củ húng ta không biến
nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ,
chúng ta sẽ sống với ḷng lân mẫn, với tâm từ
bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ
sống bao phủ người này với tâm câu hữu với
từ. Và với người này là đối tượng,
ta sống biến măn cùng khắp thế giới với tâm
câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận,
không sân". Chư Tỷ-kheo, như vậy
các Người cần phải học tập.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người
đến, cầm xẻng và thúng, nói như sau: "Tôi sẽ
làm cho đất lớn này không thành đất nữa",
và người ấy đào chỗ này chỗ kia, rải
đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước miếng
chỗ này chỗ kia, đi tiểu tiện chỗ này chỗ
kia, với ư nghĩ: "Ngươi trở thành không phải
đất, Ngươi trở thành không phải đất".
Chư Tỷ-kheo, nghĩ thế nào? Người ấy có thể làm cho đất lớn
này trở thành không phải đất chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. V́ sao vậy?
V́ đất lớn này thâm sâu và vô lượng,
không dễ ǵ khiến cho đất lớn này trở thành
không phải đất, trước khi người ấy
bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo,
có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với
người khác: "Đúng thời hay phi thời... hay với
sân tâm". Các Tỷ-kheo, khi nói với các người khác,
các Ông có thể nói: "Đúng thời... hay với sân
tâm". Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải
học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm củ
húng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những
lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với ḷng lân mẫn,
với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận; chúng
ta sẽ sống biến măn người này với tâm câu hữu
với từ. Và với người này là đối tượng,
ta sống biến măn cùng khắp thế giới, với
tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân". Các Tỷ-kheo, các Ông cần phải
học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người
đến, cầm màu sơn, màu vàng, màu xanh sẫm hay màu
đỏ tía; người ấy có thể nói như sau:
"Ta sẽ viết các h́nh sắc trên hư không này. Ta sẽ
làm cho các h́nh sắc hiển hiện". Các Tỷ-kheo, các
Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể
viết các h́nh sắc trên hư không và làm cho các h́nh sắc
hiển hiện được không?
– Bạch Thế Tôn, không thể được. V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn, hư không là
vô sắc, không thể thấy được. Ở đây, không dễ ǵ viết các h́nh sắc
và làm h́nh sắc hiển hiện, trước khi người
ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này Tỷ-kheo, có năm loại
ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với người khác:
"Đúng thời hay phi thời... hay với sân tâm... (như trên)... Và với người này là
đối tượng, ta sống biến măn cùng khắp
thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân". Chư
Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người
đến, cầm một bó cỏ khô đang cháy và nói
như sau: "Ta với bó cỏ khô đang cháy này sẽ
hâm nóng và đun sôi sông Hằng này. Chư Tỷ-kheo,
các Ông nghĩ thế nào? Người ấy, với bỏ
cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng
được không?
– Bạch Thế Tôn, không. V́ sao vậy?
Bạch Thế Tôn, v́ sông Hằng thâm sâu và vô lượng,
không dễ ǵ với bó cỏ khô đang cháy có thể hâm
nóng và đun sôi sông Hằng được, trước khi
người ấy mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo,
có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với
các người khác: "Đúng thời hay phi thời... hay
với sân tâm". Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người
khác, các Ông có thể nói: "Đúng thời... hay với sân
tâm... (như trên)... Và với người
này là đối tượng, ta sống biến măn cùng khắp
thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân". Chư
Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
– Chư Tỷ-kheo, ví như một cái bị bằng
da mèo, đă được thuộc chín, khéo thuộc, khéo
thuộc cùng khắp, nhu nhuyến, như bông, không c̣n tiếng
x́ tiếng xọp, và một người đến, cầm
gậy hay cầm mẻ sành và nói như sau: "Ta sẽ lấy
cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng
da mèo này, đă được thuộc chín, khéo thuộc,
khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không c̣n tiếng
x́, tiếng xọp, phát ra tiếng x́, tiếng xọp".
Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Người ấy có thể, với cái gậy hay với
cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này đă
được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng
khắp, nhu nhuyễn, như bông, không c̣n tiếng x́, tiếng
xọp, phát ra tiếng x́, tiếng xọp được
không?
– Bạch Thế Tôn, không. V́ sao vậy?
Bạch Thế Tôn, cái bị bằng da mèo này đă
được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng
khắp, nhu nhuyễn, như bông, không c̣n tiếng x́, tiếng
xọp, không dễ ǵ làm cho cái bị ấy phát ra tiếng
x́, tiếng xọp được, trước khi người
ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, chư Tỷ-kheo,
có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với
các người khác: "Đúng thời hay phi thời,
chơn thực, hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô
bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay
với sân tâm". Chư Tỷ-kheo, khi nói với
các người khác, các Ông có thể nói đúng thời hay
phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với
các người khác, các Ông có thể nói lời chơn thực
hay nói lời không chơn thực. Chư
Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể
nói lời nhu nhuyễn hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người
khác, các Ông có thể nói lời lợi ích hay nói lời không
lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với
các người khác, các Ông có thể nói với từ tâm hay
với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây,
các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ
giữ tâm củ húng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ
không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống
với ḷng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội
tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến măn người
này với tâm câu hữu với từ. Và với người
này là đối tượng, ta sống biến măn cùng khắp
thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo,
các Ông cần phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo
tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa
tay, cư hân; dầu vậy, nếu một ai ở đây
khởi ư nhiễm loạn, người ấy do vậy
không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở
đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học
tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm củ húng ta
không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những
lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với ḷng lân mẫn,
với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với
tâm câu hữu với từ. Và với người này
là đối tượng, ta sống biến măn cùng khắp
thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân". Chư
Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Và này chư Tỷ-kheo, nếu các Ông luôn luôn suy
tư lời dạy ví dụ cái cưa này, th́ này các Tỷ-kheo,
các Ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị
hay thô bạo mà các Ông không kham nhẫn được
chăng?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, do vậy, hăy luôn luôn suy tư
lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ
được hạnh phúc an lạc lâu ngày.