(Alaggadupamasutttam) [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (
–
– Thật sự là vậy, chư Hiền.
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng từ
bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn
lư do, thảo luận: - "Hiền giả Arittha, chớ
nói như vậy, chớ xuyên tạc
– Tỷ-kheo Arittha xưa làm nghề huấn luyện
chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật
vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà
kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm
chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy, theo
như tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không
có chướng ngại ǵ".
V́ các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ
bỏ ác tà kiến ấy, nên họ đến chỗ Thế
Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, những Tỷ-kheo ấy bạch
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm
nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến
như sau: "Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng...
không có chướng ngại ǵ". Bạch Thế Tôn, chúng
con nghe: "Tỷ-kheo tên Arittha, xưa làm nghề huấn
luyện chim ưng... không có chướng ngại ǵ". Bạch
Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi
đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa
làm nghề huấn luyện chim ưng:
"–
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, nói với
chúng con như sau:
"– Thật sự là vậy. Chư Hiền,
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ
bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn
lư do, thảo luận:
– "Hiền giả Arittha, chớ nói như vậy!
Chớ xuyên tạc
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề
huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con
cật vấn, nạn vấn lư do, thảo luận, vẫn
nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt,
nắm chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy,
theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có
chướng ngại ǵ". Bạch Thế Tôn, v́ chúng con
không thể làm cho Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn
luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên
chúng con đến hỏi
– Này Tỷ-kheo, hăy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng:
"Hiền giả Arittha, bậc Đạo Sư gọi
Hiền giả".
– Thưa vâng, bạch
Tỷ-kheo ấy vâng lời
– Hiền giả Arittha, bậc Đạo sư gọi
Hiền giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện
chim ưng, đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
–
– Thật sự là vậy, bạch
– Này kẻ ngu si kia, sao Ông lại hiểu pháp Ta
thuyết giảng như vậy? Này kẻ ngu si kia, có phải
chăng, Ta đă dùng nhiều pháp môn thuyết chướng
đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự
đủ bị chướng ngại? Ta đă thuyết
các dục vui ít, khổ nhiều, năo nhiều, do vậy nguy
hiểm càng nhiều hơn. Ta đă thuyết các dục
được ví như khúc xương... Ta đă thuyết
các dục được ví như miếng thịt...
được ví như bó đuốc cỏ khô...
được ví như hố than hừng... được
ví như cơn mộng... được ví như vật dụng
cho mượn... được ví như trái cây...
được ví như ḷ thịt... được ví
như gậy nhọn... Ta đă thuyết các dục
được ví như đầu rắn, vui ít, khổ
nhiều, năo nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều
hơn. Và này kẻ ngu si kia, không những Ông xuyên tạc Ta,
v́ Ông đă tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại
Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si
kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh
và đau khổ lâu dài cho Ông.
– Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo
Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể
khởi lên
–
Được nói vậy, Tỷ-kheo Arittha,
xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ
thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng.
– Này kẻ ngu si kia, người ta sẽ
được biết Ông qua ác tà kiến củ hính Ông. Ở
đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.
– Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết
giảng, giống như Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề
huấn luyện chim ưng này, không những đă xuyên tạc
Ta v́ đă tự chấp thủ sai lạc, mà c̣n tự phá
hoại ḿnh và gây nên nhiều tổn đức?
–
– Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo!
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số
người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải
thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị
ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương
quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ư nghĩa
những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy,
v́ ư nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở
thành rơ ràng. Họ học các pháp chỉ v́ lợi ích, muốn
chỉ trích người khác, chỉ v́ lợi ích, muốn
khoái khẩu biện luận, và họ không đạt
được mục tiêu mà sự học pháp hướng
đến. Những pháp ấy v́ nắm giữ sai lạc
nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ
lâu dài. V́ sao vậy? Này các Tỷ-kheo, v́ nắm giữ sai lạc
các pháp. Chư Tỷ-kheo, ví như một người
ưa muốn rắn nước, t́m cầu rắn nước,
đi khắp chỗ để t́m rắn nước.
Người đó thấy một con rắn nước lớn,
và người đó bắt con rắn ấy ở lưng
hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn
người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một
phần nào khác củ ơ thể, và người đó có
thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần
như chết. V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo, v́ nắm bắt
con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo,
ở đây, một số người ngu si học pháp...
Chư Tỷ-kheo, v́ sự chấp thủ các pháp sai lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện
nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải
thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị
ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương
quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ư nghĩa những
pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, v́ ư nghĩa
được trí tuệ quán sát, nên trở thành rơ ràng. Họ
học pháp không v́ lợi ích, muốn chỉ trích người
khác, không v́ lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận,
và họ đạt được mục tiêu mà sự học
pháp hướng đến. Những pháp ấy, v́ khéo nắm
giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc
lâu dài. V́ sao vậy? Này các Tỷ-kheo, v́ khéo nắm giữ
các pháp. Chư Tỷ-kheo, ví như một người
ưa muốn rắn nước, t́m cầu rắn nước
đi khắp chỗ để t́m rắn nước.
Người đó thấy một con rắn nước lớn.
Người đó có thể khéo đè con rắn nước
với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy
có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ
rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy
có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một
thân phần nào khác, người đó cũng không v́ nhân
duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự
đau khổ gần như chết. V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo,
v́ khéo nắm giữ con rắn nước vậy. Cũng
vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện
nam tử học pháp... chư Tỷ-kheo, v́ khéo nắm giữ
các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy hiểu rơ ư
nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ tŕ như vậy.
Nếu có ai không hiểu rơ ư nghĩa lời Ta thuyết giảng
th́ ở nơi đây, các Ông hăy hỏi Ta hay hỏi những
bậc Tỷ-kheo trí thức.
Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông,
ví như chiếc bè để vượt qua, không phải
để nắm giữ lấy. Hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ
giảng.
– Thưa vâng, bạch
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp
– Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang
đi trên con đường lớn dài, đến một
vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hăi hùng,
bờ bên kia an ổn và không kinh hăi, nhưng không có thuyền
để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ
bờ này đến bờ kia. Người đó tự suy
nghĩ: "Đây là vùng nước rộng, bờ bên này
nguy hiểm và hăi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hăi,
nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có
cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay
ta hăy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc
bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể
vượt qua bờ bên kia một cách an toàn". Chư Tỷ-kheo,
rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột
lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn
dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi
qua bờ bên kia rồi, Người đó suy nghĩ:
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc
bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ
bên kia một cách an toàn. Nay ta hăy đội chiếc bè này
trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ
nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế
nào? Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy,
th́ có làm đúng với sở dụng củ hiếc bè
chăng?
–
– Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm
thế nào cho đúng sở dụng củ hiếc bè? Ở
đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt
qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi
ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng
tay chân đă vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
Nay ta hăy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận
ch́m xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn".
Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm
đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này
chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để
vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè...
Chánh pháp c̣n phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
Này các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào
là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm
phu, không đi đến yết kiến các bậc Thánh,
không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp
các bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc
Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn
nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc
pháp: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của
tôi", xem cảm thọ: "Cái này là của tôi, cái này là
tôi, cái này là tự ngă của tôi", xem tưởng:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của
tôi", xem các hành: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngă của tôi", xem cái ǵ được thấy,
được nghe, được cảm xúc, được
ư thức, được đạt tới, được
t́m cầu, được ư suy tư: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi", và bất
cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Đây
là thế giới, đây là tự ngă, sau khi chết, tôi sẽ
thường c̣n, thường hằng, thường trú,
không biến chuyển, tôi sẽ, trú như thế này cho
đến măi măi", xem như vậy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Và này
chư Tỷ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử
đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục
các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến
yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục
pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc
Chơn nhơn, xem sắc pháp: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", xem cảm thọ: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", xem tưởng: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", xem các hành: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", xem cái ǵ được thấy, được
nghe, được cảm xúc, được ư thức,
được đạt tới, được t́m cầu,
được ư suy tư: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng:
"Đây là thế giới, đây là tự ngă, sau khi chết
tôi sẽ thường c̣n, thường hằng, thường
trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho
đến măi măi", xem như vậy là: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngă của tôi". Vị này do quán sát như vậy, đối
với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền
muộn.
Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo
khác bạch
– Có thể có cái ǵ không thực có ở ngoài, có thể
gây lo âu phiền muộn?
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có
người nghĩ như sau: "Cái ǵ chắc chắn
đă là của tôi, nay chắc chắn không c̣n là của tôi.
Cái ǵ chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn
tôi không được cái ấy". Người đó sầu
muộn, than văn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến
bất tỉnh.
–
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo,
có người không nghĩ như sau: "Cái ǵ chắc chắn
đă là của tôi, nay chắc chắn không c̣n là của tôi.
Cái ǵ chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn
tôi không được cái ấy". Người đó
không sầu muộn, than văn, khóc lóc, không đấm ngực,
không đi đến bất tỉnh. Như vậy, này Tỷ-kheo,
có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.
–
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo,
có người có (tà) kiến như sau: "Đây là thế
giới, đây là tự ngă, sau khi chết, tôi sẽ thường
c̣n, thường hằng, thường trú không biến chuyển.
Tôi sẽ trú như thế này cho đến măi măi".
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai
thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến
xứ, co hấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự
tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ
mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến
ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Người đó
có thể nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị
đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại
diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại".
Người đó sầu muộn, than văn, khóc lóc, đấm
ngực, đi đến bất tỉnh.
–
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có
người không có (tà) kiến như sau: "Đây là thế
giới, đây là tự ngă, sau khi chết, tôi sẽ thường
c̣n, thường hằng, thường trú, không biến chuyển,
tôi sẽ trú như thế này cho đến măi măi".
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai
thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến
xứ, co hấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự
tịnh chi mọi hành động, sự từ bỏ mọi
sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa
đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy
không nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn
diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt,
chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Vị ấy
không sầu muộn, than văn, khóc lóc; vị ấy không đấm
ngực, không đi đến bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo
âu, phiền muộn.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nắm giữ một
vật sở hữu ǵ, và vật sở hữu được
nắm giữ ấy sẽ thường c̣n, thường
hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể
trú như thế này măi măi không? Chư Tỷ-kheo, các Ông có thể
thấy một vật sở hữu nào được nắm
giữ và vật sở hữu được nắm giữ
ấy sẽ thường c̣n, thường hằng, thường
trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này măi
măi không?
–
– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, T ũng
không thấy một vật sở hữu được nắm
giữ nào, mà vật sở hữu được nắm
giữ ấy sẽ thường c̣n, thường hằng,
thường trú, không chuyển biến, có thể trú như
thế này măi măi. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể chấp
thủ Ngă luận thủ nào mà Ngă luận thủ ấy
được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không? Này các Tỷ-kheo, các
Ông có thấy Ngă luận thủ nào mà Ngă luận thủ ấy
được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không?
–
– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, T ũng
không thấy Ngă luận thủ nào mà Ngă luận thủ ấy
được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. Này các Tỷ-kheo, các Ông có
kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ
như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ,
ưu, năo không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy kiến y
nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy
lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không?
–
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, T ũng
không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy
được y chỉ như vậy, lại không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. Chư Tỷ-kheo, nếu
có ngă thời có ngă sở thuộc của tôi không?
–
– Chư Tỷ-kheo, nếu có ngă sở thuộc,
thời có ngă của tôi không?
–
– Chư Tỷ-kheo, nếu ngă và ngă sở thuộc
không thể được chấp nhận là thường
c̣n, thường hằng, th́ kiến xứ này: "Đây
là thế giới, đây là tự ngă, sau khi chết tôi sẽ
thành thường c̣n, thường hằng, thường
trú, không biến chuyển tôi sẽ trú như thế này cho
đến măi măi". Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy
là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?
–
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc
là thường hay vô thường?
–
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự biến
hoại, th́ có hợp lư chăng khi chánh quán cái ấy là:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của
tôi"?
–
– Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường
hay vô thường?
–
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự biến
hoại th́ có hợp lư chăng khi chánh quán cái ấy là:
"Cái này là của tôi... tự ngă của tôi"?
–
– Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường
hay vô thường?
–
– Cái ǵ vô thường...?
–
– Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô
thường... chư Tỷ-kheo, thức là thường
hay vô thường?
–
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ th́ có hợp lư
chăng, khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái
này là tôi, cái này là tự ngă của tôi"?
–
– Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các pháp
nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất
cả sắc pháp là: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là của tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi", cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Bất cứ cảm thọ nào... Bất cứ tưởng
nào... Bất cứ hành nào... Bất cứ thức nào, quá khứ,
vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế,
liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngă của tôi", cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ.
Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị
Đa văn Thánh đệ tử yểm ly đối với
sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối
với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm
ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly
tham, nên được giải thoát, trong sự giải
thoát có trí khởi lên, biết được đă giải
thoát. Vị ấy biết: "Sanh đă tận, phạm hạnh
đă thành, những ǵ nên làm đă làm, không c̣n trở lui tại
đây với một đời sống khác". Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đă vất
bỏ đi các chướng ngại vật, là vị
đă lấp đầy các thông hào, là vị đă nhổ
lên cột trụ, là vị đă mở tung các lề khóa,
là bậc Thánh đă hạ cây cờ xuống, đă đặt
gánh nặng xuống, không có ǵ hệ lụy.
Và thế nào là Tỷ-kheo đă vất bỏ
đi các chướng ngại? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
là đă đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ,
làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến
không thể tái sanh trong tương lai, không có khả
năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo
đă vất bỏ đi các chướng ngại. Này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo đă lấp đầy các thông hào? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă đoạn trừ
tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đă cắt tận
gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu,
khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả
năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo
đă lấp đầy thông hào. Này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo đă nhổ lên cột trụ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă đoạn trừ
khát ái, đă cắt tận gốc rễ, làm cho như cây
ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh
trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đă nhổ
lên cột trụ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
đă mở
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă giải thoát
như vậy, th́ chư Thiên ở Đế thích Thiên giới,
Phạm thiên giới, Sanh chủ giới sẽ không t́m
được dấu vết của Tỷ-kheo ấy, nếu
nghĩ rằng: "Y ở đây, có thức của
Như Lai". V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Ta nói ngay ở
hiện tại, một
–
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái ǵ không phải
củ ác Ông, các Ông hăy từ bỏ.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được
Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho
khai thị, được loại trừ các vải quấn
cũ. Chư Tỷ-kheo, v́ pháp được Ta khéo giảng,
làm tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được
loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị
Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă tận,
tu hành thành măn, việc nên làm đă làm, gánh nặng đă
đặt xuống, lư tưởng đă thành đạt, hữu
kiết sử đă đoạn trừ, được giải
thoát nhờ chánh trí, ṿng luân chuyển (sanh tử) của những
vị này không thể chỉ bày. Chư Tỷ-kheo, như vậy,
pháp được Ta khéo giảng... được loại
trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, v́ pháp
được Ta khéo giảng, được loại trừ
các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đă
đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, th́
những vị này thành các vị hóa sanh, nhập diệt tại
đây, không c̣n phải trở lui vào đời này nữa.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo
giảng... được loại trừ các văi quấn cũ.
Chư Tỷ-kheo, v́ pháp được Ta khéo giảng...
được loại trừ các vải quấn cũ, nên
những Tỷ-kheo nào đă đoạn trừ ba kiết sử,
đă làm cho muội lược tham sân si, th́ tất cả
những vị ấy thành bậc Nhất lai, chỉ đến
đời này một lần nữa sẽ diệt tận
khổ đau. Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp
được Ta khéo giảng... được loại trừ
các văi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, v́ pháp được
Ta khéo giảng... được loại trừ các vải
quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đoạn trừ
ba kiết sử, th́ tất cả những vị ấy trở
thành bậc Dự lưu, không c̣n bị đọa lạc
ác thú, quyết định hướng đến chánh giác.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo
giảng... được loại trừ các vải quấn
cũ. Chư Tỷ-kheo, v́ pháp được ta khéo giảng...
được loại trừ các vải quấn cũ, nên
những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín
hành, th́ tất cả những vị này sẽ hướng
về chánh giác, chư Tỷ-kheo, như vậy pháp
được Ta khéo giảng... được loại trừ
khỏi các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, v́ pháp
được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho
khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ
các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ
ḷng tin nơi Ta, chỉ đủ ḷng thương mến
đối với Ta, th́ tất cả những vị ấy
được hướng về chư Thiên.
23.
(Vammikasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, vườn ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Kumarakassapa trú tại Andhavana. Rồi một vị Thiên,
đêm đă gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu
sáng toàn thể Andhavana, đến chỗ Tôn giả
Kumarakassapa ở, sau khi đến, bèn đứng một
bên. Sau khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với
Tôn giả Kumarakassapa: "Tỷ-kheo, Tỷ-kheo!" G̣ mối
này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng. Một Bà-la-môn nói
như sau: "Này kẻ trí, hăy cầm gươm và đào
lên". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy
một then cửa: "
–
– Này Tỷ-kheo, g̣ mối là đồng nghĩa với
cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ
cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại,
phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.
Này Tỷ-kheo, đồ lọc sữa là đồng
nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái,
sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo
cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái;
đem bỏ đồ lọc sữa lên là từ bỏ
năm triền cái; này kẻ có trí cầm gươm đào
lên là ư nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con rùa là đồng nghĩa với
năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ
thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn,
thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ
năm thủ uẩn; này kẻ có trí cầm gươm
đào lên là ư nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con dao phay là đồng nghĩa với
năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc
do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn. Các tiếng
do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức...
Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm
xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, kích
thích ḷng dục hấp dẫn; lấy con dao phay lên là từ
bỏ năm dục trưởng dưỡng; này kẻ có
trí, cầm gươm đào lên là ư nghĩa này.
24.
(Rathavivutasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha
(Vương Xá) tại Veluvana (
– Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa
phương được các Tỷ-kheo đồng phạm
hạnh cùng một địa phương tán thán như
sau: "Tự ḿnh thiểu dục và giảng về thiểu
dục cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh tri túc và giảng về
tri túc cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh độc cư và giảng
về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh không ô
nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo;
tự ḿnh tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần,
tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu giới
hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho
các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu Thiền định và
giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo;
tự ḿnh thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí
tuệ cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu giải thoát
và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự
ḿnh thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu
giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới,
vị khai thị, vị tŕnh bày, vị khích lệ, vị
làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm
hạnh hoan hỷ".
–
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ
Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với
Tôn giả Sariputta: "Hiền giả Sariputta, Hiền giả
luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này
được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về
Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ
trưa".
– Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của
– Thật như vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy với mục đích
ǵ, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của
– Hiền giả, với mục đích vô thủ
trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dạy của
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là
vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô
thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo tri kiến
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải cái ǵ ngoài các pháp này là
vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô
thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải kiến thanh tịnh... (như trên)...
– Có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ
trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải cái ǵ ngoài các pháp này là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy ư nghĩa lời nói này cần
phải được hiểu như thế nào?
– Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn th́ Ngài cũng
tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng
đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn.
Hiền giả, nếu
"– Tâu Đại vương có phải với
trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến
Saketa tại cửa nội thành?"
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải
trả lời như thế nào mới gọi là trả lời
đúng đắn?
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải
trả lời như thế này mới trả lời
đúng đắn:
"– Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công
việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm
xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và
Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên
trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất,
ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ
trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và
nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được
trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai...
đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ
trạm xe thứ ba... đến được trạm xe
thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến
được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm
xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm
xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy;
từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ
bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến
được Saketa, tại cửa nội thành".
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả
lời như vậy mới trả lời một cách
đúng đắn.
Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm
thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt
cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được)
đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ
có mục đích (đạt cho được) đạo
phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt
cho được) đạo tri kiến thanh tịnh;
đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích
(đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri
kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt
cho được)vô thủ trước Bát-niết-bàn.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta
nói với Tôn giả
– Tôn giả tên là ǵ? Và các vị đồng phạm
hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng
phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.
– Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ
diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín
đă được trả lời từng điểm một
bởi một đệ tử nghe nhiều, đă biết
rơ giáo lư của bậc Đạo Sư, và vị đệ
tử ấy là Tôn giả
Khi được nói vậy, Tôn giả Punna
Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta:
– Tôn giả tên là ǵ, và các vị đồng phạm
hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị
đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta.
– Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử
được xem là ngang hàng với bậc Đạo
Sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu
chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, th́ chúng
tôi đă không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu
thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả!
Những câu hỏi sâu kín đă được trả lời
từng điểm một, bởi một đệ tử
nghe nhiều, đă biết rơ giáo lư của bậc Đạo
Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả
Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm
hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng
phạm hạnh... được thăm viếng,
được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu các vị
đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta
trên đầu với một cuộn vải làm khăn
để được thăm viếng, được
thân cận, th́ thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật
chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc
cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được
thăm viếng, được thân cận Tôn giả
Sariputta!
Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng
nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
25.
(Nivapasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, vườn ông Anathapindika (
– Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy
mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai không nghĩ rằng:
"Ta gieo đồ mồi này cho đoàn nai ăn để
đàn ấy được sống lâu, được tốt
đẹp thêm và được nuôi dưỡng lâu dài
hơn". Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy
mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai nghĩ rằng:
"Ta gieo đồ mồi này cho đàn nai, để
đàn này xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Sau
khi xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở
thành mê loạn; do mê loạn, chúng trở thành phóng dật;
do phóng dật chúng trở thành những vật bị làm
theo ư người ta muốn, giữ ác đồ mồi
này".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai đầu
tiên xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi
này do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng
xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở
thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật.
Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ
hai suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm
nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này do
người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở
đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi,
nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành
phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật
bị làm
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba
suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập
tham đắm, ăn các đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy,
đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực
của người thợ săn bẫy mồi. C̣n đàn
nai thứ hai này suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu
tiên này xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi
này của người thợ săn bẫy mồi...
(như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này
không thoát khỏi như ư lực của người thợ
săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy hoàn toàn từ bỏ
các món ăn bẫy mồi, từ bỏ các vật dụng
đáng sợ hăi, đi sâu vào rừng và an trú". Rồi
đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các món ăn bẫy mồi,
từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu
vào rừng và an trú. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước
khan hiếm, thân h́nh đàn nai ấy trở thành hết sức
gầy yếu. V́ thân h́nh đàn nai ấy trở thành hết
sức gầy yếu, sức lực củ húng bị kiệt
quệ. V́ sức lực bị kiệt quệ, đàn nai ấy
trở lại các đồ mồi ấy do người thợ
săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập
tham đắm ăn các đồ mồi. V́ chúng ở
đây xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi,
nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành
phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật
bị làm
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ
săn bẫy mồi và quyến thuộc người thợ
săn bẫy mồi suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ
ba này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ ba
này thật có thần lực và ma quái. Chúng ăn các đồ
mồi được gieo ra này, mà chúng ta không được
biết đường đi lối về củ húng. Vậy
chúng ta hăy bao vây xung quanh các đồ mồi được
gieo này, với những cây cột to lớn và những bẫy
sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng t ó thể thấy
được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ
ba này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ
ăn". Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi
được gieo này với những cây cột to lớn
và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Này các
Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những
người quyến thuộc người thợ săn bẫy
mồi thấy được chỗ ẩn nấp của
đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy
đồ ăn. Như vậy này các Tỷ-kheo, đàn nai
thứ ba này không thoát được như ư lực của
người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ
tư suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này
xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của
người thợ săn bẫy mồi... (như trên)...
Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi
như ư lực của người thợ săn bẫy mồi.
C̣n đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: "Đàn
nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các
đồ mồi này của người thợ săn bẫy
mồi... (như trên)... Như vậy đoàn nai đầu
tiên này không thoát khỏi như ư lực của người
thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy... (như
trên)...". Như vậy đàn nai thứ hai này không thoát
khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy
mồi. Đàn nai thứ ba suy nghĩ như sau: "Đàn
nai đầu tiên xâm nhập tham đắm, ăn các đồ
mồi này của người thợ săn bẫy mồi...
(như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này
không thoát khỏi như ư lực của người thợ
săn bẫy mồi. C̣n đàn thứ hai này suy nghĩ
như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham
đắm ăn các đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi... Như vậy, đàn nai
đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực của
người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta
hăy... (như trên)...". Như vậy đàn nai thứ hai
này không thoát khỏi như ư lực của người thợ
săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy làm một chỗ ẩn
nấp gần các đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp
xong, không xâm nhập, không tham đắm chúng ta sẽ ăn
các đồ mồi ấy do người thợ săn
gieo ra. V́ không xâm nhập, không tham đắm, ăn các món
ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng
ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ
không trở thành những vị bị làm
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ
săn bẫy mồi và những quyến thuộc của
người ấy suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ
tư này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ
tư này thật có thần lực và ma quái. Và chúng ăn các
đồ mồi được gieo ra mà chúng ta không biết
được đường đi lối về củ
húng. Vậy chúng ta hăy bao vây xung quanh các đồ mồi
được gieo này với những cây cột to lớn
và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi
chúng t ó thể thấy được chỗ ẩn nấp
của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể
đi để lấy đồ ăn". Rồi họ
bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với
những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng
khắp mọi nơi. Nhưng này các Tỷ-kheo, người
thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của
người ấy đă không thấy được chỗ
ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ
chúng có thể đi để lấy đồ ăn. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn và những
quyến thuộc của người ấy lại suy nghĩ
như sau: "Nếu chúng ta đánh phá đàn nai thứ
tư này, chúng bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn
nai khác; các đàn nai khác bị đánh phá sẽ đánh phá
các đàn nai khác nữa. Như vậy toàn thể đàn nai
sẽ từ bỏ các đồ mồi được
gieo này. Vậy chúng t hớ có can thiệp vào đàn nai thứ
tư". Này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy
mồi và những quyến thuộc của người ấy
không can thiệp vào đàn nai thứ tư. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư đă thoát khỏi
như ư lực của người thợ săn bẫy mồi.
Này các Tỷ-kheo, tỷ dụ này được
Ta dùng để giải thích ư nghĩa. Và ư nghĩa ở
đây là như sau: Chư Tỷ-kheo, đồ mồi
đồng nghĩa với năm dục trưởng
dưỡng. Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy
mồi đồng nghĩa với Ác ma. Chư Tỷ-kheo,
các quyến thuộc của người thợ săn bẫy
mồi đồng nghĩa với quyến thuộc của
Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các đàn nai đồng nghĩa với
các Sa-môn, Bà-la-môn.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu tiên xâm nhập, tham đắm ăn các
đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn
các món ăn, nên trở thành mê loạn; v́ mê loạn, họ
trở thành phóng dật; v́ phóng dật, họ trở thành
những người bị làm theo ư Ác ma muốn giữ ác
đồ mồi này và giữ ác vật dụng thế
gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn
đầu tiên này không thoát được như ư lực của
Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu
tiên này giống như đàn nai đầu tiên trong thí dụ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu tiên này đă xâm nhập, tham đắm
ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng
thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm
ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; v́ mê loạn, họ
trở thành phóng dật; v́ phóng dật, họ trở thành
những người bị làm theo ư Ác ma muốn giữ ác
đồ mồi ấy và giữ ác vật dụng thế
gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này
đă không thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Vậy,
chúng ta hăy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi và các vật
dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng
sợ hăi, đi sâu vào rừng và an trú". Họ hoàn toàn từ
bỏ các đồ mồi, các vật dụng thế gian,
từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu
vào rừng và an trú. Ở đây, họ trở thành những
người ăn cỏ lúa, ăn lúa tắc, những
người ăn gạo lức, những người
ăn hột cải Nivara, những người ăn da vụn,
những người ăn trấu, những người
ăn nước bột gạo, những người
ăn hột vừng, những người ăn cỏ, những
người ăn phân ḅ, những người ăn trái
cây, những người ăn rễ cây trong rừng, những
người ăn trái cây rụng để sống.
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở
thành khan hiếm, thân h́nh của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy
trở thành hết sức gầy yếu. V́ thân h́nh hạng
Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu,
nên sức lực tinh tấn của họ bị kiệt
quệ. V́ sức lực tinh tấn bị kiệt quệ,
nên tâm giải thoát bị kiệt quệ. V́ tâm giải thoát
bị kiệt quệ, họ trở lui lại các đồ
mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở
đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn.
Do ở đây xâm nhập, tham đắm ăn các món
ăn, chúng trở thành mê loạn. Do mê loan họ trở
thành phóng dật. Do phóng dật, họ trở thành những
người bị làm
Này các Tỷ-kheo, ở đây hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn
các đồ mồi được Ác ma gieo ra và các vật
dụng thế gian... (như trên)... Như vậy hạng
Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đă không thoát khỏi
như ư lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ
hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu
tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi
do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế gian... (như
trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên
này đă không thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Vậy
chúng ta hăy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi...
(như trên)... chúng ta từ bỏ hoàn toàn các đồ mồi...
(như trên)..."... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ
hai này cũng không thoát khỏi như ư lực của Ác ma.
Vậy chúng ta hăy làm một chỗ ẩn nấp gần các
đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian. Ở đây, sau khi làm một chỗ ẩn nấp
xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ
ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng
thế gian. Do không xâm nhập, không tham đắm ăn các
món ăn, chúng ta sẽ không trở thành mê loạn. Do không mê
loạn, chúng ta sẽ không trở thành phóng dật. Do không
phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những người
bị làm
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ tư suy nghĩ như sau: "Hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất xâm nhập, tham đắm
ăn các đồ mồi của Ác ma và các vật dụng
thế gian... như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn này không
thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ nhất... (như trên)... Như vậy, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất không thoát được
như ư lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hăy từ bỏ
hoàn toàn các món ăn bẫy mồi... (như trên)...".
Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai không thoát khỏi
như ư lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba
suy nghĩ như sau : "...(như trên)... Như vậy, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba không thoát khỏi như ư lực của
Ác ma. Vậy chúng ta hăy làm chỗ ẩn nấp tại một
nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến
được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy
xong, chúng ta sẽ không xâm nhập, không tham đắm ăn
các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ
ăn nên chúng ta không trở thành mê loạn. Do không mê loạn,
chúng ta không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng
ta không trở thành những người bị làm
Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến
thuộc không thể đến được? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất
thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma
mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không c̣n
dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường
đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Như vậy gọi
là vị Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt
của Ác ma, không c̣n dấu tích, khiến Ác ma không thấy
đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ
ba. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)...
đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt
hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như
trên)...đường đi lối về. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc
tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại
tưởng không tác ư đối với dị tưởng.
Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng
và trú Không vô biên xứ. Như vậy gọi là Tỷ-
kheo...(như trên)... đường đi lối về. Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi
Không vô biên xứ, nghĩ rằng "Thức là vô biên",
chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, gọi
là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối
về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt
lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có
một vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)...
đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)...
đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ
tưởng (định), sau khi thấy (mọi vật) với
trí tuệ, các lậu hoặc được diệt trừ.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác mà
mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không c̣n
dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường
đi lối về. Vị ấy đă vượt khỏi
tham trước ở đời.