26.
(Ariyapariyesanasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, vườn ông Anathapindika, (
– Hiền giả, đă lâu chúng tôi chưa
được tận mặt nghe
– Các Tôn giả hăy đến chỗ Bà-la-môn Rammaka
ở, và các Tôn giả sẽ được tận mặt
nghe Thế Tôn thuyết pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
–
– Thưa vâng, bạch
Tôn giả Ananda vâng đáp
–
– Thưa vâng, bạch
Tôn giả Ananda vâng đáp
– Bạch Thế Tôn, tinh thất của Bà-la-môn
Rammaka không xa; bạch Thế Tôn, tịnh thất của
Bà-la-môn Rammaka là khả ái; bạch Thế Tôn, tịnh thất
của Bà-la-môn Rammaka là khả lạc; bạch Thế Tôn,
lành thay, nếu Thế Tôn v́ ḷng từ bi đi đến tịnh
thất của Bà-la-môn Rammaka!
– Này các Tỷ-kheo, các Người nay hội họp
bàn vấn đề ǵ? Và câu chuyện ǵ giữ ác Người
bị gián đoạn?
–
– Này các Tỷ-kheo, lành thay khi Thiện nam tử
các Người, v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, cùng nhau hội họp để
luận bàn đạo pháp. Này các Tỷ-kheo, khi các Người
hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm:
luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của
bậc Thánh.
Này các Tỷ-kheo, có hai sự tầm cầu này:
Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỷ-kheo, và thế
nào là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người tự ḿnh bị sanh lại t́m cầu cái bị
sanh, tự ḿnh bị già lại t́m cầu cái bị già, tự
ḿnh bị bệnh... tự ḿnh bị chết... tự ḿnh
bị sầu... tự ḿnh bị ô nhiễm lại t́m cầu
cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, cái ǵ
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có người tự ḿnh bị
sanh, sau khi biết rơ sự nguy hại của bị sanh,
t́m cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn; tự ḿnh bị già, sau khi biết rơ sự
nguy hại của bị già, t́m cầu cái không già, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự ḿnh bị
bệnh... cái không bệnh... tự ḿnh bị chết... cái
bất tử... tự ḿnh bị sầu... cái không sầu...
tự ḿnh bị ô nhiễm, sau khi biết rơ sự nguy hại
của ô nhiễm, t́m cầu cái không ô nhiễm, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo,
như vậy, gọi là Thánh cầu.
Này các Tỷ-kheo, T ũng vậy, trước khi
Giác Ngộ, khi chư hứng Chánh Đẳng Giác, khi c̣n là
Bồ-tát, tự ḿnh bị sanh lại t́m cầu cái bị
sanh, tự ḿnh bị già, lại t́m cầu cái bị già, tự
ḿnh bị bệnh... tự ḿnh bị chết... tự ḿnh
bị sầu"... tự ḿnh bị ô nhiễm lại t́m
cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy
nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự ḿnh bị sanh lại
t́m cầu cái bị sanh, tự ḿnh bị già... (như
trên)... tự ḿnh bi ô nhiễm lại t́m cầu cái bị ô
nhiễm? Vậy Ta, tự ḿnh bị sanh, sau khi biết rơ sự
nguy hại của bị sanh, hăy t́m cầu cái không sanh vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự
ḿnh bị già... cái không già... tự ḿnh bị bệnh... cái
không bệnh... tự ḿnh bị chết... cái bất tử...
tự ḿnh bị sầu... cái không sầu... tự ḿnh bi ô
nhiễm, sau khi biết rơ sự nguy hại củ ái bị
nhiễm, hăy t́m cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian,
khi T ̣n trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ
huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc
đời, mặc dầu cha mẹ không bằng ḷng, nước
mắt đầy mặt, than khóc, T ạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh. Ta xuất gia như vậy, một người
đi t́m cái ǵ chí thiện, t́m cầu vô thượng tối
thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi t́m cái ǵ
chí thiện, t́m cầu vô thượng tối thắng an tịnh
đạo lộ. Ta đi đến chỗ
Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi t́m cái ǵ chí thiện,
t́m cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo
lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt
đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần
loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm
khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng
chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng
khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng
đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ:
"Thật là một địa điểm khả ái, một
khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với
một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có
làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật
là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử
tha thiết tinh cần có thể tinh tấn". Và này các Tỷ-kheo,
Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: "Thật
là vừa đủ để tinh tấn".
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự ḿnh bị sanh,
sau khi biết rơ sự nguy hại củ ái bị sanh, t́m cầu
cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn và đă chứng được cái không sanh, vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự
ḿnh bị già, sau khi biết rơ sự nguy hại củ ái bị
già, t́m cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết-bàn; và đă chứng được
cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn; tự ḿnh bị bệnh, sau khi biết rơ sự
nguy hại củ ái bị bệnh, t́m cầu cái không bệnh,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn
và đă chứng được cái không bệnh, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự ḿnh bị
chết, sau khi biết rơ sự nguy hại củ ái bị
chết, t́m cầu cái không chết, vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đă chứng
được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết-bàn; tự ḿnh bị sầu, sau khi biết
rơ sự nguy hại củ ái bị sầu, t́m cầu cái
không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn và đă chứng được cái vô sầu, vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự
ḿnh bị ô nhiễm, sau khi biết rơ sự nguy hại củ
ái bị ô nhiễm, t́m cầu cái không bị ô nhiễm, vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và
đă chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng
an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến
khơi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị
dao động. Nay là đời sống cuối cùng của
Ta, không c̣n sự tái sanh nữa.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau:
"Pháp này do T hứng được, thật là sâu kín, khó
thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu
lư luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu
thấu. C̣n quần chúng này th́ ưa ái dục, khoái ái dục,
ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục,
khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy
được định lư Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh
Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức
là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ
tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác
không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ năo cho
Ta, như vậy thật bực ḿnh cho Ta!" Này các Tỷ-kheo,
rồi những kệ bất khả tư ngh́, từ
trước chưa từng được nghe, được
khởi lên nơi Ta:
Sao Ta nói Chánh pháp,
Được chứng
ngộ khó khăn?
Những ai c̣n tham
sân,
Khó chứng ngộ
pháp này.
Đi ngược
ḍng, thâm diệu,
Khó thấy, thật
tế nhị,
Kẻ ái nhiễm
vô minh,
Không thấy
được pháp này.
Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư
như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ
động, không muốn thuyết pháp. Này các Tỷ-kheo, lúc
bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được
tâm tư của Ta; với tâm tư của ḿnh, liền suy
nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế
giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác hướng về vô vi thụ
động, không muốn thuyết pháp". Rồi này các Tỷ-kheo,
Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi
cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy,
vị ấy biến mất từ thế giới Phạm
thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi
Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai
chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: "Bạch
Thế Tôn, hăy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hăy thuyết
pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bi
nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu
được nghe), những vị này có thể thâm hiểu
Chánh pháp". Này các Tỷ-kheo, Phạm thiện Sahampati nói
như vậy. Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:
Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất
tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác
thành.
Hăy mỡ tung mở
rộng,
Cánh cửa bất
tử này.
Hăy để họ
nghe Pháp,
Như đứng
trên tảng đá,
Trên đỉnh núi
(tột cao)
Có người
đứng nh́n xuống,
Đám chúng sanh quây
quần.
Cũng vậy, ôi
Thiện Tuệ,
Bậc Biến
Nhăn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu
đài,
Xây dựng bằng
Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu
muộn,
Nh́n xuống
đám quần sanh,
Bị sầu khổ
áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Đứng lên vị
Anh Hùng,
Vị trưởng
đoàn lữ khách,
Hăy đi khắp
thế giới,
Hăy thuyết vi diệu
pháp,
Người nghe sẽ
thâm hiểu!
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời
Phạm thiên yêu cầu, v́ ḷng từ bi đối với
chúng sanh, với Phật nhăn, Ta nh́n quanh thế giới. Này
các Tỷ-kheo, với Phật nhăn, Ta thấy có hạng chúng
sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi
đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng
thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và
một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh
thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành
động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ
sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh,
sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn
lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt
nước, được nuôi dưỡng dưới
nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng
sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,
sống vươn lên tới mặt nước. Có một
số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới
nước, lớn lên dưới nước, vươn
lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm
ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật
nhăn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời,
nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi
căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có
hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy
sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự
nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và
này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm
thiên Sahampati:
Cửa bất tử
rộng mở,
Cho những ai chịu
nghe.
Hăy từ bỏ
tín tâm,
Không chính xác của
ḿnh.
Tự nghĩ
đến phiền toái,
Ta đă không muốn
giảng,
Tối thượng
vi diệu pháp,
Giữ húng sanh loài
Người.
(Ôi Phạm thiên)
Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati tự
nghĩ: "Ta đă tạo cơ hội cho
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Ta
sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu
Chánh pháp này? Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ:
"Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng
suốt, đă từ lâu sống ít nhiễm bụi đời.
Ta hăy thuyết pháp đầu tiên cho
Này các Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại đạo
tên là Upaka, đă thấy Ta khi T ̣n đi trên con đường
giữa Gaya và cây Bồ-đề.
Sau khi thấy, vị ấy nói với Ta:
"– Các căn của Hiền giả thật
sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh,
thật thanh khiết.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với tà
mạng đạo Upaka bài kệ như sau:
"– Ta, bậc Thắng
tất cả,
Ta, bậc Nhất
thiết Trí.
Hết thảy
pháp, không nhiễm,
Hết thảy
pháp, xả ly.
Ta sống chân giải
thoát,
Đoạn tận
mọi khát ái.
Như vậy Ta tự
giác,
C̣n phải y chỉ
ai?
Ta không có Đạo
Sư,
Bậc như Ta
không có.
Giữa thế giới
Nhơn, Thiên,
Không có ai bằng
Ta.
Bậc Ứng Cúng
trên đời,
Bậc Đạo
Sư vô thượng.
Tự ḿnh Chánh
Đẳng Giác,
Ta an tịnh, thanh
thoát.
Để chuyển
bánh xe Pháp.
Ta đến thành
Kàsi.
Gióng lên trống bất
tử,
Trong thế giới
mù ḷa.
"–
"– Như Ta, bậc
Thắng giả,
Những ai chứng
lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp
phục,
Do vậy, Ta vô
địch".
(
Này các Tỷ-kheo, sau khi được nói vậy,
tà mạng ngoại đạo Upaka nói với Ta:
"–
Nói xong, Upaka lắc đầu rồi
– Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi
đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển,
đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này các Tỷ-kheo,
nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến,
đă cùng nhau thỏa thuận như sau: "Này các Hiền
giả, nay Sa-môn Gotama đang đi đến; vị này sống
trong sự sung túc, đă từ bỏ tinh cần, đă trở
lui đời sống đầy đủ vật chất.
Chúng t hớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy,
chớ có lấy y bát. Hăy đặt một chỗ ngồi,
và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi".
Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần,
năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều
đă thỏa thuận với nhau. Có người đến
đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt
chỗ ngồi, có người đem nước rử hân
đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với
danh từ Hiền giả (Avuso). này các Tỷ-kheo khi ta nghe
nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
– "– Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng
tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo
nói Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp sống
này, với đạo tu này, với khổ hạnh này, Hiền
giả đă không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến,
thù thắng xứng đáng bậc Thánh, th́ này làm sao Hiền
giả, với nếp sống sung túc, với sự từ
bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống
vật chất đầy đủ, lại có thể chứng
được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng
đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với
nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai, nhóm
năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp sống
này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc
Thánh?
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai Ta nói với
nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ ba, nhóm
năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp sống
này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc
Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với
nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, từ trước đến
nay, các Ông có chấp nhận là T hưa bao giờ nói như
vậy chăng?
"– Bạch Thế Tôn chưa bao giờ như
vậy.
"– Này các Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, Ta đă làm cho nhóm năm Tỷ-kheo
chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho
hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Đồ
ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ
nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết
giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực..
Đồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về,
đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo,
chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng,
sau khi được Ta khuyến giáo, tự ḿnh bi sanh, sau
khi biết được sự nguy hại củ ái bị
sanh, t́m cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi
các (khổ) ách, chứng Niết-bàn và đă chứng
được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi
các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, tự ḿnh bị già...
cái không già... tự ḿnh bị bệnh... cái không bệnh... tự
ḿnh bị chết... cái không chết... tự ḿnh bi sầu...
cái không sầu... tự ḿnh bị ô nhiễm, sau khi biết
được sự nguy hại củ ái bị ô nhiễm,
t́m cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát
khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, và đă chứng
được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn,
thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến
khởi lên nơi họ: "Sự giải thoát củ húng
ta không bị dao động, đây thức ǵ được
hiện khởi như vậy đều quy là đời sống
cuối cùng. Nay không c̣n tái sanh nữa".
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng
dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận
thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc,
khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn. Các tiếng do
tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi
nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức...
các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc,
khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo,
như vậy, là năm dục trưởng dưỡng.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc,
bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục
trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại
củ húng, không biết rơ sự xuất ly khỏi chúng, mà
thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải
được hiểu là: "Các Người đă rơi
vào bất hạnh, đă rơi vào tai họa, đă bị
Ác ma sử dụng như ư muốn". Này các Tỷ-kheo,
như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy
nằm xuống, con nai ấy cần phải được
hiểu là: "Nó đă rơi vào bất hạnh, đă
rơi vào tai họa, đă bị thợ săn sử dụng
như ư muốn. Khi người thợ săn đến,
con nai không thể bỏ đi như ư muốn. Này các Tỷ-kheo,
cũng vậy, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị
trói buộc... (như trên)... đă bị Ác ma sử dụng
như ư muốn. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị
mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy
sự nguy hại củ húng, biết rơ sự xuất ly khỏi
chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần
phải được hiểu là: "Các Người không
rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bi
Ác ma sử dụng như ư muốn". Này các Tỷ-kheo,
như một con nai sống trong rừng, không bị sập
bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải
được hiểu là: "Nó không rơi vào bất hạnh,
nó không rơi vào tai họa, nó không bị người thợ
săn sử dụng như ư muốn". Khi người
thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi
như ư muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc... không bị Ác ma
sử dụng như ư muốn.
Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống trong rừng,
đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó
đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy?
Này các Tỷ-kheo, v́ nó vượt khỏi tầm tay của
người thợ săn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc,
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy được gọi là: một vị đă làm Ác
Ma mù mắt, đă diệt trừ mọi vết tích, đă
vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại
nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất
tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi
là... đă vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
được gọi là... đă vượt khỏi tầm
mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là...
vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt
lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi
chướng ngại tưởng, không tác ư đối với
dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư
không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là... đă vượt
khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại
nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ,
nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức
Vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được
gọi là... đă vượt khỏi tầm mắt của
Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt
lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có
vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là...
đă vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các
Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi
Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy
được gọi là...đă vượt khỏi tầm
mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo
vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau
khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được
đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
được gọi là một vị đă làm Ác ma mù mắt,
đă diệt trừ mọi vết tích, đă vượt
khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đă vượt
khỏi mọi triền phược ở đời. An
tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm
vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. V́ sao vậy?
Này các Tỷ-kheo, v́ vị ấy vượt khỏi tầm
tay của Ác ma.
27.
(Culahatthipadopamasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ)
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (
– Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm
như vậy?
– Tôn giả, tôi từ
– Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotam ó
trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc
có trí không?
– Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết
– Tôn giả Vacchayana thật sự tán thán
–
–
–
Khi được nói vậy, Bà-la-môn Janussoni, từ
cỗ xe toàn trắng do ngự ái kéo, bước xuống,
đắp thượng y lên một bên vai, chấp tay
hướng về
– Này Bà-la-môn, ví dụ dấu chân voi như vậy
chưa được đầy đủ một cách rộng
răi. Này Bà-la-môn, với tầm mức như thế nào ví dụ
dấu chân voi được đầy đủ một
cách rộng răi, hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ nói:
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Janussoni vâng đáp
– Này Bà-la-môn, ví như một người săn
voi vào một khu rừng có voi ở. Người đó thấy
một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài
và rộng bề ngang. Nếu người đó là một
thợ săn voi thiện xảo, người đó không
đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn
to lớn". V́ sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có
những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có
thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người
đó
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây Như Lai
sanh ra ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí,
Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này, cùng với
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người... khi
đă chứng ngộ, Ngài c̣n tuyên thuyết điều Ngài
đă chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy
đủ. Ngài giảng dạy phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ, trong sạch. Người gia trưởng,
hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy, sau khi nghe Pháp,
người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có
ḷng tín ngưỡng, vị này suy nghĩ: "Đời sống
gia đ́nh đầy những triền phược, con
đường đầy những bụi đời.
Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không.
Thật rất khó cho một người sống ở gia
đ́nh có thể sống
Khi đă xuất gia như vậy, vị ấy
thành tựu học giới và nếp sống các Tỷ-kheo,
từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ
kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương
xót tất cả chúng sanh và các loài hữu t́nh, từ bỏ
lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ
lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật
đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp,
từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh,
sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục
tục pháp, từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời
chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn,
đáng tin cậy, không phản lại đời, từ bỏ
nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều
ǵ ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để
sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều
ǵ ở chỗ kia, không đi nói với những người
này để sanh chia rẽ ở những người kia.
Vị ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, khuyến
khích những kẻ ḥa hợp, hoan hỷ trong ḥa hợp,
thoải mái trong ḥa hợp, hân hoan trong ḥa hợp, nói những
lời đưa đến ḥa hợp. Vị ấy từ
bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc
ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại,
dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp
ḷng nhiều người, vui ḷng nhiều người, vị
ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ
bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói
đúng thời, nói những lời chân thật, nói những
lời có ư nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói
những lời về Luật, nói những lời đáng
được ǵn giữ, những lời hợp thời,
thuận lư, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hột
giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa,
không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời; từ
bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc tŕnh diễn; từ
bỏ trang sức bằng ṿng hoa hương liệu, dầu
thoa, các thời trang, các thời sức; từ bỏ dùng
giường cao và giường lớn; từ bỏ nhận
các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ
bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ
gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận
gi ầm và heo; từ bỏ nhận voi, ḅ, ngựa và ngự
ái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất
đai; từ bỏ nhận người môi giới hoặc
tự ḿnh làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ
các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo
lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ,
gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm thương tổn,
sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp,
cướp phá. Vị ấy bằng ḷng (tri túc) với tấm
y để che thân, với đồ ăn khất thực
để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này,
thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này, và thành tựu Thánh
chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng,
tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang
đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau
khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy
ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên,
và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ
bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham
ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận,
vị ấy sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn
thương xót tất cả chúng hữu t́nh, gột rửa
tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên,
vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với
tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh
giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ
bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không
trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa
tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ,
vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân
lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp.
Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm
cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược ly dục,
ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm
có tứ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của
Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt
chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không
đi đến kết luận: "
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng
minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, mười đời,
hai mươi đời, ba mươi đời, bốn
mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời,
nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại
và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ
kia, t ó tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai
cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau
khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại
chỗ nọ. Tại chỗ ấy, t ó tên như thế
này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ
đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây".
Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết.
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của
Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt
chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử
không đi đến kết luận: "
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ
về sanh tử củ húng sanh. Vị ấy với thiên
nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết
củ húng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những
chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ
báng các bậc Thánh,
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của
Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt
chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử
không đi đến kết luận: "
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy,
vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu
tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây
là Khổ", biết như thật: "Đây là Nguyên
nhân của khổ", biết như thật: "Đây
là sự Khổ diệt", biết như thật:
"Đây là Con đường đưa đến khổ
diệt", biết như thật: "Đây là những
lậu hoặc", biết như thật: "Đây là
nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật:
"Đây là các lậu hoặc diệt", biết
như thật: "Đây là con đường đưa
đến các lậu hoặc diệt".
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của
Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt
chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử
không đi đến kết luận: "
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ
thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát
như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta
đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh
đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần
làm đă làm, không có trở lui đời sống này nữa".
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của
Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt
chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ
này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận:
"Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được
Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành
tŕ". Này Bà-la-môn, tới mức độ này, ví dụ dấu
chân con voi thật sự được đầy đủ
một cách rộng răi.
Được nghe nói vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng
đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống,
phơi bày ra những ǵ che kín, chỉ đường cho
người bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được
Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện tŕnh bày, giải
thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng Tỷ-kheo
Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử,
từ nay trở đi cho đến mệnh chung, con trọn
đời quy ngưỡng!
28. ĐẠI
(Mahahatthipadopamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời,
– Này các Hiền giả Tỷ-kheo!
– Thưa vâng, Hiền giả.
– Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu
chân của mọi loại động vật đều
thâu nhiếp trong dấu chân voi, v́ dấu chân này được
xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về
phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền
giả, tất cả các Thiện pháp đều tập
trung trong
Chư Hiền, thế nào là
Chư Hiền, thế nào là địa giới?
Có nội địa giới, có ngoại địa giới.
Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Cái
ǵ thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị
chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật
ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng,
bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi
là nội địa giới. Những ǵ thuộc nội
địa giới và những ǵ thuộc ngoại địa
giới đều thuộc về địa giới. Cần
phải như thật quán sát địa giới với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi". Sau khi như thật quán sát địa giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly
đối với địa giới, tâm từ bỏ
địa giới. Chư Hiền, một thời xảy
ra khi ngoại thủy giới dao động, trong thời ấy
ngoại địa giới bị biến mất. Chư
Hiền, tánh vô thường của ngoại địa giới
xưa ấy có thể nêu rơ, tánh hủy hoại có thể
nêu rơ, tánh đoạn diệt có thể nêu rơ, tánh biến dịch
có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến thân thể
yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không
có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.
Chư Hiền, nếu có những người khác mắng
nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo Tỷ-kheo,
vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ khởi
lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này
do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân duyên ǵ? Do nhân
duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy
thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường,
thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường.
Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết
định, tùy thuộc giới đối tượng.
Chư Hiền, nếu những người khác xử sự
với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp,
không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng
đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc
dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như
sau: "Sự thể của thân này là như vậy, nên tay
có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có
thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm.
Chư Hiền, thế nào là thủy giới? Có nội
thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền
thế nào là nội thủy giới? Cái ǵ thuộc về nội
thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất
lỏng, bị chấp thủ, như mật, (viêm đàm dịch)
mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da,
nước miếng, nước mủ, nước ở
khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật
ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước,
thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền,
như vậy gọi là nội thủy giới. Những ǵ
thuộc nội thủy giới và những ǵ thuộc ngoại
thủy giới, đều thuộc về thủy giới.
Cần phải như thật quán sát thủy giới với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi". Sau khi như thật quán sát thủy giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly
đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy
giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại
thủy giới dao động, nước cuốn trôi
làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn trôi thành phố, cuốn
trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một
thời xẩy ra khi nước biển đại
dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ
thấp hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần,
hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ thấp
năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần,
hạ thấp bảy trăm do-tuần. Chư Hiền, một
thời xẩy ra khi nước biển đại
dương dâng cao đến bảy cây ta-la, dâng cao đến
sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây ta-la, dâng cao đến
bốn cây ta-la, dâng cao đến b ây ta-la, dâng cao đến
hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư
Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển
đại dương cao đến bảy đầu
người, dâng cao đến sáu đầu người,
dâng cao đến năm đầu người, dâng cao
đến bốn đầu người, dâng cao đến
ba đầu người, dâng cao đến hai đầu
người, dâng cao chỉ đến một đầu
người. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi
nước biển đại dương dâng cao đến
nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng
cao chỉ đến đầu gối, dâng cao chỉ
đến gót chân. Chư Hiền, một thời xẩy ra
khi nước biển đại dương không có để
thấm ướt đốt ngón chân. Chư Hiền, tánh
vô thường của ngoại thủy giới xưa ấy
có thể nêu rơ; tánh hủy hoại có thể nêu; tánh đoạn
diệt có thể nêu rơ; tánh biến dịch có thể nêu
rơ... (như trên)... và xả tương ứng với thiện
được an trú. Chư Hiền, cho đến mức
độ này, vị Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội
hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền,
thế nào là nội hỏa giới? Cái ǵ thuộc về nội
thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất
nóng, bị chấp thủ. Như cái ǵ khiến cho hâm nóng,
khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy; cái ǵ khiến
cho những vật được ăn uống, nhai, nếm,
có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật ǵ
khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa,
thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền,
như vậy gọi là nội hỏa giới. Những ǵ
thuộc nội hỏa giới và những ǵ thuộc ngoại
hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới.
Cần phải như thật quán sát hỏa giới với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi". Sau khi như thật quán sát hỏa giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly
đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa
giới. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi hỏa
giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy thị
trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc
độ. Lử háy cho đến cuối hàng cây cối,
cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến
cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên,
hay cho đến cuối hàng khu đất khả ái, rồi
lửa bị tắt v́ không nhiên liệu. Chư Hiền, một
thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa
phải dùng lông gà và dây gân. Chư Hiền, tánh vô thường
của ngoại hỏa giới xưa ấy có thể nêu
rơ; tánh hủy hoại có thể nêu rơ; tánh đoạn diệt
có thể nêu rơ; tánh biến dịch có thể nêu rơ...
(như trên)... và xả tương ưng với thiện
được an trú. Chư Hiền, cho đến mức
độ này, Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội
phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế
nào là nội phong giới? Cái ǵ thuộc về nội thân,
thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động tánh, bị
chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống,
gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi
ngang các chi tiết (tay chân), hơi thở vô, hơi thở
ra, và bất cứ vật ǵ khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp
thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội phong
giới. Những ǵ thuộc nội phong giới và những
ǵ thuộc ngoại phong giới đều thuộc về
phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới
với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi". Sau khi thấy như thật phong giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly
đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới.
Chư Hiền, một thời xẩy ra khi ngoại phong giới
dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn,
thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc
độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi trong
tháng cuối mùa hạ, loài người t́m cầu gió nhờ
lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong t́m
được cỏ tại chỗ có rạch nước
chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại
phong giới xưa ấy có thể nêu rơ; tánh hủy hoại
có thể nêu rơ; tánh đoạn diệt có thể nêu rơ; tánh
biến dịch có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến
thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở
đây không có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi,
hay tôi là. Chư Hiền, nếu có những người khác
mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo
Tỷ-kheo, vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ
khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này
do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên ǵ? Do nhân
duyên xúc vậy". Vị ấy thấy xúc là vô thường;
vị ấy thấy thọ là vô thường; vị ấy
thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy
hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô
thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh
chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối
tượng. Chư Hiền, nếu những người
khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không
có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm,
hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm,
hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết
như sau: "Sự thể của thân này là như vậy
nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy
có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm".
Thế Tôn đă dạy như sau trong ví dụ cái cưa:
"Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp
hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng
phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ư phẫn nộ
th́ người ấy không làm đúng lời ta dạy".
Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đăi, niệm
được an trú, không có loạn niệm, thân thể
được khinh an, không dao động, tâm được
định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm
thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm,
mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy
chư Phật cần phải được thực
hành". Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật
như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng
như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện
không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao
động, bị dao động mạnh: "Thật bất
hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta,
thật không tốt đẹp cho ta. Dầu t ó niệm Phật
như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng
như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện
không được an trú". Chư Hiền, ví như một
người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động,
bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền,
nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm
Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả
tương ưng với thiện không được an
trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao
động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật
không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt
đẹp cho ta. Dầu t ó niệm Phật như vậy,
niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy,
nhưng xả tương ưng với thiện không
được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ-
Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp
như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả
tương ưng với thiện được an trú. Do
vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư
Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo
đă làm thật nhiều.
Chư Hiền, như một khoảng trống
được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi
cỏ, bởi bùn, được biết là một nhà ở.
Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống
được bao vây bởi xương, bởi dây gân, bởi
thịt, bởi da, được biết là một sắc
pháp. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư
hại, nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt,
không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức
phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền,
nếu nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc
vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm
thích hợp, th́ thức phần thích hợp không có hiện
khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội mắt không bị
hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự
quy tục xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp
có hiện khởi. Bất cứ sắc pháp ǵ được
hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc
thủ uẩn; bất cứ cảm thọ ǵ được
hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ
thủ uẩn; bất cứ tưởng ǵ được
hiện khởi như vậy đều được
quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ
hành ǵ được hiện khởi như vậy đều
quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức ǵ
được hiện khởi như vậy đều
quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ
tri như sau: "Như vậy, như người ta nói,
có sự quy tụ, sự tập hợp, sự ḥa hợp
của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đă nói như
sau: "Ai thấy được lư duyên khởi, người
ấy thấy được pháp; ai thấy được
pháp, người ấy thấy được lư duyên khởi".
Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn.
Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê
say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự
nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục
tức là sự khổ diệt". Cho đến mức
độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đă làm rất nhiều.
Chư Hiền, nếu nội tại không bị
hư hại... nếu lỗ mũi không bị hư hại...
nếu lưỡi không bị hư hại... nếu thân
không bị hư hại... nếu nội ư căn không bị
hư hại nhưng ngoại pháp không vào trong tầm của
ư căn, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́
thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư
Hiền, nếu nội ư căn không bị hư hại,
ngoại pháp vào trong tầm của ư căn, nhưng không có
sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần
thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ
khi nào nội ư căn không bị hư hại, ngoại pháp
vào trong tầm của ư căn, có sự quy tụ xúc chạm
thích hợp, th́ thức phần thích hợp có hiện khởi.
Bất cứ pháp ǵ được hiện khởi như
vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất
cứ cảm thọ ǵ được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn;
bất cứ tưởng ǵ được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ
uẩn; bất cứ hành ǵ được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn;
bất cứ thức ǵ được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy,
như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập
họp, sự ḥa hợp của năm thủ uẩn này.
Thế Tôn đă nói như sau: "Ai thấy được
lư duyên khởi, người ấy thấy được
pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy
được lư duyên khởi". Những pháp này do duyên
khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục,
chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ
uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục
tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự
khổ diệt". Cho đến mức độ này,
chư Hiền, Tỷ-kheo đă làm rất nhiều.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả
Sariputta dạy.
29. ĐẠI KINH THÍ DỤ LƠI CÂY [^]
(Mahasaropamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha
(Vương Xá), núi Gijjhakuta (Linh Thứu), khi Devadatta (Đề-bà-đạt-đa)
từ bỏ (Chúng Tăng) ra đi không bao lâu. Ở đây,
nhân việc Devadatta, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và dạy
như sau:
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử
do ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không
gia đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong
đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất
có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt
được". Vị ấy xuất gia như vậy,
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng.
Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị
ấy hoan hỷ, măn nguyện. Do lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, vị ấy khen ḿnh, chê người:
"Ta được lợi dưỡng như vậy,
được danh vọng như vậy. C̣n các Tỷ-kheo
khác ít được biết đến, ít có uy quyền".
Vị ấy, v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
ví như một người muốn được lơi cây,
t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người ấy
bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ
qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng
rằng đó là lơi cây. Một người có mắt thấy
vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết
lơi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết
vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người này bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy
chúng mang đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Và người
này không đạt mục đích mà lơi cây có thể thành tựu".
Cũng vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện
nam tử v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, năo bị chi phối bởi
đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn
này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia
như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
vị ấy hoan hỷ, tự măn. Do lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen ḿnh, chê người:
"Ta được lợi dưỡng như vậy,
được danh vọng như vậy, C̣n các Tỷ-kheo
khác ít được biết đến, ít có uy quyền".
Vị ấy v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đă nắm
lấy cành lá của phạm hạnh, v́ do vậy, vị ấy
đă dừng lại (ở đây). Nhưng ở đây,
này các Tỷ-kheo, có vị thiện nam tử v́ ḷng tin xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh: "Ta
bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu năo, bị ch́m đắm trong đau khổ, bị
chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị
ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen ḿnh, chê người.
Vị ấy không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức.
Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ,
tự măn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy
khen ḿnh chê người: "Ta là người tŕ giới,
theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác
pháp". Do thành tựu giới đức này, vị ấy
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
ví như một người muốn được lơi cây,
t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người ấy
bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt
vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lơi
cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói:
"Thật sự người này không biết lơi cây, không
biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ
ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được
lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước
một cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người
này bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong,
chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng
đó là lơi cây. Và người này không đạt mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu". Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo v́ ḷng tin xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh...
(như trên)... Do thành tựu giới đức này, vị ấy
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đă nắm
lấy vỏ ngoài của phạm hạnh. Và do vậy, vị
ấy đă dừng lại (ở đây).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện
nam tử v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong ṿng sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ ưu, năo, bị ch́m đắm
trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ.
Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm
dứt được". Rồi vị ấy xuất
gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, khen ḿnh, chê người. Vị ấy
không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật,
vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu
giới đức này, vị ấy hoan hỷ, nhưng
không tự măn. Do thành tựu giới đức này, vị ấy
không khen ḿnh, chê người. Do thành tựu giới đức
này, vị ấy không trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
thiền định. Do thành tựu thiền định
này, vị ấy hoan hỷ, tự măn. Do thành tựu thiền
định này, vị ấy khen ḿnh chê người: "T ó
thiền định nhất tâm. Các Tỷ-kheo khác không có thiền
định, tâm bị phân tán". Do thành tựu thiền
định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị
đau khổ. Chư Tỷ-kheo, ví như một người
muốn được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi
đi t́m lơi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lơi cây, người ấy bỏ qua lơi cây, bỏ
qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng
đó là lơi cây. Một người có mắt thấy vậy,
bèn nói: "Thật sự người này không biết lơi
cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết
vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn lơi
cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một
cây lớn có lơi cây, người này bỏ qua lơi cây, bỏ
qua giác cây, chặt vỏ trong, mang đi, tưởng đó
là lơi cây. Và người này không đạt được mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu". Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo v́ ḷng tin xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh...
(như trên)... Do thành tựu thiền định này, vị
ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. V́ sống
phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
như vậy vị ấy được gọi là Tỷ-kheo
đă nắm giữ vỏ trong của phạm hạnh. Và
do vậy, vị ấy đă dừng lại (ở
đây).
Lại nữa, ở đây, có Thiện nam tử,
v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không
gia đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong ṿng sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong
đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất
có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự măn. Vị
ấy không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen ḿnh, chê người. Vị ấy không v́ lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
giới đức. Do thành tựu giới đức, vị
ấy hoan hỷ, nhưng không tự măn. Vị ấy không
v́ thành tựu giới đức này khen ḿnh, chê người.
Vị ấy không v́ thành tựu giới đức này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sông không phóng dật,
vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy
do thành tựu Thiền định này nên hoan hỷ nhưng
không tự măn. Vị ấy không v́ thành tựu Thiền
định này khen ḿnh, chê người. Vị ấy không v́
thành tựu Thiền định này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu tri kiến, vị ấy v́ tri kiến này, hoan hỷ,
tự măn. Vị ấy do tri kiến này, khen ḿnh, chê người.
"Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống,
không thấy và không biết". Vị ấy, do tri kiến
này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo,
ví như một người muốn được lơi cây,
t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người bỏ
qua lơi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng đó là lơi
cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói:
"Thật sự người này không biết lơi cây, không
biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ
ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được
lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lơi cây, người ấy bỏ qua
lơi cây, chặt giác cây và mang đi, tưởng đó là lơi
cây. Và người ấy không đạt được mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây, có Thiện nam tử, v́ ḷng tin xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh... Vị
này, v́ tri kiến này nên mê say, tham đắm, phóng dật. V́
sống phóng dật, vị này bị đau khổ. Chư
Tỷ-kheo, như vậy vị này gọi là đă nắm
giữ giác cây của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy
đă dừng lại (ở đây)".
Lại nữa, ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị
Thiện nam tử, v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh: "Ta bị ch́m đắm
trong ṿng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo, bị
ch́m đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi
đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn
này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia
như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy không v́ lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này hoan hỷ, tự măn. Vị ấy không
v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen ḿnh, chê
người. Vị ấy không v́ lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật.
Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới
đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy
hoan hỷ nhưng không tự măn. Vị ấy không v́ thành tựu
giới đức này khen ḿnh, chê người. Vị ấy
không v́ thành tựu giới đức này trở thành mê say,
tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị
ấy thành tựu Thiền định, vị ấy do
thành tựu Thiền định này, hoan hỷ nhưng không
tự măn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định
này khen ḿnh, chê người. Vị ấy không do thành tựu
Thiền định này trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
tri kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ
nhưng không tự măn. Vị ấy không v́ thành tựu tri
kiến này khen ḿnh, chê người. Vị ấy không v́
thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
thời giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự t́nh này có thể
xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ thời
giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy chặt lơi cây, mang đi và biết
đó là lơi cây. Một người có mắt thấy như
vậy, có thể nói: "Người này biết lơi cây, biết
giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành
lá. Người này muốn được lơi cây, t́m cầu
lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lơi cây, người ấy chặt
lơi cây, mang đi và tự biết đó là lơi cây. Và người
ấy đạt được mục đích mà lơi cây có
thể thực hiện". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây một Thiện nam tử, v́ ḷng tin xuất
gia, bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh: "Ta bị
ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, năo, bị ch́m đắm trong khổ đau, bị
chi phối bởi khổ đau. Rất có thể, toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy
xuất gia như vậy, được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự măn. Vị ấy
không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen ḿnh,
chê người. Vị ấy không v́ lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật. Vị ấy thành tựu
giới đức. Vị ấy do thành tựu giới
đức này hoan hỷ nhưng không tự măn. Vị ấy,
không do thành tựu giới đức này khen ḿnh, chê người.
Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật,
vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy
do thành tựu thiền định nên hoan hỷ nhưng
không tự măn. Vị ấy không do thành tựu Thiền
định này khen ḿnh, chê người. Vị ấy không do
thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu tri kiến. Vị ấy v́ thành tựu tri kiến
này nên hoan hỷ nhưng không tự măn. Vị ấy không v́
thành tựu tri kiến này khen ḿnh, chê người. Vị ấy
không v́ thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
được phi thời gian giải thoát. Này chư Tỷ-kheo,
sự t́nh này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể
từ bỏ phi thời giải thoát này.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, phạm hạnh
này không phải v́ lợi ích, lợi dưỡng, danh vọng,
không phải v́ lợi ích thành tựu giới đức,
không phải v́ lợi ích thành tựu thiền định,
không phải v́ lợi ích tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, tâm
giải thoát bất động chính là mục đích của
phạm hạnh này, là lơi cây, là mục tiêu cuối cùng của
phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.