Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
30. TIỂU KINH THÍ DỤ LƠI CÂY [^]
(Culasaropamasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại Savatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (
– Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn này là vị
Hội chủ, vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng
Giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khi Tổ giáo
phái, được quần chúng tôn sùng, như Purana Kassapa,
Makkhali Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta,
Nigantha Nataputta, tất cả những vị này tự
xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải
là nhứt thiết trí, hay một số là nhứt thiết
trí và một số không phải nhứt thiết trí?
– Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn, hăy dừng lại
ở đây: "Tất cả những vị này tự
xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải
là nhứt thiết trí? Hay một số là nhứt thiết
trí và một số không phải nhứt thiết trí?"
Này Bà-la-môn, Ta sẽ thuyết pháp cho Ông, hăy nghe và khéo tác ư,
Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Pingalakoccha vâng đáp
– Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy
chúng mang đi và tưởng rằng đó là lơi cây. Một
người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự
người này không biết lơi cây, không biết giác cây, không
biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết
cành lá. Người này muốn được lơi cây, t́m cầu
lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng có lơi cây, người này bỏ qua lơi
cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ
ngoài, chặt cành lá lấy chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lơi cây. Và người này không đạt mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây,
bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Một người
có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người
này không biết lơi cây, không biết giác cây, không biết vỏ
trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người
này muốn được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trước
một cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người
này bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong,
chặt vơ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lơi cây. Và người này không đạt mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây,
chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lơi cây. Một người có mắt thấy vậy
bèn nói: "Thật sự người này không biết lơi
cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết
vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người này bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, chặt
vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Và
người này không đạt được mục
đích mà lơi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy bỏ qua lơi cây, chặt giác cây
mang đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Một
người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự
người này không biết lơi cây, không biết giác cây, không
biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết
cành lá. Người này muốn được lơi cây, t́m cầu
lơi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng,
có lơi cây, người này bỏ qua lơi cây, chặt giác cây mang
đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Và người
này không đạt được mục đích mà lơi cây có
thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy chặt lơi cây, mang đi và biết
rằng đó là lơi cây. Một người có mắt thấy
vậy, có thể nói: "Người này biết lơi cây, biết
giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành
lá. Người này muốn được lơi cây, t́m cầu
lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lơi cây, người ấy chặt
lơi cây, mang đi và biết rằng đó là lơi cây. Và người
này đạt được mục đích mà lơi cây có thể
thành tựu".
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây, có người
do ḷng tin xuất gia từ bỏ gia đ́nh sống không gia
đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ, Rất có thể
toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự măn. Do lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen ḿnh,
chê người: "Ta được lợi dưỡng
như vậy, được danh vọng như vậy,
c̣n các Tỷ-kheo khác ít được biết đến,
ít có uy quyền". Và vị ấy không phát khởi ḷng ao
ước và không cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này
Bà-la-môn, ví như một người muốn được
lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi cây, trước
một cây lớn, đứng thẳng, có lơi cây, người
ấy bỏ qua lơi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ
trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng đó là lơi cây. Và người ấy
sẽ không đạt được mục đích mà lơi
cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng: Người
này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người v́
ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong đau khổ,
bi chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị
ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự măn. Vị
ấy không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen ḿnh, chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng ao
ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị
ấy thành tựu giới đức. V́ thành tựu giới
đức này, vị ấy hoan hỷ, tự măn. V́ thành tựu
giới đức này, vị ấy khen ḿnh, chê người:
"Ta tŕ giới, theo thiện pháp.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người v́
ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu
bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể
toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không
v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự
măn. Vị ấy không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, khen ḿnh, chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng
ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị
ấy thành tựu giới đức. V́ thành tựu giới
đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự
măn. Vị ấy không v́ thành tựu giới đức này,
khen ḿnh, chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng ao
ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn giới đức. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền
định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy
hoan hỷ, tự măn. Do thành tựu Thiền định
này, vị ấy khen ḿnh, chê người: "T ó Thiền
định, nhứt tâm.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người v́
ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể
toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không
v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự
măn. Vị ấy, không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, khen ḿnh, chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng
ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị
ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới
này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự măn. Vị ấy
không do thành tựu giới đức này, khen ḿnh, chê người.
Vị ấy phát khởi ḷng ao ước và tinh tấn
để chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức.
Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động.
Vị ấy thành tựu Thiền định. V́ thành tựu
Thiền định này, vị ấy hoan hỷ nhưng
không tự măn. Vị ấy không do thành tựu Thiền
định này khen ḿnh, chê người. Vị ấy phát khởi
ḷng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy
không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy
thành tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến này, hoan
hỷ tự măn. Vị ấy, do tri kiến này, khen ḿnh, chê
người: "Ta sống, thấy và biết.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người v́
ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo, bị ch́m đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể
toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Do vị ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không v́ lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự măn. Vị
ấy không v́ lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen ḿnh chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng ao
ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị
ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới
đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự
măn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này,
khen ḿnh, chê người. Và vị ấy phát khởi ḷng ao
ước và cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy
không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy
thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền
định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự măn.
Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen
ḿnh, chê người. Vị ấy phát khởi ḷng ao ước
và tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định.
Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động.
Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến
này hoan hỷ nhưng không tự măn. Vị ấy không do tri
kiến này, khen ḿnh, chê người. Vị ấy phát khởi
ḷng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng
được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động.
Và này Bà-la-môn, những pháp ǵ cao thượng
hơn, thù thắng hơn tri kiến? Ở đây, này
Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc,
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao
thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại
nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng
và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh,
nhất tâm. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, pháp này cao
thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại
nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng
và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng
hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này
Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng,
diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo
nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú
Không vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn,
thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ.
Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú
Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Này Bà-la-môn, pháp này
cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại
nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt
thọ tưởng (định), sau khi thấy với trí
tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ.
Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Này Bà-la-môn, các pháp này cao thượng
hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn
được lơi cây, t́m cầu lơi cây. Trong khi đi t́m lơi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lơi cây, người ấy chặt lơi cây, lấy và mang
đi và tự biết đó là lơi cây. Và người ấy
đạt được mục đích mà lơi cây có thể
thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống
như ví dụ ấy.
Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh này không
phải v́ lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng,
không phải v́ lợi ích thành tựu giới đức,
không phải v́ lợi ích thành tựu Thiền định,
không phải v́ lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải
thoát bất động chính là mục đích của phạm
hạnh này, là lơi cây của phạm hạnh, là mục tiêu
cuối cùng của phạm hạnh.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế
Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như
người dựng đứng lại những ǵ quăng
ngă xuống, phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho kẻ bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
31. TIỂU KINH RỪNG SỪNG B̉ [^]
(Culagosingasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Nadika, tại
Ginjakavasatha. Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà),
Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila trú tại khu vườn
trong rừng Gosing ó nhiều cây ta-la. Rồi Thế Tôn, vào
buổi chiều, sau khi tham thiền, đứng dậy
đi đến khu vườn trong rừng Gosing ó nhiều
cây ta-la. Người giữ vườn thấy Thế Tôn
từ xa đi đến, liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Sa-môn, chớ có vào khu vườn này. Có
ba Thiện nam tử đang trú tại đây, rất ái luyến
tự ngă. Chớ có phiền nhiễu các vị ấy.
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ vườn
nói chuyện với Thế Tôn như vậy liền nói với
người giữ vườn:
– Này người giữ vườn, chớ có
ngăn chận Thế Tôn. Thế Tôn, bậc Đạo
Sư củ húng tôi đă đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả
Nandiya Tôn giả Kimbila và nói:
– Chư Tôn giả hăy đến, chư Tôn giả
hăy đến. Thế Tôn, bậc đạo sư củ
húng ta đă đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả
Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y bát của
Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi,
một người đặt sẵn nước rử
hân.
– Này các Anuruddha, các Ông có được an lành
không? Có được sống yên vui không? Đi khất thực
có khỏi mệt nhọc không?
–
– Này các Anuruddha, các Ông có sống ḥa hợp, hoan hỷ
với nhau, không có căi nhau, như nước với sữa,
sống nh́n nhau với cặp mắt thiện cảm không?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống
ḥa hợp, hoan hỷ với nhau, không có căi nhau, như
nước với sữa, sống nh́n nhau với cặp mắt
thiện cảm.
– Này các Anuruddha, như thế nào các Ông sống ḥa
hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa,
sống nh́n nhau với cặp mắt thiện cảm?
– Bạch Thế Tôn, ở đây, chúng con nghe
như sau: "Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi
ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị
đồng phạm hạnh như vậy". Bạch Thế
Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm
hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp trước
mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp,
trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ư nghiệp,
trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy,
chúng con nghĩ như sau: "Ta hăy từ bỏ tâm của
ta và sống thuận
Rồi Tôn giả Nandiya... (như trên)... rồi
Tôn giả Kimbila bạch
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ
như sau: "Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi
ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị
đồng phạm hạnh như vậy". Bạch Thế
Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm
hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước
mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp,
trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ư nghiệp,
trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy,
chúng con nghĩ như sau: "Ta hăy từ bỏ tâm của
ta và sống thuận
– Lành thay, lành thay, này Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông
có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
– Này các Anuruddha, như thế nào, các Ông sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con, ai
đi làng khất thực về trước, th́ người
ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn
nước uống, nước rử hân, soạn sẵn
một bát để bỏ đồ dư. Ai đi làng khất
thực về sau, th́ người ấy, c̣n đồ
ăn thừa nếu muốn th́ ăn, nếu không muốn
th́ bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào nước
không có loài côn trùng và người ấy xếp dọn lại
các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước
rử hân, cất đi cái bát để bỏ đồ
dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống,
ghè nước rử hân, hay ghè nước trong nhà cầu hết
nước, trống không th́ người ấy sẽ lo liệu
(nước). Nếu ai làm không nổi với sức bàn tay
của ḿnh, th́ người ấy dùng tay ra hiệu gọi
người thứ hai: "Chúng ta hăy lo liệu (nước)".
Dầu vậy, bạch
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các
Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như
vậy, các Ông có chứng được pháp thượng
nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống
thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, sao có thể không được.
Ở đây, bạch
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các
Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an
trú kia, và chứng được một pháp thượng
nhân khác, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc
Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không
được. Ở đây, bạch Thế Tôn, lâu cho
đến khi chúng con muốn, chúng con diệt tầm diệt
tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tĩnh nhất tâm. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt
qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng
được pháp thượng nhân khác, một tri kiến
thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải
mái, an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các
Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an
trú kia, và chứng được một pháp thượng
nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc
Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không
được. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn,
chúng con ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm
lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba, Bạch Thế
Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự
an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng
nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc
Thánh, và sống thoải mái, an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các
Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an
trú kia, và chứng được một pháp thượng
nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc
Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không
được. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn,
chúng con xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu
đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia,
làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được
pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng
đáng bậc Thánh và sống thoải mái an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các
Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an
trú kia, và chứng được một pháp thượng
nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc
Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không
được. Ở đây lâu cho đến khi chúng con muốn,
chúng con vượt lên mọi sắc tưởng, diệt
trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ư
đối với dị tưởng; chúng con nghĩ rằng:
"Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ.
Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia,
làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được
pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng
đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc...
(như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn;
chúng con vượt qua mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ...
(như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn;
chúng con vượt qua mọi Thức vô biên xứ, nghĩ
rằng: "Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu
xứ... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi
chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con
vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
và trú Diệt thọ tưởng định. Sau khi đă
thấy nhờ trí tuệ, các lậu hoặc củ húng con
được đoạn trừ. Bạch Thế Tôn, chúng
con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú
kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân
này, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc
Thánh và sống thoải mái, an lạc. Bạch Thế Tôn,
chúng con không thấy một lạc trú nào khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn sự lạc trú này.
– Lành thay, lành thay, các Anuruddha! Này các Anuruddha, ngoài lạc
trú này, không có một lạc trú nào khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn.
Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Anuruddha, Tôn
giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, khai thị, khích lệ làm
cho hoan hỷ, làm cho phấn khởi, rồi từ chỗ
ngồi đứng dậy ra về. Tôn giả Anuruddha, Tôn
giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, sau khi tiễn đưa
– Chúng tôi không bao giờ nói với Tôn giả
Anuruddha như sau: "Chúng tôi là người đă chứng
và an trú quả này, an trú quả này", và nhờ vậy,
Tôn giả Anuruddha, trước mặt Thế Tôn, đă nêu
rơ (các quả chứng) cho đến sự đoạn trừ
các lậu hoặc.
– Chư Tôn giả không nói với tôi như sau:
"Chúng tôi là người đă chứng và an trú quả
này, an trú quả này", nhưng với tâm của tôi, tôi biết
được tâm củ ác Tôn giả: "Chư Tôn này là
Người đă chứng và an trú quả này, an trú quả
này". Và chư Thiên có nói với tôi về vấn đề
này: "Chư Tôn này là Người đă chứng và an trú
quả này, an trú quả này". Chính nhờ phương tiện
này, các câu mà
Rồi Digha Parajana, một Yakkha (Trường quỷ
Dạ-xoa) đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến,
đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng
một bên, Digha Parajana bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, thật lợi ích thay cho dân
chúng Vajji (Bạt kỳ)! Thật khéo lợi ích thay cho dân
chúng Vajji! V́ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở
đây, và cả ba Thiện nam tử, Tôn giả Anuruddha, Tôn
giả Nandiya và Tôn giả Kimbil ũng vậy.
Sau khi nghe tiếng của Yakkha Digha Parajana, các
địa thần làm cho tiếng này được nghe:
"Chư Hiền giả, thật lợi ích thay cho dân
chúng Vajji! thật khéo lợi ích cho dân chúng Vajji! V́ Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đây và cả
ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya
và Tôn giả Kimbil ũng vậy". Sau khi nghe tiếng củ
ác Địa thần, bốn Thiên vương... (như
trên)... cơi trời Ba mươi ba... Dạ-ma thiên...
Đâu-suất-đà thiên... Hóa lạc thiên... Tha hóa tự tại
thiên... Phạm chúng thiên làm cho tiếng này được
nghe: "Chư Hiền giả, thật lợi ích thay có dân
chúng Vajji! Thật khéo lợi ích thay cho dân chúng Vajji! V́ Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đây, và cả
ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả
Nandiya, và Tôn giả Kimbila". Như vậy, trong giờ
phút này, trong sát-na này, các Tôn giả ấy được biết
cho đến Phạm thiên.
– Sự việc là như vậy, này Digha, sự
việc là như vậy, này Digha, này Digha, nếu gia đ́nh
nào, ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, nghĩ đến ba Thiện
nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, th́ gia đ́nh ấy
sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha,
nếu bà con quyến thuộc của gia đ́nh mà ba Thiện
nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với
tâm niệm hoan hỷ, th́ bà con quyến thuộc của gia
đ́nh mà ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh, nghĩ đến ba thiện
nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, th́ bà con quyến
thuộc của gia đ́nh ấy sẽ được an lạc,
hạnh phúc lâu dài. Này Digha, nếu làng nào... nếu xă ấp
nào... nếu thành phố nào... nếu quốc độ
nào... nếu tất cả Sát đế lỵ... nếu tất
cả Bà-la-môn... nếu tất cả Phệ xá (Vessa)... nếu
tất cả Thủ đà (Sudda)... Này Digha, nếu thế
giới với chư Thiên, với Ác ma, với Phạm
thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người
nhớ đến ba Tôn giả này với tâm niệm hoan hỷ,
th́ thế giới ấy với chư Thiên, với Ác ma, với
Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
Người sẽ được an lạc, hạnh phúc
lâu dài. Này Digha, hăy xem ba Thiện nam tử này sống như
thế nào? - V́ hạnh phúc cho chúng sanh, v́ an lạc cho chúng
sanh, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ hạnh
phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người.
32. ĐẠI KINH RỪNG SỪNG B̉ [^]
(Mahagosingasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại khu vườn
trong rừng Gosing ó nhiều cây ta-l ùng với một số
đông Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng
như Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) Tôn giả
Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả
Mahakassapa (Đại Ca-diếp), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà),
Tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Tôn giả Ananda (A-nan) cùng với
một số Thượng Tọa đệ tử nổi
tiếng khác. Rồi Tôn giả Mahamoggallana vào buổi chiều,
sau khi tham thiền đứng dậy, đi đến chỗ
Tôn giả Mahakassapa ở, sau khi đến bèn nói với Tôn
giả Mahakassapa:
– Hiền giả Kassapa, chúng ta hăy đến chỗ
Tôn giả Sariputta để nghe pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahakassapa vâng đáp Tôn giả
Mahamoggallana.
–
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Revata vâng đáp Tôn giả Ananda.
– Tôn giả Ananda hăy đến đây, thiện
lai, Tôn giả Ananda, vị thị giả Thế Tôn, vị
hầu cận Thế Tôn. Này Hiền giả Ananda, khả
ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây Ta la
trổ ho ùng khắp, hương trời như được
tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Ananda, hạng
Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo
nghe nhiều, ǵn giữ điều đă nghe, tích tụ
điều đă nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, văn nghĩ ụ túc, nói lên phạm hạnh
hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị
ấy nghe nhiều và ǵn giữ kỹ, được lập
lại lớn tiếng, được ư tư duy,
được tri kiến khéo quán sát; vị ấy thuyết
pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu
loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy
miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn
giả Revata:
–
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo
ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời
sống tịnh cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ,
không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh,
luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng
Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn
giả Anuruddha:
–
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo,
với thiên nhăn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới.
Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt
lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp,
quán sát một ngàn đường ṿng xung quanh. Cũng vậy,
này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, với thiên nhăn thanh tịnh,
siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng
chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn
giả Mahakassapa:
–
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo,
tự ḿnh sống ở rừng núi và tán thán đời sống
ở rừng núi, tự ḿnh sống khất thực, và tán
thán đời sống khất thực, tự ḿnh mặc y
phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự
ḿnh sống với ba y và tán thán hạn ba y, tự ḿnh sống
thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự
ḿnh sống biết đủ và tán thán hạnh biết
đủ, tự ḿnh sống độc cư và tán thán hạnh
sống độc cư, tự ḿnh sống không nhiễm
thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục,
tự ḿnh tinh cần, tinh tấn và tán thán hạn tinh cần,
tinh tấn, tự ḿnh thành tựu giới hạnh và tán thán
sự thành tựu giới hạnh, tự ḿnh thành tựu
Thiền định và tán thán sự thành tựu thiền
định, tự ḿnh thành tựu trí tuệ và tán thán sự
thành tựu trí tuệ, tự ḿnh thành tựu giải thoát
và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự ḿnh thành tựu
giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải
thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo
như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói Tôn giả
Mahamoggallana:
– Hiền giả Moggallana, Tôn giả Mahakassapa
đă trả lời
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, hai Tỷ-kheo
đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy
hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị
trả lời được với nhau chớ không dừng
lại (không trả lời được), và cuộc
đàm luận về pháp được tiếp tục.
Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy
có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Mahamoggallana nói với Tôn giả
Sariputta:
– Hiền giả Sariputta, chúng tôi đă trả lời
– Ở đây, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo
điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo
không điều phục được tâm. An trú quả nào
vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an
trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy
muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy
buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú
vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi
chiều. Hiền giả Moggallana, ví như một vị
vua hay vị đại thần của vu ó một tủ áo
đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác
nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà
vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà
vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp
áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc
vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi
chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo
điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo
không điều phục được tâm. An trú quả nào
Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy
an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào Tỷ-kheo
ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú
quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị Tỷ-kheo
ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú
quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả
Moggallana, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng
chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Sariputta nói với các Tôn giả ấy:
– Này chư Hiền, chúng ta đă trả lời
– Thưa vâng, Hiền giả.
– Ở đây, bạch
"– Tôn giả Ananda, hăy đến đây, thiện
lai Tôn giả Ananda, vị thị giả
Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy,
Tôn giả Ananda trả lời với con như sau:
"– Ở đây, Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo
nghe nhiều, ǵn giữ điều đă nghe, tích tụ
điều đă nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, văn nghĩ ụ túc, nói lên phạm hạnh
hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị
ấy nghe nhiều và giữ ǵn kỹ, được lập
lại lớn tiếng, được ư tư duy,
được tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết
pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu
loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy
miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga."
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời
cho được chơn chánh, Ananda phải trả lời
như vậy. Này Sariputta, Ananda là bậc đa văn, ǵn giữ
điều đă nghe, tích tụ điều đă nghe. Những
pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn
nghĩ ụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh,
những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều
và ǵn giữ kỹ, được lập lại lớn
tiếng, được ư tư duy, được tri kiến
khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội
chúng, với văn cú viên dung lưu loát, với mục
đích đoạn trừ mọi tùy miên.
– Bạch Thế Tôn khi nghe nói vậy, con nói với
Tôn giả Revata:
"–
"– Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng
Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo
nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga".
"– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo
ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời
sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ,
không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh,
luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng
Gosinga".
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời
cho được chơn chánh, Revata phải trả lời
như vậy. Này Sariputta, Revata ưa thích đời sống
tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội
tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền
định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các
chỗ không tịch.
–
"–
"– Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi
rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng
Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn
giả Anuruddha nói với con:
"– Này Hiền giả Sariputta, ở đây, Tỷ-kheo
với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới.
Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt,
lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp rồi
quán sát một ngàn đường ṿng xung quanh. Cũng vậy,
này Hiền giả Sariputta, Tỷ-Kheo với thiên nhăn thanh tịnh
siêu nhiên quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói
khu rừng Gosinga".
- Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời
cho được chơn chánh, Anuruddha phải trả lời
như vậy. Này Sariputta, chính Anuruddha với thiên nhăn thanh tịnh
siêu nhiên quán sát ngàn thế giới.
–
"–
"– Khả ái thay ngôi rừng Gosinga!... (như
trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm
sáng chói khu rừng Gosinga?"
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn
giả Mahakassapa nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo
tự ḿnh sống ở rừng núi và tán thán đời sống
ở rừng núi, tự ḿnh sống khất thực và tán
thán đời sống khất thực, tự ḿnh mặc y
phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự
ḿnh sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự ḿnh sống
thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự
ḿnh sống biết đủ và tán thán hạnh biết
đủ, tự ḿnh sống độc cư và tán thán hạnh
độc cư, tự ḿnh sống không nhiễm thế tục
và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự ḿnh
tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn,
tự ḿnh thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành
tựu giới hạnh, tự ḿnh thành tựu thiền
định và tán thán sự thành tựu thiền định,
tự ḿnh thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu
trí tuệ, tự ḿnh giải thoát và tán thán sự thành tựu
giải thoát, tự ḿnh thành tựu giải thoát tri kiến
và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền
giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo ấy có thể làm sáng
chói khu rừng Gosinga."
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời cho
được chân chánh, Kassapa phải trả lời
như vậy. Này Sariputta, Kassapa tự ḿnh sống ở rừng
núi và tán thán đời sống ở rừng núi... tự
ḿnh thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành
tựu giải thoát tri kiến.
–
"– Hiền giả Moggallana, Tôn giả Mahakassapa
đă trả lời
"–
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn
giả Mahamoggallana nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, hai
Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma, (A-tỳ-đàm). Họ
hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, họ
trả lời được với nhau, chớ không dừng
lại v́ không trả lời được, và cuộc
đàm luận về pháp của họ được tiếp
tục. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo
như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga. "
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời cho
được chơn chánh, Moggallana phải trả lời
như vậy. Này Sariputta, Moggallana là bậc thuyết về
Chánh pháp.
Được nói vậy, Tôn giả Mahamoggallana bạch
Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nói với Tôn giả
Sariputta, như sau:
"– Hiền giả Sariputta, chúng tôi đă trả
lời
"–
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
Tôn giả Sariputta nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo
điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo
không điều phục được tâm. An trú quả nào
vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an
trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy
an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy
vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an
trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào
buổi chiều. Hiền giả Moggallana, ví như một
vị vua hay vị đại thần của vu ó một tủ
áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc
khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng,
nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào
nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp
áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc
vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi
chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo
điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo
không điều phục được tâm. An trú quả nào
Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, Tỷ-kheo ấy
an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy
muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy
vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an
trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào
buổi chiều.
– Lành thay, lành thay, Moggallana! Nếu trả lời
cho được chơn chánh, Sariputta phải trả lời
như vậy. Này Moggallana, Sariputta điều phục
được tâm, không phải Sariputta không điều phục
được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an
trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi
sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi
trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi
trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi
chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta bạch
Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, vị nào đă khéo trả lời
(câu hỏi được đặt ra)?
– Này Sariputta, tất cả đều lần
lượt khéo trả lời. Và này các Ông hăy nghe Ta nói hạng
Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở
đây, này Sariputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi
khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng,
đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng:
"Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến
khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu
hoặc, không có chấp thủ". Này Sariputta, hạng Tỷ-kheo
như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
33. ĐẠI KINH NGƯỜI
CHĂN B̉ [^]
(Mahagopalakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông
Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, nếu không đầy đủ
mười một đức tánh này, một người
chăn ḅ không thể chăn giữ đàn ḅ, không thể
khiến đàn ḅ được hưng thịnh. Thế
nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một
người chăn ḅ không biết rơ sắc, không khéo (phân
biệt), các tướng, không từ bỏ trứng con ḅ
chét, không băng bó vết thương, không có xông khói, không
biết chỗ nước có thể lội qua, không biết
chỗ nước uống, không biết con đường,
không khéo léo đối với các chỗ đàn ḅ có thể
ăn cỏ, là người vắt sữ ho đến khô
kiệt, là người không chú ư, không săn sóc đặc
biệt những con ḅ đực già và đầu đàn.
Này các Tỷ-kheo, người chăn ḅ nào không đầy
đủ mười một đức tánh như vậy,
không thể chăn giữ đàn ḅ, không thể khiến
đàn ḅ được hưng thịnh. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không đầy đủ
mười một pháp, không thể lớn mạnh, tăng
thịnh, thành măn trong pháp luật này. Thế nào là mười
một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết
sắc, không khéo (phân biệt) các tướng, không từ bỏ
trứng con ḅ chét, không băng bó vết thương, không
có xông khói, không biết chỗ nước có thể lội
qua, không biết chỗ nước uống, không biết
con đường, không khéo léo đối với các chỗ
đàn ḅ có thể ăn cỏ, là người vắt sữ
ho đến khô kiệt, đối với những Thượng
Tọa trưởng lăo, xuất gia đă lâu ngày, bậc tôn
túc trong Tăng giới, bậc lănh đạo trong Tăng
giới, không có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.
Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết
rơ các sắc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối
với sắc pháp không như thật biết tất cả
loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn
đại hợp thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không biết rơ các sắc. Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
không khéo (phân biệt) các tướng? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không như thật biết kẻ ngu và nghiệp
tướng của người đó, kẻ trí và nghiệp
tướng của người đó. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không khéo (phân biệt) các tướng.
Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không trừ bỏ
trứng con ḅ chét? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thọ dụng dục tầm khởi lên, không từ bỏ,
không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại,
thọ dụng sân tầm khởi lên... (như trên)... thọ
dụng hại tầm khởi lân... (như trên)... thọ dụng
các ác, bất thiện pháp khởi lên, không từ bỏ,
không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không trừ bỏ
trứng con ḅ chét. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
không băng bó vết thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng
Này các Tỷ-kheo, người chăn ḅ đầy
đủ mười một đức tánh này có thể
chăn giữ đàn ḅ, khiến đàn ḅ trở thành
hưng thịnh. Thế nào là mười một? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người chăn ḅ biết rơ sắc,
khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ trứng con
ḅ chét, băng bó vết thương, có xông khói, biết chỗ
nước có thể lội qua, biết chỗ nước
uống, biết con đường, khéo léo đối với
các chỗ đàn ḅ có thể ăn cỏ, không vắt sữ
ho đến khô kiệt, là người chú ư săn sóc đặc
biệt, những con ḅ đực già và đầu đàn.
Này các Tỷ-kheo, người chăn ḅ đầy đủ
mười một đức tánh này có thể chăn giữ
đàn ḅ và làm cho đàn ḅ trở thành hưng thịnh. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ
mười một pháp này có thể lớn mạnh, tăng
thịnh, thành măn trong Pháp, Luật này. Thế nào là mười
một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, biết
rơ sắc, khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ
trứng con ḅ chét, băng bó vết thương, có xông khói,
biết chỗ nước có thể lội qua, biết chỗ
nước uống, biết con đường khéo léo
đối với các chỗ đàn ḅ có thể ăn cỏ,
không phải là người vắt sữ ho đến khô
kiệt, đối với những Thượng tọa,
trưởng lảo, xuất gia đă lâu ngày, bậc tôn túc
trong Tăng giới, bậc lănh đạo trong Tăng giới,
có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết
rơ các sắc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với
sắc pháp như thật biết tất cả loại sắc
thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp
thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rơ
các sắc. Chư Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo khéo (phân
biệt) các tướng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng kẻ
ngu, kẻ trí và nghiệp tướng kẻ trí. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khéo (phân biệt) các tướng.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng
con ḅ chét? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thọ
dụng dục tầm khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm
dứt, làm cho không tồn tại, không thọ dụng sân tầm
khởi lên... (như trên)... không thọ dụng hại tầm
khởi lên... (như trên)..., không thọ dụng các ác, bất
thiện pháp khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm dứt,
làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng con ḅ chét. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo băng bó vết thương? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, không nắm
giữ tướng
Như vầy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
băng bó vết thương. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo có xông khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có thuyết giảng rộng răi cho các người khác biết
Chánh pháp ḿnh được nghe, được thọ tŕ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có xông khói. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ
nước có thể lội qua. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những
Tỷ-kheo đa văn, được trao cho truyền thống
giáo điển, những bậc tŕ Pháp, tŕ Luật, tŕ
matika (các bản tóm tắt) có hỏi, có trả lời các vị
ấy: "Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào?
Ư nghĩa này là ǵ? những bậc Tôn giả ấy làm cho hiển
lộ những điều chưa được hiển
lộ, làm cho rơ ràng những điều chưa được
rơ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh
pháp, các vị đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rơ chỗ nước
có thể lội qua. Và chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
biết rơ chỗ nước uống? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết,
giảng dạy, chứng đạt nghĩa tín thọ, chứng
đạt pháp tín thọ, chứng đạt sự hân hoan
liên hệ đến Pháp. Như vậy, là Tỷ-kheo biết
chỗ nước uống. Và các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
biết rơ về con đường? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như thật biết con đường Thánh
đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
biết rơ con đường. Và này, các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo khéo léo đối với các chỗ đàn
ḅ có thể ăn cỏ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo léo đối với
các chỗ đàn ḅ có thể ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo không vắt sữ ho đến khô
kiệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các vị tại
gia v́ ḷng tin cúng dường các vật dụng như y áo,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm
trị bệnh, Tỷ-kheo biết nhận lănh cho được
vừa đủ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
không vắt sữ ho đến khô kiệt. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo, đối với những Thượng
tọa trưởng lăo, xuất gia đă lâu ngày, bậc tôn
túc trong Tăng giới, bậc lănh đạo trong Tăng
giới, có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các Thượng
tọa trưởng lăo, xuất gia đă lâu ngày, bậc tôn
túc trong Tăng giới, bậc lănh đạo trong Tăng
giới, có thân nghiệp đầy ḷng từ đối với
các vị ấy, trước mặt và sau lưng, có khẩu
nghiệp, đầy ḷng từ đối với các vị
ấy, trước mặt và sau lưng, có ư nghiệp đầy
ḷng từ đối với các vị ấy, trước
mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
đối với những Thượng tọa trưởng
lăo, xuất gia đă lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới,
bậc lănh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính,
có sự tôn trọng đặc biệt. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đầy đủ mười một pháp này, th́ có thể
lớn mạnh, tăng thịnh, thành măn trong Pháp, Luật
này.
34.
(Culagopalakasutttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữ ác bộ lạc
Vajji (Bạt-kỳ) tại Ukkacela, trên bờ sông Hằng. Tại
đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo.
– Này các Tỷ-kheo.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn thuyết giảng như sau:
– Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadh ó
người chăn ḅ vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong
mùa gặt hái, không quan sát bờ bên này sông Hằng, không quan
sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn ḅ qua bờ
bên kia tại Suvideha, tại chỗ không có thể lội
qua được. Này các Tỷ-kheo, những con ḅ xô nhau tụ
lại giữa ḍng sông Hằng và gặp tai nạn tại
nơi đây. V́ cớ sao? Này các Tỷ-kheo, v́ người
chăn ḅ ở Magadha là vô trí, vào cuối tháng mùa mưa,
trong mùa gặt hái, không quán sát bờ bên này sông Hằng, không
quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn ḅ qua bờ
bên kia tại Suvideha, tại chỗ không thể lội qua
được. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những
Sa-môn hay Bà-la-môn không khéo biết đời này, không khéo biết
đời sau, không khéo biết ma giới không khéo biết
phi ma giới, không khéo biết từ thần giới, không
khéo biết phi tử thần giới, những ai nghĩ rằng
cần phải nghe, cần phải tin những vị này,
th́ họ sẽ gặp bất hạnh đau khổ lâu
dài.
Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadh ó người
chăn ḅ có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt
hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ
bên kia sông Hằng, đuổi đàn ḅ qua bờ bên kia tại
Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.
Người đó đuổi đi đầu những con
ḅ đực già, những con đầu đàn. Những con
này sau khi lội cắt ngang ḍng sông Hằng, qua bờ bên
kia một cách an toàn. Rồi người đó đưa
qua những con ḅ đực lớn mạnh, những con ḅ
đực có được huấn luyện. Những con
này sau khi lội cắt ngang ḍng sông Hằng, qua bờ bên
kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi
qua những con ḅ đực con, lớn, những con ḅ cái
con, lớn. Những con này sau khi lội cắt ngang ḍng sông
Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người
đó đuổi qua những con ḅ con nhỏ, những con
ḅ con c̣n bú. Những con này sau khi lội cắt ngang ḍng sông
Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo
thời xưa ấy có con ḅ c̣n nhỏ mới sanh, con ḅ này
nhờ chạy theo con ḅ mẹ, vừ hạy, vừa kêu,
sau khi lội cắt ngang ḍng sông Hằng, cũng qua bờ
bên kia một cách an toàn. V́ sao? Này các Tỷ-kheo, v́ người
chăn ḅ ở Magadha là người có trí, vào cuối tháng
mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng,
sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn ḅ
qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội
qua được. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những
Sa-môn hay Bà-la-môn khéo biết đối với đời
này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết
ma giới, khéo biết phi ma giới, khéo biết tử thần
giới, khéo biết phi tử thần giới. Những ai
nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin những
vị này, th́ họ sẽ được hạnh phúc, an lạc
lâu dài.
Này các Tỷ-kheo, ví như những con ḅ đực
già, đầu đàn, chúng đă lội cắt ngang ḍng sông
Hằng và qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo là những bậc A-la-hán,
đă đoạn trừ các lậu hoặc, tu hành thành măn,
các việc nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng xuống,
đă đạt được mục đích, các hữu
kiết sử đă hoàn toàn bị đoạn diệt,
đă được giải thoát nhờ chánh trí. Những
vị này, sau khi lội cắt ngang ḍng sông của Ma
vương, đă qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo,
ví như những con ḅ đực lớn mạnh, những
con ḅ đực có huấn luyện, sau khi lội cắt
ngang ḍng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sau khi đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n
phải trở lại thế giới này nữa. Những
vị ấy, sau khi lội cắt ngang ḍng sông Ma
vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn. Ví
như, này các Tỷ-kheo, những con ḅ đực con, lớn,
những con ḅ cái con, lớn, những con này sau khi lội cắt
ngang ḍng sông Hằng, đă qua bờ bên kia một cách an
toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo
đă diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu
tham, sân, si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại
đời này một lần nữa, sẽ diệt tận
khổ đau. Những vị ấy, sau khi lội cắt
ngang ḍng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách
an toàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, những con ḅ con, nhỏ,
những con ḅ con c̣n bú, những con này sau khi lội cắt
ngang ḍng sông Hằng, đă qua bờ bên kia một cách an
toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo diệt
trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất
định không c̣n đọa vào ác đạo, đạt
đến chánh giác. Những vị này lội cắt ngang
ḍng sông Ma vương và sẽ qua bờ bên kia một cách an
toàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ḅ con c̣n nhỏ, mới
sanh, con ḅ này nhờ chạy
Này các Tỷ-kheo, nay Ta khéo biết đối với
đời này, khéo biết đối với đời
sau, khéo biết đối với ma giới, khéo biết
đối với phi ma giới, khéo biết đối với
tử thần giới, khéo biết đối với phi tử
thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải
nghe, cần phải tin nơi Ta, th́ họ sẽ được
hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Đời này và đời sau,
Bậc Trí khéo tŕnh bày,
Cảnh giới Ma đạt được,
Cảnh Tử Thần không đạt.
Bậc Chánh Giác, Trí Giả,
Biết rơ mọi thế giới,
Cửa bất tử rộng mở,
Đạt an ổn Niết-bàn.
Ḍng Ma bị chặt ngang,
Nát tan và hư hoại,
Hăy sống sung măn hỷ,
Đạt an ổn Niết-bàn,
(Này các Tỷ-kheo).
35. TIỂU KINH SACCAKA [^]
(Culasaccakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng
Đại Lâm, tại giảng đường Trùng Các. Lúc
bấy giờ Niganthaputta Saccaka ở tại Vesali tánh ưa
luận chiến, biện luận thiện xảo,
được số đông tôn kính. Vị này thường
xuyên bo ho hội chúng ở Vesali: "Ta không thấy một
Sa-môn hay một Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị
Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu
tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, khi đối
thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ,
không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách. Dầu
t ó đối thoại với một cột trụ vô t́nh,
cột trụ ấy khi đối thoại với t ũng
run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ,
huống nữa là một người thường".
Rồi Tôn giả Assaji vào buổi sáng đắp
y, cầm bát vào Vesali để khất thực. Niganthaputta
Saccaka, thường hay ngao du thiên hạ, thấy Tôn giả
Assaji từ xa đi lại. Sau khi thấy, Niganthaputta Saccaka
liền đến gần Tôn giả Assaji, nói lên những lời
hỏi thăm, chào đón, xă giao rồi đứng một
bên. Sau khi đứng một bên, Niganthaputta Saccaka nói với
Tôn giả Assaji:
– Này Tôn giả Assaji, Sa-môn Gotama huấn luyện
đệ tử như thế nào? Và có những bộ môn
nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được
dành cho đệ tử?
– Này Aggivessana, như thế này, Thế Tôn huấn
luyện đệ tử. Với những bộ môn như
thế này, phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy
được dành cho đệ tử: "Này các Tỷ-kheo,
sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng
là vô thường, hành là vô thường, thức là vô
thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngă, thọ là vô
ngă, tưởng là vô ngă, hành là vô ngă, thức là vô ngă. Tất
cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngă".
Như vậy này Aggivessana, Thế Tôn huấn luyện các
đệ tử. Như vậy là các bộ môn mà phần lớn
Thế Tôn giảng dạy được dành cho đệ
tử.
– Này Tôn giả Assaji, thật sự chúng tôi đă
thất vọng khi nghe Sa-môn Gotama thuyết giảng như
vậy. Rất có thể chúng tôi sẽ gặp Tôn giả
Gotama một thời nào đó và tại một chỗ nào
đó. Rất có thể sẽ có một cuộc thảo luận.
Rất có thể chúng tôi sẽ đoạn trừ ác tà kiến
ấy.
Lúc bấy giờ, có khoảng độ năm
trăm vị Licchavi tập hợp tai giảng đường
v́ một vài công vụ. Rồi Niganthaputta Saccaka đến
chỗ các Licchavi ấy, sau khi đến, liền nói các vị
ấy như sau:
– Hăy đến, các Tôn giả Licchavi; hăy đến
các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận
giữa Sa-môn Gotama với ta. Nếu Sa-môn Gotama đứng
đối thoại với ta như Tỷ-kheo Assaji, một
vị đệ tử danh tiếng của ông ta đă làm,
th́ như một lực sĩ tay nắm chặt lông một
con cừu có lông dài, có thể kéo tới, dặc lui, vần
quanh; cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, dặc
lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một người
lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận ch́m một
thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm
một góc thùng có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh;
cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, dặc lui, vần
quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một lực sĩ nghiện
rượu, sống phóng đăng, sau khi nắm góc một
cái sàng, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh. Cũng vậy,
ta sẽ dùng lời nói, lắc qua lắc lại, lắc
xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu
mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ
nước sâu, lại chơi tṛ phun nước; cũng vậy,
ta nghĩ ta sẽ chơi tṛ chơi phun nước với
Sa-môn Gotama. Hăy đến, các Tôn giả Licchavi. Hăy đến
các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận
giữa Sa-môn Gotama với ta.
Một số Licchavi nói như sau:
– Làm sao Sa-môn Gotam ó thể luận thắng
Một số Licchavi lại nói như sau:
– Làm sao chỉ là Niganthaputta Saccaka lại có thể
luận thắng Thế Tôn?
Rồi Niganthaputta Saccaka với khoảng năm
trăm Licchavi vây quanh, cùng đi đến Đại Lâm,
giảng đường Trùng Các.
Lúc bấy giờ một số đông các Tỷ-kheo
đang đi qua lại giữa trời. Niganthaputta Saccaka
đến các Tỷ-kheo, sau khi đến, liền nói với
các vị ấy:
– Chư Tôn giả, nay Tôn giả Gotama ở
đâu? Chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Thế Tôn sau khi đi sâu vào rừng
Đại Lâm, đang ngồi dưới một gốc
cây để nghỉ trưa.
Niganthaputta Saccaka sau khi ngồi xuống một bên
nói với Thế Tôn:
– Tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama một vấn
đề, nếu Tôn giả Gotam ho phép tôi được hỏi.
– Này Aggivessana, hăy hỏi như Ông muốn.
– Tôn giả Gotama huấn luyện đệ tử
như thế nào? Những bộ môn nào mà phần lớn
Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ
tử?
– Này Aggivessana, như thế này Ta huấn luyện
đệ tử. Với những bộ môn này, phần lớn
Ta giảng dạy được dành cho đệ tử:
"Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô
thường, tưởng là vô thường, hành là vô
thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc
là vô ngă, thọ là vô ngă, tưởng là vô ngă, hành là vô ngă, thức
là vô ngă. Tất cả hành là vô thường, tất cả
pháp là vô ngă". Như vậy này Aggivessana, Ta huấn luyện
các đệ tử. Các bộ môn như vậy, phần lớn
ta giảng dạy được dành cho đệ tử.
– Này Tôn giả Gotama, tôi có một ví dụ.
Thế Tôn nói:
– Này Aggivessana, hăy nói lên ví dụ ấy.
– Như các hột giống, các cây cỏ này
được lớn lên, được trưởng
thành, được hưng thịnh là v́ tất cả
chúng đều y cứ vào đất, nương tựa
vào đất. Nhờ vậy các hột giống, các cây cỏ
này được lớn lên, được trưởng
thành, được hưng thịnh. Tôn giả Gotama,
như các công nghiệp nặng nhọc này được tạo
tác, tất cả chúng đều y cứ vào đất,
nương tựa vào đất. Nhờ vậy, các công
nghiệp nặng nhọc này được tạo tác. Cũng
vậy, này Tôn giả Gotama, như người này mà tự
ngă là sắc, nhờ nương tựa sắc làm thiện
sự hay ác sự; như người này mà tự ngă là thọ,
nhờ nương tựa thọ làm thiện sự hay ác sự;
như người này mà tự ngă là tưởng, nhờ
nương tựa tưởng làm thiện sự hay ác sự;
như người này mà tự ngă là các hành, nhờ
nương tự ác hành làm thiện sự hay ác sự;
như người này mà tự ngă là thức, nhờ
nương tựa thức làm thiện sự hay ác sự.
– Này Aggivessana, như vậy có phải ông nói:
"Sắc là tự ngă của ta, thọ là tự ngă của
ta, tưởng là tự ngă của ta, hành là tự ngă của
ta, thức là tự ngă của ta"?
– Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: "Sắc
là tự ngă của ta, thọ là tự ngă của ta, tưởng
là tự ngă của ta, hành là tự ngă của ta, thức là
tự ngă của ta". Và như đại chúng này cũng
vậy.
– Này Aggivessana, đại chúng này có quan hệ ǵ với
Ông? Này Aggivessana, hăy giải thích lời nói của Ông.
– Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: "Sắc
là tự ngă của ta, thọ là tự ngă của ta, tưởng
là tự ngă của ta, hành là tự ngă của ta, thức là
tự ngă của ta".
– Này Aggivessana, Ta sẽ hỏi Ông trở lại về
vấn đề này. Ông có thể trả lời nếu Ông
muốn. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Một vị
vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh,
như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu con bà Vedehi
nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gi ủa
ḿnh, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn
tước đoạt những ai đáng bị tước
đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị
tẩn xuất không?
– Tôn giả Gotama, một vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước
Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền
hành trong quốc gi ủa ḿnh, muốn giết những ai
đáng bị giết, muốn tước đoạt những
ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất
những ai đáng bị tẩn xuất. Này Tôn giả
Gotama, cho đến các giáo đoàn, các đoàn thể,
như các Vajji, các Malla, vẫn có quyền hành trong quốc
gi ủa ḿnh, muốn giết những ai đáng bị giết,
muốn tước đoạt những ai đáng bị
tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai
đáng bị tẩn xuất, c̣n nói ǵ một vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước
Kosala, vua Ajatasattu con bà Vedehi nước Magadha.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói:
"Sắc là tự ngă của ta", Ông có quyền hành ǵ
đối với sắc ấy và có nói được rằng:
"Sắc của tôi như thế này, sắc của tôi
không phải như thế này" không?
Được nói vậy Niganthaputta Saccaka giữ
im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với
Niganthaputta Saccaka:
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói:
"Sắc là tự ngă của ta", Ông có quyền hành ǵ
đối với sắc ấy và có nói được rằng:
"Sắc của tôi phải như thế này, sắc của
tôi không phải như thế này" không?
– Lần thứ hai, Niganthaputta Saccaka vẫn giữ
im lặng.
Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
– Này Aggivessana, nay Ông phải trả lời. Nay
không phải lúc Ông giữ im lặng nữa. Này Aggivessana, ai
được Như Lai hỏi đến lần thứ
ba một câu hỏi hợp lư mà không trả lời, thời
đầu của người ấy sẽ bị bể
ra làm bảy mảnh tại chỗ.
Lúc bấy giờ thần Dạ xoa Vajirapani (Kim
Cang Thủ) đang cầm một chùy sắt to lớn, cháy
đỏ, sáng chói, đứng trên không trên đầu
Niganthaputta Saccaka với ư định: "Nếu Thế
Tôn hỏi đến câu hỏi thứ ba, một câu hỏi
hợp lư mà Niganthaputta Saccaka không trả lời, th́ ta sẽ
đánh bể đầu nó ra làm bảy mảnh". Chỉ
có Thế Tôn và Niganthaputta Saccaka mới thấy thần Dạ
xoa Vajirapani. Niganthaputta Saccaka sợ hăi, hoảng hốt, lông
tóc dựng, ngược, chỉ t́m thấy sự che chở
nơi Thế Tôn, chỉ t́m thấy sự an ổn nơi
Thế Tôn, chỉ t́m thấy sự nương tựa
nơi Thế Tôn, liền bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama hăy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói:
"Sắc là tự ngă của ta", th́ Ông có quyền hành
ǵ đối với sắc ấy và có nói được rằng:
"Sắc của tôi phải như thế này, sắc của
tôi không phải như thế này" không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hăy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm
kỹ, này Aggivessana, Ông hăy trả lời. Lời nói cuối
của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời
nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của
Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Thọ
là tự ngă của ta", Ông có quyền hành ǵ đối với
thọ ấy và có nói được, rằng: "Thọ
của tôi phải như thế này, thọ của tôi không
phải như thế này" không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hăy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm
kỹ, này Aggivessana, Ông hăy trả lời. Lời nói cuối
của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời
nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của
Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói:
"Tưởng là tự ngă của ta", Ông có quyền
hành ǵ đối với tưởng ấy và có nói
được rằng: "Tưởng của tôi phải
như thế này, tưởng của tôi không phải
như thế này" không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hăy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm
kỹ, này Aggivessana, Ông hăy trả lời. Lời nói cuối
của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời
nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của
Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Các
hành là tự ngă của ta", Ông quyền hành ǵ đối
với tự ngă ấy và có nói được rằng:
"Các hành của tôi phải như thế này, các hành của
tôi không phải như thế này" không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hăy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm
kỹ, này Aggivessana, Ông hăy trả lời. Lời nói cuối
của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời
nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của
Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Thức
là tự ngă của ta", Ông quyền hành ǵ đối với
tự ngă ấy và có nói được rằng: "Thức
của tôi phải như thế này, thức của tôi không
phải như thế này" không?
- Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hăy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm
kỹ, này Aggivessana, Ông hăy trả lời. Lời nói cuối
của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời
nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của
Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường
hay vô thường?
– Vô thường, Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ vô thường th́ cái ấy là khổ hay lạc?
– Là khổ, Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ vô thường, khổ, biến hoại;
có hợp lư chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi"?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thọ...
(như trên)... tưởng... (như trên)... các hành... (như
trên)... Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thức là thường
hay vô thường?
– Vô thường, Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ vô thường, khổ, biến hoại;
có hợp lư chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi"?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Ai ái luyến
khổ, chấp trước khổ, tham đắm khổ,
quán khổ và nói: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngă của tôi". Người ấy có thể liễu
tri cái khổ của tự ḿnh hay có thể sống trừ
diệt khổ không?
– Làm sao có thể được, Tôn giả Gotama?
Không thể như vậy, Tôn giả Gotama.
–
Rồi Dummukha, một người con Licchavi, biết
được Niganthaputta Saccaka im lặng, hổ thẹn,
thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một
lời, liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con có một ví dụ.
Thế Tôn nói:
– Này Dummukha, hăy nói lên ví dụ ấy.
– Bạch Thế Tôn, như một hồ sen không
xa làng hay thị trấn bao nhiêu, ở đây có con cua. Bạch
Thế Tôn, rồi một số đông con trai hay con gái
đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, đến tại
hồ sen kia, sau khi đến, lặn xuống hồ
nước ấy bắt con cua lên và đặt nó trên đất
khô. Bạch Thế Tôn, khi con cua này tḥ r ái càng nào, th́ các
đứ on trai hay con gái ấy, với cái gậy hay miếng
sành, chặt, bẻ găy và đập nát cái càng ấy.
Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy bị chặt,
bị bẻ găy, bị đập nát tất cả càng,
không thể lội xuống hồ sen ấy như trước.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, mọi khúc thuyết,
gian kế, tranh luận của Niganthaputta Saccaka đă bị
Thế Tôn chặt đứt, bẻ găy, đập tan. Và
nay, bạch Thế Tôn, Niganthaputta Saccaka, không thể đến
gặp Thế Tôn, chớ đừng nói là có ư định
đàm luận.
Khi được nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka
nói với Licchavi Dummukha:
– Ông hăy ngừng nói, Dummukha! Ông hăy ngừng nói,
Dummukha! Chúng tôi không đàm luận với Ông. Chúng tôi
đang đàm luận với Tôn giả Gotama. Tôn giả
Gotama, hăy để yên những lời nói củ húng tôi và lời
nói củ ác Sa-môn, Bà-la-môn khác. Tôi nghĩ cuộc đàm luận
vô bổ này thật đáng hối tiếc! Cho đến mức
độ nào, một đệ tử Thanh văn của
Tôn giả Gotama trở thành tuân phụng giáo điển, chấp
nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn
trừ, do dự được diệt tận, thành tựu
vô úy, sống trong giáo hội Bổn Sư, khỏi phải
nương tựa vào ai?
– Ở đây, này Aggivessana, đệ tử Thanh
văn của Ta, đối với mọi sắc pháp, quá
khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy
như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngă của tôi". Đối với mọi cảm thọ...
đối với mọi tưởng... đối với
mọi hành... đối với mọi thức, quá khứ,
tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế,
liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với
chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của
tôi". Cho đến mức độ như vậy, này
Aggivessana, một đệ tử Thanh văn của Ta trở
thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng
huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự
được diệt tân, thành tựu vô úy, sống trong
giáo hội Bổn sư, khỏi phải nương tựa
một ai.
– Cho đến mức độ nào, này Tôn giả
Gotama, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă
tân, tu hành thành măn, các việc nên làm đă làm, đă đặt
gánh nặng xuống, các mục tiêu đạt, hữu kiết
sử đă đoạn trừ, được chánh trí giải
thoát?
– Ở đây, này Aggivessana, Tỷ-kheo đối
với bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, tương
lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần, tất cả các sắc pháp, sau
khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngă của tôi", chứng được
vô chấp thủ giải thoát. Đối với bất cứ
thọ nào... bất cứ tưởng nào... bất cứ
hành nào... đối với bất cứ thức nào, quá khứ,
tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế,
liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các thức,
sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: "Cái
này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngă của tôi", chứng được
vô chấp thủ giải thoát. Cho đến mức độ
này, này Aggivessana, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc
đă tận, tu hành thành măn, các việc nên làm đă làm
đă đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đă
đạt, hữu kiết sử đă đoạn trừ,
được chánh trí giải thoát. Với tâm giải thoát
như vậy, này Aggivessana, Tỷ-kheo thành tựu ba pháp vô
thượng: Kiến vô thượng, Đạo vô thượng,
Giải thoát vô thượng. Được giải thoát
như vậy, này Aggivessana, vị ấy chỉ kính lễ,
tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai:
"Thế Tôn đă giác ngộ, Ngài thuyết pháp để
giác ngộ.
Được nghe nói vậy, Niganthaputta bạch
với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là lỗ măng,
chúng tôi thật là khinh suất. Chúng tôi đă dám nghĩ dùng
lời nói để luận chiến với Tôn giả
Gotama!
Rồi Niganthaputta Saccaka, sau khi biết Thế Tôn
đă nhận lời, liền nói với các Licchavi:
– Các Tôn giả Licchavi hăy nghe tôi. Sa-môn Gotama ngày mai
được mời ăn với chúng Tỷ-kheo. Hăy đem
đến cho tôi những ǵ quư vị nghĩ là hợp thời.
Rồi những Licchavi ấy, sau khi đêm ấy
đă măn cho đem đến Niganthaputta Saccaka khoảng
năm trăm phần cơm cúng dường nấu với
sữa.
– Tôn giả Gotama, nay đă đến giờ.
Cơm đă sửa soạn xong.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm
y bát, đi đến khu vườn của Niganthaputta
Saccaka, sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đă soạn
sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi Niganthaputta Saccaka,
tự tay hầu hạ các món ăn thịnh soạn loại
cứng và loại mền cho chúng Tỷ-kheo, cầm đầu
là đức Phật. Rồi Niganthaputta sau khi biết Thế
Tôn dùng bữa ăn đă xong, tay đă rời khỏi bát,
liền lấy một chiếc ghế thấp khác và ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,
Niganthaputta Saccaka bạch Thế Tôn:
– Này Tôn giả Gotama, trong cuộc bố thí này, nếu
có công đức và công đức địa, mong rằng
những vị bố thí sẽ được hưởng
hạnh phúc.
– Này Aggivessana, sẽ có (công đức) cho những
người bố thí, đối với người
đáng được cúng dường như Ông, dầu
Ông không phải là không có tham, không phải là không có sân, không
phải là không có si; sẽ có (công đức) cho Ông, này
Aggivessana, đối với người đáng được
cúng dường như Ta, và Ta là người không có tham,
không có sân, không có si.