36. ĐẠI
(Mahasaccakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng
Đại Lâm, tại giảng đường
–
– Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn sống
chuyên lo tu tập về thân, không tu tập về tâm. Tôn giả
Gotama, những vị này cảm khổ thọ về thân. Sự
t́nh này đă xảy ra, này Tôn giả Gotama, do cảm khổ
về thân, chân sẽ bị tê liệt, quả
–
– Như Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, Makhkàli Gosàla, những
vị này, này Tôn giả Gotama, sống lơa thể, sống
phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất
thực không chịu bước tới, không nhận đồ
ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc
biệt nấu cho ḿnh, không nhận mời đi ăn,
không nhận đồ ăn từ nồi chảo, không nhận
đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận
đồ ăn đặt giữa những cây gậy,
không nhận đồ ăn đặt giữa những cối
giă gạo, không nhận đồ ăn từ hai người,
không nhận đồ ăn từ người đàn bà có
thai, không nhận đồ ăn từ người đàn
bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ
ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ
ăn tại chỗ ruồi bu, không ăn cá thịt, không uống
rượu nấu, rượu men, cháo trấu. Những vị
ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận
ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận tại
hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ
nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận
ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với
một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ
với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một
bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa.
Như vậy các vị ấy sống
–
– Không phải vậy, này Tôn giả Gotama. Thỉnh
thoảng, này Tôn giả Gotama, họ ăn những món
ăn thù thắng loại cứng, họ ăn những món
ăn thù thắng loại mền, họ nếm những vị
ăn thù thắng, họ uống những đồ uống
thù thắng. Họ nhờ các món ăn ấy gầy dựng
thân lực, làm cho thân to lớn, làm cho thân béo mập.
–
–
– Thưa vâng, bạch
–
Này Aggivessana, không luận người nào mà cả
hai phương tiện đều có lạc thọ khởi
lên, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập; khổ thọ
khởi lên, chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập.
Như vậy, này Aggivessana, người ấy là người
có thân không tu tập và tâm không tu tập. Và này Aggivessana, thế
nào là thân tu tập và tâm tu tập? Ở đây, này
Aggivessana, lạc thọ khởi lên cho vị Thánh đệ
tử nghe nhiều. Vị này được cảm giác lạc
thọ, nhưng không tham đắm lạc thọ, không
rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc
thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ
đoạn diệt, khởi lên khổ thọ, vị ấy
cảm giác khổ thọ nhưng không sầu muộn, than
van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất
tỉnh.
– Như vậy, tôi có ḷng tin tưởng với
Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama là vị có thân tu tập và
có tâm tu tập.
–
– Phải chăng, một lạc thọ không khởi
lên nơi Tôn giả Gotama một cách khiến cho lạc thọ
ấy không thể chi phối tâm và an trú, phải chăng một
khổ thọ khởi lên nơi Tôn giả Gotama một cách
khiến cho khổ thọ ấy không thể chi phối tâm
và an trú?
–
Rồi này Aggivessana, ba ví dụ khởi lên nơi
Ta, vi diệu, từ trước chưa từng được
nghe:
– Thưa không, Tôn giả Gotama. V́ sao vậy?
– Thưa không, Tôn giả Gotama. V́ sao vậy?
– Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa-môn hay
Bà-la-môn sống không xả ly các dục về thân, những
ǵ đối với các vị ấy thuộc các dục
như dục tham, dục ái, dục hôm ám, dục khát vọng,
dục nhiệt năo, về nội tâm chưa được
khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ
bớt. Nếu những Tôn giả Sa-môn, hay Bà-la-môn này th́nh
ĺnh cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ
đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy
không có thể chứng được tri kiến, vô thượng
Chánh Đẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn này không th́nh ĺnh cảm thọ những cảm giác
chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt,
các vị ấy cũng không có thể chứng được
tri kiến, vô thượng Chánh Đẳng Giác.
– Thưa được, Tôn giả Gotama. V́ sao vậy?
– Cũng vậy, này Aggivessana, những Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những
ǵ đối với các vị ấy thuộc các dục,
như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khác vọng,
dục nhiệt năo, về nội tâm được khéo
đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn này th́nh ĺnh cảm thọ những cảm giác chói
đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các
vị ấy có thể chứng được tri kiến
vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và nếu những Tôn
giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không th́nh ĺnh cảm thọ những
cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt,
các vị này cũng có thể chứng được tri kiến
vô thượng Chánh Đẳng Giác.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta
biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc gịng Sakka (Thích-ca)
đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây
diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện
chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi
an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có
thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này
Aggivessana, tiếp
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật
không dễ ǵ chứng đạt lạc thọ ấy, với
thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta
hăy ăn thô thực ăn cơm chua". Rồi này
Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua.
Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được
sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện,
chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh
trong sáng không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta
nhớ đến các đời sống quá khứ, như
một đời, hai đời, ba đời, bốn
đời, năm đời, mười đời, hai
mươi đời, ba mươi đời, bốn
mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại
chỗ kia, T ó tên như thế này, ḍng họ như thế
này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được
sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, T ó tên
như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp
như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này".
Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh
trong sáng không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về
sanh tử củ húng sanh. Ta với thiên nhăn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết củ húng sanh. Ta
biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ
cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh đều do
hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những
ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc
Thánh,
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí.
Ta biết như thật: "Đây là Khổ", biết
như thật: "Đây là Nguyên nhân của khổ",
biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ",
biết như thật: "Đây là Con đường
đưa đến diệt khổ", biết như thật:
"Đây là những lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc",
biết như thật: "Đây là sự diệt trừ
các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là
con đường đưa đến sự diệt trừ
các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận
thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu.
Đối với tự thân đă giải thoát như vậy,
Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải
thoát" Ta đă biết: "Sanh đă diệt, phạm hạnh
đă thành, việc cần làm đă làm, sau đời hiện
tại không có đời sống nào khác nữa".
– Như vậy, Tôn giả Gotama thật đáng
tin cậy, v́ Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Nhưng không biết Tôn giả Gotam ó cho phép ngủ ban ngày
không?
– Này Aggivessana, T ó cho phép, vào cuối tháng hạ,
sau khi khất thực về, sau khi xếp áo sanghati (đại
y) thành bốn, chánh niệm tỉnh giác, Ta nằm xuống
ngủ, nằm phía tay mặt.
–
–
– Thưa vâng, Tôn giả.
– Đối với ai, các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, những lậu hoặc
liên hệ đến phiền năo, sanh khởi hậu hữu,
đáng sợ hăi, liên hệ đến phiền năo, sanh khởi
hậu hữu, đáng sợ hăi, đưa đến quả
khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết
trong tương lai, vị ấy Ta gọi là c̣n si ám. Này
Aggivessana, đối với ai các lậu hoặc đă
được đoạn trừ, những lậu hoặc,
đưa đến quả khổ dị thục, hướng
đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy
Ta gọi là không si ám.
Khi được nghe nói vậy,
– Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật
hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Dầu cho Tôn giả Gotama bị
chống đối một cách mỉa mai, dầu cho bị
công kích với những lời lẽ buộc tội trong
cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt,
sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ, như một
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận
tôi cùng với Purana Kassapa biện luận, vị này khi bị
tôi dùng lời nói chất vấn, liền tránh né với một
vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề,
và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận, tức tối.
C̣n Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một
cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời
lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu
da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn
hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
–
37. TIỂU KINH ĐOẠN
(Culatanhasankhavasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời,
– Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt,
đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận
giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn,
khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu
cánh viên măn, bậc tối thắng giữ hư Thiên và loài
Người?
– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo
được nghe như sau: "Thật không xứng
đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả
pháp".
Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn thuyết giảng, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất
tại chỗ. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahamoggallana ngồi
cách
– Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế
Tôn đă nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành
cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần
lời thuyết giảng ấy.
– Thiện hữu Moggallana, chúng tôi bận nhiều
công việc, chúng tôi có nhiều việc phải làm, việc
làm cho chúng tôi và việc làm cho chư thiên ở cơi trời
Ba mươi ba. Lại nữa, này Thiện hữu
Moggallana, lời thuyết giảng ấy được
khéo nghe, khéo nắm vững , khéo suy tư, khéo thẩm lự
nên không thể mau quên được.
Tôn giả Mahamoggallana im lặng nhận lời.
– Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế
Tôn đă nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành
cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần
lời thuyết giảng ấy.
Ở đây, này Thiện hữu Moggallana, tôi đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn và đứng một bên.
"– Bạch Thế Tôn, một cách tóm tắt,
đến mức độ nào, một Tỷ-kheo là ái tận
giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn,
khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu
cánh viên măn, bậc tối thắng giữ hư Thiên và loài
Người?
Khi nghe nói vậy, này Thiện hữu Moggallana,
"– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo
được nghe như sau: "Thật không xứng
đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả
pháp"". Vị ấy biết rơ tất cả pháp. Sau
khi biết rơ tất cả pháp, vị ấy biết một
cách rốt ráo tất cả pháp". Do biết một cách
rốt ráo tất cả pháp, nếu có cảm thọ nào, lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ,
vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán
tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán
tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ
sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống
quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong
các cảm thọ ấy nên không chấp trước một
vật ǵ ở đời; do không chấp trước nên
không phiền năo; do không phiền năo, vị ấy chứng
đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: "Sanh
đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc
cần làm đă làm, không c̣n trở lại đời này nữa".
"Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức
độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải
thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi
các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên
măn, bậc tối thắng giữ hư Thiên và loài Người".
Như vậy, này Thiện hữu Moggallana,
Rồi Tôn giả Mahamoggallana, sau khi hoan hỷ, tín
cho lời Thiên chủ Sakka nói, như một nhà lực sĩ
duỗi r ánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay
đang duỗi ra, biến mất giữ hư thiên ở
cơi trời Ba mươi ba, và hiện ra tại Đông Viên
Lộc Mẫu giảng đường. Sau khi Tôn giả Mahamoggallana
đi chẳng bao lâu, các thị nữ của Thiên chủ
Sakka nói với Thiên chủ Sakka như sau:
–
– Không, vị ấy không phải là
–
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có biết
chăng, Thế Tôn vừa mới nói về ái tận giải
thoát một cách tóm tắt cho một Dạ-xo ó đại
oai lực?
–
"– Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt,
đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận,
giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn,
khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu
cánh viên măn, bậc tối thắng giữ hư Thiên và loài
Người?
Khi nghe nói vậy, này Mahamoggallana, Ta nói với Thiên
chủ Sakka:
"– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo
được nghe như sau: "Thật không xứng
đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả
pháp".
Như vậy, này Moggallana, Ta biết Ta vừa nói
một cách tóm tắt về ái tận giải thoát cho Thiên
chủ Sakka.
38. ĐẠI KINH ĐOẠN
(Mahatanha sankhaya suttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ)
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (
Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau:
"Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi
lên ác tà kiến như sau: "
–
– Thật sự là vậy, chư Hiền, theo
như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, th́ thức
này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác.
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến
ấy, liền cật vấn, nạn vấn lư do, thảo
luận:
– Hiền giả Sati, chớ nói như vậy, chớ
xuyên tạc
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá,
dù được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, thảo
luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu
chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy.
– Thật sự là vậy, chư Hiền.
V́ các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho Tỷ-kheo
Sati, con người đánh cá từ bỏ ác tà kiến ấy,
nên các vị ấy đến chỗ Thế Tôn ở, khi
đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo
ấy bạch
–
"–
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá nói với chúng con
như sau:
"– Thật sự là vậy, chư Hiền.
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến
ấy, liền cật vấn, nạn vấn lư do, thảo
luận:
"– Hiền giả Sati chớ có nói như vậy.
Chớ có xuyên tạc
"Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của
người đánh cá dầu cho được chúng con cật
vấn, nạn vấn lư do, thảo luận, vẫn nói lên
ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm
chặt tà kiến ấy:
"– Thật sự là vậy,
Bạch Thế Tôn, v́ chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến
ấy, nên chúng con đến hỏi
–
– Thưa vâng, bạch
Tỷ-kheo ấy vâng lời
– Hiền giả Sati, bậc Đạo Sư gọi
Hiền giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá
đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế
Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên.
– Này Sati, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến
như sau: "
– Thật sư là vậy, bạch
– Này Sati, thế nào là thức ấy.
–
– Này kẻ mê mờ kia, v́ ai mà Ông lại hiểu
pháp Ta thuyết giảng như vậy. Này kẻ mê mờ
kia, có phải chăng, Ta đă dùng nhiều pháp môn nói là thức
do duyên khởi, không có duyên, th́ thức không hiện khởi?
Và này kẻ mê mờ kia, không những Ông xuyên tạc Ta, v́
Ông đă tự chấp thủ sai lạc, Ông c̣n tự phá
hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ
mê mờ kia, và như vậy sẽ đưa đến bất
hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.
– Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá, có thể khởi lên
–
Được nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của
người đánh cá, im lặng, hổ người, thụt
vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng.
– Này kẻ mê mờ kia, người ta sẽ biết
Ông qua ác tà kiến củ hính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi
các Tỷ-kheo.
– Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết
giảng giống như Tỷ-kheo Sati, con của người
đánh cá này, không những đă xuyên tạc Ta v́ đă tự
chấp thủ sai lạc, mà c̣n tự phá hoại ḿnh và tạo
nên nhiều tổn đức?
–
– Lành thay, chư Tỷ-kheo, lành thay, chư Tỷ-kheo,
các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy!
Chư Tỷ-kheo, Ta đă dùng nhiều pháp môn nói thức do
duyên khởi. Không có duyên, thức không hiện khởi.
Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá,
không những xuyên tạc Ta v́ đă tự chấp thủ
sai lạc, c̣n tự pháp hoại ḿnh và tạo nên nhiều tổn
đức, và như vậy sẽ đưa đến bất
hạnh và đau khổ lâu dài cho kẻ mê mờ ấy.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mà thức sanh, và thức ấy
có tên tùy
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sanh vật này
không?
–
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sự tác thành
sanh vật do món ăn ấy không?
–
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy, do sự
đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy cũng
bị đoạn diệt không?
–
– Này các Tỷ-kheo, v́ do dự nên nghi hoặc sanh.
– Sanh vật này có thể không có mặt?
–
– Này các Tỷ-kheo, v́ do dự nên nghi hoặc sanh.
Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
–
– Này các Tỷ-kheo, v́ do dự nên nghi hoặc sanh.
Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật
ấy có thể bị đoạn diệt hay không bị
đoạn diệt?
–
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật
với chánh trí tuệ, th́ sự nghi ngờ này được
trừ diệt. Sanh vật này có thể không có mặt.
–
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật
với chánh trí tuệ, th́ sự nghi ngờ này được
trừ diệt. Sự tác thành của món ăn ấy có thể
có hay không?
–
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật
với chánh trí tuệ, th́ sự nghi ngờ này được
trừ diệt. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy,
sanh vật có thể bị đoạn diệt hay không bị
đoạn diệt?
–
– Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối
với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải
không có nghi hoặc không?
–
– Này các Tỷ-kheo, sự tác thành của món ăn ấy,
(đối với vấn đề này), ở đây, các
Ông có phải không có nghi hoặc không?
–
– Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt
các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn
diệt, (đối với vấn đề này), ở
đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
–
– Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối
với vấn đề này) có phải các Ông khéo thấy,
nhờ như thật chánh trí tuệ không?
–
– Này các Tỷ-kheo, sự hiện hữu của
sanh vật ấy là do các món ăn ấy tác thành,... này, có phải
các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ
không?
–
– Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt
các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn
diệt, (đối với vấn đề này), có phải
các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ
không?
–
– Này các Tỷ-kheo, đối với tri kiến
này được thanh tịnh như vậy, được
làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông chấp trước,
lấy làm hănh diện, truy cầu, xem là của ḿnh, th́ này
các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ chiếc bè,
nói Pháp được giảng dạy là để
đưa vượt qua, không phải để nắm lấy.
–
– Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với tri
kiến này được thanh tịnh như vậy,
được làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông
không chấp trước, không lấy làm hănh diện, không
truy cầu, không xem là của ḿnh, th́ này các Tỷ-kheo, các Ông
có thể hiểu ví dụ của ḿnh, th́ này các Tỷ-kheo,
các Ông có thể hiểu ví dụ là của ḿnh, th́ này các Tỷ-kheo,
các Ông có thể ví dụ chiếc bè, nói Pháp được
giảng dạy là để đưa vượt qua, không
phải để nắm lấy.
–
– Này các Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú
các loài hữu t́nh đă sanh hay pḥ trợ các loài hữu t́nh
sẽ sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực hoặc thô
hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư
niệm thực, và thứ tư là thức thực. Và này
các Tỷ-kheo bốn món ăn này, lấy ǵ làm nhân duyên, lấy
ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm sanh chủng, lấy ǵ
làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy
ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái
làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, ái này lấy ǵ làm nhân duyên, lấy
ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm sanh chủng, lấy ǵ
làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm
tập khởi, lấy thọ làm `sanh chủng, lấy thọ
làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ này lấy ǵ làm nguyên
nhân, lấy ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm sanh chủng,
lấy ǵ làm nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy
xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sanh chủng, lấy xúc
làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc này lấy ǵ làm nguyên duyên,
lấy ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm sanh chủng, lấy
ǵ làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên, lấy sáu
nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm sanh chủng,
lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập
này lấy ǵ làm nhân duyên, lấy ǵ làm tập khởi, lấy
ǵ làm sanh chủng, lấy ǵ làm nguyên nhân? Sáu nhập lấy
danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi,
lấy danh sắc làm sanh chủng, lấy danh sắc làm
nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc này lấy ǵ làm nhân
duyên, lấy ǵ làm tập khởi, lấy ǵ làm sanh chủng,
lấy ǵ làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân
duyên, lấy thức là tập khởi, lấy thức làm
sanh chủng, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo,
thức này lấy ǵ làm nhân duyên, lấy ǵ làm tập khởi,
lấy ǵ làm sanh chủng, lấy ǵ làm nguyên nhân? Thức lấy
hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành
làm sanh chủng, lấy hành làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo,
các hành này lấy ǵ làm nhân duyên, lấy ǵ làm tập khởi,
lấy ǵ làm sanh chủng, lấy ǵ làm nguyên nhân? Các hành lấy
vô minh làm sanh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên
xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo được hiện hữu. Như
vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
này.
– Trước đă nói: Sanh duyên già, chết (Do
duyên sanh nên già, chết hiện khởi). Này các Tỷ-kheo,
sanh duyên già, chết có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
- Trước đă nói: hữu duyên sanh. Này các Tỷ-kheo,
hữu duyên sanh có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
- Trước đă nói: Thủ duyên hữu. Này các
Tỷ-kheo, thủ duyên hữu có phải không? Hay ở
đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Ái duyên thủ. Này các Tỷ-kheo,
ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây, (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Thọ duyên ái. Này các Tỷ-kheo,
thọ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Xúc duyên thọ. Này các Tỷ-kheo,
xúc duyên thọ có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Sáu nhập duyên xúc. Này các
Tỷ-kheo, sáu nhập duyên xúc có phải không? Hay ở
đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Danh sắc duyên sáu nhập.
Này các Tỷ-kheo, danh sắc duyên sáu nhập có phải không?
Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Thức duyên danh sắc.
Này các Tỷ-kheo, thức duyên danh sắc có phải không? Hay
ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Hành duyên thức: Này các Tỷ-kheo,
hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Vô minh duyên hành. Này các Tỷ-kheo,
vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy
và T ũng nói như vậy: "Cái này có nên cái ki ó, cái này
sanh nên cái kia sanh", như vô minh duyên hành, hành duyên thức,
thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập
duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, năo cùng sanh khởi. Như vậy, là sự
tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do vô
minh đoạn diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các
hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức
diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu
nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc
diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt.
Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu
diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo đều diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ
khổ uẩn này.
Trước đă nói: Do sanh diệt nên già, chết
diệt. Này các Tỷ-kheo, do sanh diệt nên già, chết diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do hữu diệt nên sanh
diệt. Này các Tỷ-kheo, do hữu diệt nên sanh diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do thủ diệt nên hữu
diệt. Này các Tỷ-kheo, do thủ diệt nên hữu diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do ái diệt nên thủ diệt.
Này các Tỷ-kheo, do ái diệt nên thủ diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do thọ diệt nên ái diệt.
Này các Tỷ-kheo, do thọ diệt nên ái diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do xúc diệt nên thọ diệt.
Này các Tỷ-kheo, do xúc diệt nên thọ diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do sáu nhập diệt nên
xúc diệt. Này các Tỷ-kheo, do sáu nhập diệt nên xúc diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do danh sắc diệt nên
sáu nhập diệt. Này các Tỷ-kheo, do danh sắc diệt
nên sáu nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do thức diệt nên danh
sắc diệt. Này các Tỷ-kheo, do thức diệt nên danh
sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do hành diệt nên thức
diệt. Này các Tỷ-kheo, do hành diệt nên thức diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Trước đă nói: Do vô minh diệt nên hành diệt.
Này các Tỷ-kheo, do vô minh diệt nên hành diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
–
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy
và T ũng nói như vậy: "Cái này không có nên cái kia không
có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vô minh diệt
nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt
nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt,
sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt,
thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt,
thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt,
sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu năo diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ
khổ uẩn này.
Này các Tỷ-kheo, các Ông nên biết như vậy,
thấy như vậy, có c̣n chạy
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, có c̣n chạy
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, các Ông có nghi ngờ ǵ về ḿnh trong thời
hiện tại: "T ó mặt hay ta không có mặt. T ó mặt
như thế nào? T ó mặt, h́nh vóc như thế nào? Hữu
t́nh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi
đâu"?
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, các Ông có nói như sau: "Bậc Đạo
Sư quá nặng nề (?) đối với chúng ta. Chúng ta
nói v́ chúng ta tôn trọng bậc Đạo Sư"?
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, các Ông có nói như sau: "Một Sa-môn nói với
chúng tôi như vậy, các Sa-môn khác cũng vậy(?), và c̣n
chúng tôi không có nói như vậy"?
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, các Ông có t́m một vị Đạo Sư
khác không?
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy
như vậy, các Ông có trở lui lại các giới cấm,
tế tự (?) đàn tràng củ ác tục tử Sa-môn,
Bà-la-môn (và nghĩ rằng) chúng là căn bản không?
– Thưa không, bạch
– Này các Tỷ-kheo, có phải các Ông chỉ nói những
ǵ các Ông tự biết, tự thấy, tự ư thức
được?
– Thưa vâng, bạch
– Lành thay, này các Tỷ-kheo,! Này các Tỷ-kheo, các
Ông đă được ta giới thiệu
Này các Tỷ-kheo, có ba sự ḥa hợp mà một
bào thai thành h́nh: ở đây, cha mẹ có giao hợp và
người mẹ không trong thời có thể thụ thai,
và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy
bào thai không thể thành h́nh. Ở đây, cha và mẹ có giao
hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ
thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền,
như vậy bào thai không thể thành h́nh. Và này các Tỷ-kheo,
khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời
có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền;
có ba sự ḥa hợp như vậy, th́ bào thai mới thành
h́nh. Rồi này các Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay
mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn
đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo,
sau chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ
với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy.
Khi đă sinh, người mẹ nuôi (hài nhi ấy) với
máu của ḿnh. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc
Thánh, sữ ủa bà mẹ được xem là máu. Này các Tỷ-kheo,
đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn
đă thuần thục, chơi vơi những tṛ chơi
dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ,
chơi khăng, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong
chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe
con, chơi cung nhỏ. Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ
sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức,
được thuần thục, thọ hưởng đầy
đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận
thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc,
khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn; các tiếng do
tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức...
Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm
xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả
ư, kích thích ḷng dục.
Khi thấy sắc bằng mắt, người
đó tham ái đối với sắc đẹp, người
đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người
đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm
nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ
tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà
các ác bất thiện pháp của người đó
được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy,
đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch)
có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ,
hay bất khổ bất lạc thọ, người đó
tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. V́ tùy hỷ,
hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục
sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm
thọ ấy, nên dục hỷ sanh, có tâm dục hỷ
đối với những cảm thọ ấy, tức là
chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu
nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, năo, sanh. Như vậy là sự tập khởi của
toàn bộ khổ uẩn này. Khi người đó nghe tiếng
với tai... (như trên)... khi người đó ngửi
hương với mũi... (như trên)... khi người
đó nếm vị với lưỡi... (như trên)... khi
người đó cảm xúc với thân... (như trên)... khi
người đó nhận thức pháp với ư, người
đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối
với pháp xấu. Người đó sống niệm không
an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người
đó không như thật tuệ tri đến tâm giải
thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất
thiện pháp của người đó được trừ
diệt, không c̣n dư tàn. Như vậy, đối diện
với thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào
khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ
bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan
nghênh, tham trước cảm thọ ấy. V́ người
đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy
nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với
những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do
duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi;
do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo sanh.
Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ
uẩn này.
Ở đời, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất
hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự chứng
ngộ với thượng trí, thế giới này với
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả
thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại
tuyên thuyết điều Như Lai đă chứng ngộ. Như
Lai thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
đầy đủ văn nghĩa. Như Lai truyền dạy
phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con vị gia trưởng,
hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện)
nào nghe Pháp ấy. Sau khi nghe Pháp, người ấy sanh ḷng
kính ngưỡng Như Lai. Khi có ḷng tín ngưỡng, vị
ấy suy nghĩ: "Đời sống gia đ́nh đầy
những triền phược, con đường đầy
những bụi đời. Đời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một
người sống ở gia đ́nh có thể sống theo
phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh,
trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh". Sau một thời gian,
người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản
lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến
thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Khi đă xuất gia như vậy, vị ấy sống
thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sanh,
tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quư, có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh
phúc tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh. Vị ấy từ
bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật
đă cho, chỉ mong những vật đă cho, sống thanh
tịnh, không có trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, sống
theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ
dâm dục hèn hạ, từ bỏ nói láo, nói những lời
chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn,
đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại
đối với đời, từ bỏ nói hai lưỡi,
tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều ǵ ở chỗ
này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở
những người này, nghe điều ǵ ở chỗ
kia, không đến nói với những người này để
sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy,
vị ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, khuyến
khích những kẻ ḥa hợp, hoan hỷ trong ḥa hợp,
thoải mái trong ḥa hợp, hân hoan trong ḥa hợp, nói những
lời đưa đến ḥa hợp, từ bỏ lời
nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những
lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ
thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp
ḷng nhiều người, từ bỏ lời nói phù phiếm,
tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những
lời chân thật, nói những lời có ư nghĩa, nói những
lời về Chánh Pháp, nói những lời về Luật,
nói những lời đáng được ǵn giữ, những
lời hợp thời, thuận lư, có mạch lạc hệ
thống, có ích lợi. Vị ấy từ bỏ làm hại
đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một
ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn
phi thời, từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, tŕnh diễn,
từ bỏ trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu,
dầu thơm và các thời trang, từ bỏ dùng giường
cao và giường lớn, từ bỏ nhận vàng bạc,
từ bỏ nhận các hạt sống, từ bỏ nhận
thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái, từ
bỏ nhận nô tỳ, gái và trai, từ bỏ nhận cừu
và dê, từ bỏ nhận gi ầm và heo, từ bỏ nhận
voi, ḅ, ngựa và ngự ái, từ bỏ nhận ruộng
nương và đất đai, từ bỏ nhận
người môi giới hoặc tự ḿnh làm môi giới, từ
bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng
cân, tiền bạc, đo lường, từ bỏ các tà hạnh
như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ
làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt,
trộm cắp, cướp phá. Vị ấy biết đủ
với tấm y để che thân, với đồ ăn
khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ
nào cũng mang theo (y và b́nh bát). Ví như con chim bay đến
chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo
biết đủ với tấm y để che thân, với
đồ ăn khất thực để nuôi bụng,
đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và b́nh bát). Vị ấy
nhờ thành tựu Thánh giới uẩn này nên hưởng
được lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân ǵ khiến con mắt không được chế
ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp
khởi lên; vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ tŕ con mắt, thực hành sự hộ tŕ con mắt.
Khi tai nghe tiếng... (như trên)... mũi ngửi
hương... (như trên)... lưỡi nếm vị...
(như trên)... thân cảm xúc... (như trên)... ư nhận thức
các pháp; vị ấy không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ
khiến ư căn không được chế ngự, khiến
tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị
ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ ư căn, thực
hành sự hộ tŕ ư căn. Vị ấy nhờ sự hộ
tŕ cao quư các căn ấy, nên hưởng lạc thọ, nội
tâm không lỗi lầm. Vị ấy khi đi tới, khi
đi lui đều tỉnh giác, khi nh́n thẳng, khi nh́n
quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác, khi mang y kép, b́nh bát, thượng y đều tỉnh
giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác,
khi đi đại tiểu tiện, tiểu tiện đều
tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức,
nói, im lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy với sự thành tựu Thành giới
uẩn này, với sự thành tựu Thánh hộ tŕ căn
này, và với Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một
chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng, gốc
cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống
rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị
ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, tại chỗ
nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy
từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ
sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận,
ḷng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
t́nh, gột rửa, tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn
trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm
thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh
sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn
trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối
quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm
lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc.
Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi
nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa
tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Sau khi từ bỏ năm triền cái làm ô nhiễm
tâm, làm cho yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục,
ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm
có tứ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt
tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm giác sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền
thứ ba. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Khi vị ấy thấy sắc bằng mắt, vị
ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không
ghét bỏ đối với sắc xấu, vị ấy sống
an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy
như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị
ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm
thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ,
không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. V́ vị ấy
không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy,
nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ,
dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục
hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ
diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.
Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo
diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của
toàn bộ khổ uẩn này. Khi vị ấy nghe tiếng bằng
tai... (như trên)... khi vị ngửi hương bằng mũi...
(như trên)... Khi vị ấy nếm vị bằng lưỡi...
(như trên)...Khi vị ấy cảm xúc bằng thân...
(như trên)... Khi vị ấy nhận thức pháp bằng
ư, vị ấy không tham ái đối với pháp tốt,
không ghét bỏ đối với pháp xấu. Vị ấy
sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị
ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của vị
ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Như vậy, vị ấy đoạn trừ (thuận
nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ,
khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; vị
ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ
ấy. V́ vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không
tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào
đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy
được trừ diệt. Do dục hỷ của vị
ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu
diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo diệt. Như vậy
là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này. Này các Tỷ-kheo, các Ông hăy thọ tŕ ái tận giải
thoát này, được Ta nói một cách tóm tắt, nhưng
(phải nhớ là) Tỷ-kheo Sati, con của người
đánh cá, đă bị mắc trong cái lưới lớn của
ái, trong sự rối loạn của ái.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.