Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
45. TIỂU KINH PHÁP HÀNH [^]
(Culadhammasamadanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo !
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những vị Tỷ-kheo ấy vâng
đáp
– Này các Tỷ-kheo, có bốn loại pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo,
có loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả
báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại
pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng
khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp
hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại
lạc, và tương lai quả báo cũng lạc.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là loại
pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Này các Tỷ-kheo, có mọt số
Sa-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau:
"Không có lỗi trong các dục". Những vị này
đắm mình trong các dục, hoan lạc với các cô gái
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng
khổ? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống
phóng túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất
thực không chịu bước tới, đi khất thực
không chịu đứng lại, không nhận đồ
ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc
biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn,
không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo,
không nhận đồ ăn đặt tại ngưỡng
cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những
cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa
những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ
hai người đang ăn, không nhận đồ ăn
từ người đàn bà có thai, không nhận đồ
ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận
đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu,
không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ
ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ
ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt,
không uống rượu nấu, rượu men, cháo cám. Vị
ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận
ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận
ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị
ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy
chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy
nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với
hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy
chỉ ăn một ngày một bữa,
hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy
vị ấy sống
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng
lạc? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra không quá nặng về
tham ái, không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ
ưu do tham ái sanh; có người tự tánh sanh ra không quá nặng
về sân hận, không luôn luôn cảm thọ những cảm
giác khổ ưu do sân hận sanh; có người tự tánh
sanh ra không quá nặng về si mê, không luôn luôn cảm thọ
những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Vị ấy
ly dục, ly các pháp bất thiện chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ; diệt tầm và tứ, chứng
và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất
tâm; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và an trú Thiền thứ ba; xả lạc và xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh. Vị ấy sau khi thân hoại
mạng
46. ĐẠI KINH PHÁP HÀNH [^]
(Mahadhammasamadanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu
tình có dục như thế này, có ước vọng như
thế này, có nguyện vọng như thế này: "Ôi,
mong rằng các pháp bất khả ái, bất khả lạc,
bất khả ý được tiêu diệt! Mong
rằng các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được
tăng trưởng!" Này các Tỷ-kheo, dầu cho
các loài hữu tình ấy có dục như vậy, có ước
vọng như vậy, có nguyện vọng như vậy,
nhưng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất
khả ý được tăng trưởng; các pháp khả
ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Người có biết
vì nguyên nhân gì không?
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con,
các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế
Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ.
Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết
giảng cho ý nghĩa này! Sau khi được
nghe
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn
phàm phu, không đi đến các bậc Thánh, không thuần
thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần
thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc
Chân nhân, không biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết
rõ các pháp không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên
thân cận, không biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì không
biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết rõ các pháp
không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên thân cận,
không biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục
vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các
pháp nên phục vụ, thân cận các pháp không nên thân cận,
không thân cận các pháp nên thân cận. Vị này vì phục vụ
các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên
phục vụ, vì thân cận các pháp không nên thân cận, không
thân cận các pháp nên thân cận, cho nên các pháp bất khả
ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng;
các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt.
Vì sao vậy? Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là vì người ấy không có trí đối
với pháp này. Và này các Tỷ-kheo, vị Đa văn
Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần
thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh,
đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các
bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, biết rõ
các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ,
biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên
thân cận. Vì biết rõ các pháp nên phục vụ, biết
rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận,
biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục vụ
các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên
phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận
các pháp không nên thân cận. Vị này vì phục vụ các pháp
nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục
vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các
pháp không nên thân cận, cho nên các pháp bất khả ái, bất
khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp
khả ái, khả lạc, khả ý được tăng
trưởng. Vì sao vậy? Như vậy này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
có trí đối với pháp này.
Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp hành. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại khổ,
tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, các pháp hành hiện tại khổ,
tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo,
có pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo
khổ. Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện
tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả
báo cũng khổ.
Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ
tri như chân: "Đây là pháp hành hiện tại khổ
và tương lai quả báo cũng khổ". Do vô trí với
pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên phục vụ
pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ
pháp này, vì không tránh né pháp nầy, nên đối với vị
này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất
khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc,
khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy?
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
không có trí đối với pháp này. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc
tương lai quả báo khổ. Do vô trí với pháp
này, do si mê nên không biết như chân: "Đây là pháp hành
hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ".
Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân,
nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp
này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối
với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc,
bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả
lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy?
Như vậy này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
không có trí đối với pháp này. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ,
tương lai quả báo lạc. Do vô trí với pháp
này, do si mê nên không tuệ tri như chân: "Đây là pháp
hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc".
Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân,
nên không phục vụ pháp này, tránh né pháp
này. Vì không phục vụ pháp này, tránh né pháp này, nên đối
với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc,
bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả
lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy?
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
không có trí đối với pháp này? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, đấy là pháp hành hiện tại
lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Do vô
trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ
tri như chân: "Đây là pháp hành hiện tại lạc
và tương lai quả báo cũng lạc". Do vô trí với
pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên không phục
vụ pháp này, tránh né pháp này. vì không phục
vụ pháp này, vì tránh né pháp này, nên đối với vị
này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất
khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc,
khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy?
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
không có trí đối với pháp này.
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả
báo cũng khổ.
Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ
tri như chơn: "Pháp hành này hiện tại khổ và
tương lai quả báo cũng khổ". Do có trí với
pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chơn, vị
này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục
vụ pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất
khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp
khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp
này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây
là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo
khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị
này tuệ tri như chơn: "Pháp hành này hiện tại
lạc, tương lai quả báo khổ". Do có trí với
pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chân, vị này
không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục vụ
pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả
lạc, bất khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả
lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy?
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
có trí đối với pháp này. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ,
tương lai quả báo lạc. Do có trí đối với
pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân:
"Pháp này hiện tại khổ, tương lai quả
báo lạc". Do có trí đối với pháp này, do tâm sáng
suốt, do tuệ tri như chân, vị này phục vụ
pháp này, không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, không tránh
né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất
khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả
ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
có trí đối với pháp này. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc
và tương lai quả báo cũng lạc. Do có trí với
pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân:
"Pháp hành này hiện tại lạc và tương lai quả
báo cũng lạc". Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt,
do tuệ tri như chân, vị này phục vụ pháp này,
không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, do không tránh né
pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất
khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả
ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy
có trí đối với pháp này.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng
khổ? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người với khổ, với ưu,
sát sanh, và do duyên sát sanh, cảm thọ khổ ưu; với
khổ, với ưu lấy của không cho, và do duyên lấy
của không cho, cảm thọ khổ ưu; với khổ,
với ưu sống theo tà hạnh trong các dục, và do
duyên sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu nói lời vọng ngữ,
và do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu nói lời hai lưỡi,
và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu, nói lời ác ngữ, và
do duyên nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu; với
khổ, với ưu, nói lời phù phiếm và do duyên nói lời
phù phiếm, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với
ưu, có tâm tham ái, và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu có tâm sân hận, và do
duyên có tâm sân hận cảm thọ khổ ưu; với khổ,
với ưu có tà kiến, và do duyên tà kiến cảm thọ
khổ ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người với lạc, với hỷ, sát sanh và do duyên
sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với
hỷ, lấy của không cho và do duyên lấy của không
cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với
hỷ, sống theo tà hạnh trong các dục, và do duyên sống
theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ;
với lạc, với hỷ, nói lời vọng ngữ, và
do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ lạc và hỷ;
với lạc, với hỷ, nói lời hai lưỡi, và
do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ;
với lạc, với hỷ, nói lời ác ngữ và do duyên
nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ; với
lạc, với hỷ, nói lời phù phiếm, và do duyên nói lời
phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc,
với hỷ, có tâm tham ái và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ
lạc và hỷ, với lạc, với hỷ, có tâm sân hận,
và do duyên có tâm sân hận, cảm thọ lạc và hỷ; với
lạc, với hỷ, có tà kiến, và do duyên có tà kiến,
cảm thọ lạc và hỷ. Vị này sau khi thân hoại
mạng
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người với khổ với ưu, từ bỏ sát
sanh, và do duyên từ bỏ sát sanh cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ lấy của
không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho cảm
thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ
tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ tà hạnh
trong các dục, cảm thọ khổ ưu; với khổ,
với ưu từ bỏ nói lời vọng ngữ và do
duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ cảm thọ
khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ
nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ nói lời
hai lưỡi, cảm thọ khổ ưu; với khổ,
với ưu, từ bỏ nói lời ác ngữ, và do duyên từ
bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu; với
khổ, với ưu, từ bỏ nói lời phù phiếm,
và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm thọ
khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ
tâm tham ái, và do duyên từ bỏ tâm tham ái, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tâm sân hận,
và do duyên từ bỏ tâm sân hận, cảm thọ khổ
ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tà kiến,
và do duyên từ bỏ tà kiến, cảm thọ khổ
ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng
lạc? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ,
từ bỏ sát sanh và do duyên từ bỏ sát sanh, cảm thọ
lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ
lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của
không cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với
hỷ, từ bỏ các tà hạnh trong các dục, và do duyên
từ bỏ các tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc
và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời
vọng ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ,
cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ,
từ bỏ nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ
nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ; với
lạc, với hỷ, từ bỏ ác ngữ, và do duyên từ
bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ;
với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời phù
phiếm, và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm
thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, không
có tham ái, và do duyên không có tham ái, cảm thọ lạc và hỷ;
với lạc, với hỷ, không có sân tâm và do duyên không có
sân tâm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với
hỷ, có chánh kiến và do duyên chánh kiến, cảm thọ
lạc và hỷ. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, ví như trái bí
đắng có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến
muốn sống, muốn không chết, ưa lạc, hiềm
ghét khổ, và có người nói với người ấy
như sau: "Này bạn, trái bí đắng này có tẩm thuốc
độc, nếu bạn muốn, hãy ăn. Trong
khi ăn, bạn không được thích thú về sắc,
về hương, về vị. Sau khi
ăn, bạn có thể đi đến chết hay đau
khổ gần như chết". Người ấy
có thể ăn không có suy nghĩ, không có
từ bỏ. Trong khi ăn, người ấy
không được thích thú về sắc, về
hương, về vị. Sau khi ăn,
người ấy bị chết, hay bi đau khổ gần
như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành
hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng
khổ.
Này các Tỷ-kheo, ví như một
bình đồng đựng nước uống, có sắc,
có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm
thuốc độc. Rồi một người đến,
muốn sống, muốn không chết, muốn ưa lạc,
hiềm ghét khổ. Và có người nói với người
ấy như sau: "Này bạn, bình đồng đựng
nước uống này, có sắc, có hương, có vị,
và nước uống ấy có tẩm thuốc độc.
Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ được thích
thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, bạn có thể đi đến
chết hay đau khổ gần như chết". Người ki ó thể uống, không suy nghĩ,
không từ bỏ. Trong khi uống,
người ấy được thích thú về sắc, về
hương, về vị. Sau khi uống,
người ấy có thể đi đến chết hay
đau khổ gần như chết. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy,
tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả
báo khổ.
Này các Tỷ-kheo, ví như nước
đái quỷ được trộn nhiều loại thuốc. Rồi có người đi đến,
bị bệnh hoàng đản, và có người nói với
người đó như sau: "Này bạn, nước
đái quỷ này được trộn với nhiều loại
thuốc. Nếu bạn muốn, hãy uống.
Trong khi uống, bạn không được
thích thú về sắc, về hương, về vị.
Nhưng sau khi uống, bạn sẽ
được an lạc". Người
ấy có thể uống, sau khi suy nghĩ, không có từ bỏ.
Trong khi uống, người ấy không
được thích thú về sắc, về hương, về
vị. Nhưng sau khi uống, người
ấy được an lạc. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là
pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
Này các Tỷ-kheo, ví như lạc, mật,
thục tô và đường trộn lẫn với nhau. Rồi có người
đi đến bị bệnh kiết lỵ. Và có
người nói với người ấy như sau:
"Này bạn, đây là lạc, mật, thục tô và
đường trộn lẫn với nhau. Nếu
bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống,
bạn sẽ được thích thú về sắc, về
hương, về vị. Sau khi uống,
bạn sẽ được an lạc". Người ki ó thể uống, sau khi suy nghĩ,
không có từ bỏ. Trong khi uống, người kia được thích thú về sắc, về
hương, về vị. Sau khi uống, người kia được an lạc. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy,
tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả
báo cũng lạc. Này các Tỷ-kheo, ví như trong tháng
cuối mùa mưa, vào mùa thu, mùa gặt hái, khí bầu trời
quang đãng, không có mây, và mặt trời mọc lên giữa
bầu trời, phá sạch hắc ám khắp cả hư
không, và chói sáng, hực sáng và rực sáng. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, pháp hành hiện tại lạc, tương
lai quả báo cũng lạc này, sau khi phá sạch các dị
thuyết củ ác Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường, chói
sáng, hực sáng và rực sáng.
47. KINH TƯ SÁT [^]
(Vimamsakastuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá của
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn
biết rõ tập tánh (Cetapariyayam) của người khác, cần
phải tìm hiểu về Như Lai, để ý thức
được Ngài có Chánh Đẳng Giác hay không?
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con,
các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế
Tôn làm bậc lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn
làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay, Thế Tôn
thuyết giảng cho ý nghĩa này! Sau khi
được nghe
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn
biết rõ tập tánh của người khác, cần phải
tìm hiểu về Như Lai trên hai loại pháp: Các pháp do mắt,
tại nhận thức, nghĩ rằng: "Những pháp ô
nhiễm do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy
có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?"
Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo được
biết như sau: "Những pháp ô nhiễm do mắt, tai
nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi
ở Như Lai". Sau khi tìm hiểu như vậy và biết
được như sau: "Những pháp ô nhiễm do mắt,
tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi
ở Như Lai". Vị ấy tìm hiểu thêm: "Những
tạp pháp (khi nhiễm khi tịnh) do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện
khởi ở
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, đối với ai mà lòng tin
đối với Như Lai được an lập,
căn cứ, an trú trên những dữ kiện, những
văn cú, những văn tự như vậy, này các Tỷ-kheo,
lòng tin như vậy được gọi là có dữ kiện
đầy đủ, căn cứ trên (chánh) kiến, vững
chắc, không thể bị phá hoại bởi một Sa-môn,
Bà-la-môn, chư thiên, Ma ra, Phạm thiên hay bất cứ ai ở
đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tìm hiểu
về Như Lai, và như vậy Như Lai mới
được khéo tìm hiểu một cách đúng pháp.
48. KINH KOSAMBIYA [^]
(Kosambiyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Kosambi, tại tịnh xá Ghosita. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ở
Kosambi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau,
đả thương nhau bằng những binh khí miệng
lưỡi. Họ không tự thông cảm
nhau, không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa
giải, không chấp nhận hòa giải. Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ
– Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ở
Kosambi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh
nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng
lưỡi. Họ không tự thông cảm
nhau, không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa
giải nhau, không chấp nhận hòa giải.
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo và bảo
như sau:
– Này các Tỷ-kheo, hãy đi, và nhân danh Ta, bảo
các Tỷ-kheo ấy như sau: "Bậc Đạo Sư
cho gọi chư Tôn giả".
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến
chỗ các Tỷ-kheo ấy ở sau khi đến, liền
thưa với các Tỷ-kheo ấy:
– Bậc Đạo Sư cho gọi chư Tôn giả.
– Hiền giả, vâng.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên:
– Này các Tỷ-kheo, có đúng sự thật
chăng, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu
tranh, đả thương nhau bằng những binh khí miệng
lưỡi. Và các Ông không tự thông cảm
nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải
nhau, không chấp nhận hòa giải?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Trong
khi các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu
tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng
lưỡi; trong khi ấy các Ông có an trú từ thân hành đối
với các vị đồng phạm hạnh cả trước
mặt lẫn sau lưng không, các Ông có an trú từ khẩu
hành đối với các vị đồng phạm hạnh
cả trước mặt lẫn sau lưng không, các Ông có
an trú từ ý hành đối với các vị đồng phạm
hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông đã chấp
nhận rằng, trong khi các Ông sống cạnh tranh, luận
tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng
binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy, không có an trú từ
thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh
cả trước mặt lẫn sau lưng, không có an trú từ
khẩu hành đối với các vị đồng phạm
hạnh cả trước mặt lẫn sanh lưng, không
có an trú từ ý hành đối với các vị đồng
phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau
lưng. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, do biết
gì, do thấy gì, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh,
đấu tranh, đả thương nhau với những
binh khí miệng lưỡi; và các Ông không tự thông cảm
nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải
nhau, không chấp nhận hòa giải. Như vậy, này các kẻ
mê mờ kia, các Ông sẽ phải chịu
bất hạnh, đau khổ trong một thời gian dài.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này cần phải ghi
nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương
kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến
vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế
nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành đối với các vị
đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn
sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo
thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận,
hòa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo an trú từ khẩu hành... (như trên)... an trú từ ý hành đối với
các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt
lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ,
tạo thành tương ái, tạo thành tương kính,
đưa đến hòa đồng, đưa đến
không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận
được đúng pháp, hợp pháp, cho đến những
tài vật thâu nhận chỉ trong bình bát, Tỷ-kheo không phải
là người không san sẻ, các tài vật nhận
được như vậy, phải là người san sẻ
dùng chung với các vị đồng phạm hạnh có giới
đức. Pháp này... (như trên)...
đưa đến nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
đối với các giới luật không có vi phạm,
không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế
tạp, giải thoát, được người trí tán
thán, không bị chấp trước, đưa đến
thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu trong các
giới luật ấy với các vị đồng phạm
hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp
này... (như trên)... đưa đến
nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với
các tri kiến thuộc về bậc Thánh có khả năng
hướng thượng, khiến người thực
hành chân chánh diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo, sống
thành tựu tri kiến như vậy, cùng với các đồng
phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau
lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo
thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận,
hòa hợp, nhất trí. Này các Tỷ-kheo,
có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành
tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến
hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp,
nhất trí. Này các Tỷ-kheo, trong sáu pháp cần phải
ghi nhớ này, có một pháp tối thượng, thâu nhiếp
tất cả, làm giềng mối cho tất cả, chính là
tri kiến này, thuộc về bậc Thánh, có khả
năng hướng thượng, khiến người thực
hành chân chánh diệt tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo,
ví như một căn nhà có mái nhọn như ngọn tháp,
có một pháp tối thượng, thâu nhiếp tất cả,
làm giềng mối cho tất cả, chính là mái nhọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong sáu pháp cần
phải ghi nhớ này, có một pháp tối thượng...
khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ
đau.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là tri kiến
thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng
thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt
tận khổ đau? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi
đến ngôi rừng, hay đi đến dưới gốc
cây, hay đi đến chỗ trống vắng và suy nghĩ
như sau: "Không biết t ó nội triền nào chưa
đoạn trừ không? Do nội triền này nếu tâm ta
bị triền phược, thì ta không thể biết
như thật, không thể thấy như thật?" Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị tham dục
triền phược, cho đến như vậy, tâm (của
vị này) bị triền phược. Này
các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị sân triền phược,
cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị
triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo bị hôn trầm thụy miên triền phược,
cho đến như vậy tâm (của vị này) bị triền
phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
bị trạo hối triền phược, cho đến
như vạy, tâm (của vị này) bị triền phược.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị nghi
triền phược, cho đến như vậy, tâm (của
vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo có tâm bị thế sự đời này
ràng buộc, cho đến như vậy, tâm (của vị
này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu vị
Tỷ-kheo có tâm bị thế sự đời sau ràng buộc,
cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị
triền phược. Tỷ-kheo sống cạnh
tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương
nhau với những binh khí miệng lưỡi, cho đến
như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược.
Vị ấy biết rõ như sau: "Ta không có nội triền
chưa được đoạn trừ, do nội triền
này nếu tâm ta bị triền phược, ta không thể
biết như thật, không thể thấy như thật.
Ý của ta được khéo hướng
đến sự giác ngộ các sự thật". Đó là trí thứ nhất mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm
phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Trong khi ta thực tập,
tu tập, luyện tập nhiều lần tri kiến này;
ta tự đạt được tịch chi, ta tự
đạt được tịnh chi". Vị này biết
rõ như sau: "Trong khi ta thực tập, tu tập, luyện
tập nhiều lần tri kiến này; ta tự đạt
được tịch chi, ta tự đạt được
tịch chi". Đó là trí thứ hai mà vị
này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Tri kiến như ta đã
thành tựu có thể có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào ngoài tổ
chức này, thành tựu tri kiến như vậy không?"
Vị ấy hiểu rõ như sau: "Tri kiến như ta
đã thành tựu không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, ngoài
tổ chức này, thành tựu tri kiến như vậy".
Đó là tri thứ ba mà vị này chứng được,
thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng
chứng...
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Pháp tánh (Dhammata) mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu, pháp tánh
như vậy t ó thành tựu hay không?" Và
này các Tỷ-kheo, pháp tánh ấy là gì mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu? Đây
là pháp tánh, này các Tỷ-kheo, mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Bất
cứ giới tội nào vị này vị phạm, giới
tội ấy liền được xuất tội.
Vị này lập tức phát lộ, tỏ bày, trình bày
trước bậc Đạo Sư hay trước các vị
đồng phạm hạnh có trí. Sau khi phát lộ,
tỏ bày, trình bày, vị ấy phòng hộ gìn giữ trong
tương lai. Này các Tỷ-kheo, ví như một đứa
trẻ con, ngây thơ, nằm ngửa, lập tức rút lui
tay hay chân nếu tay hay chân của nó chạm
phải than đỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là pháp tánh mà một vị chứng được
tri kiến thành tựu. Bất cứ giới tội
nào... (như trên)... phòng hộ gìn giữ
trong tương lai. Vị ấy biết rõ như sau:
"Pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến
thành tựu, pháp tánh như vậy t ó thành tựu". Như vậy là trí thứ tư mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm
phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Pháp tánh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy
t ó thành tựu hay không?" Và này các Tỷ-kheo,
pháp tánh ấy là gì mà một vị chứng được
tri kiến thành tựu? Đây là pháp tánh,
này các Tỷ-kheo, mà một vị chứng được
tri kiến thành tựu. Bất luận sự
việc cần phải làm dầu lớn nhỏ gì, giúp cho
các vị đồng phạm hạnh; vị này nỗ lực
thực hiện, nhưng tha thiết hướng đến
tăng thượng giới học, tăng thượng
tâm học, tăng thượng tuệ học. Này các
Tỷ-kheo, ví như con bò có các con nghé, khi đang nhổ lùm
cỏ lên (ăn), vẫn coi chừng con nghé. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, đây là pháp tánh mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu. Bất
luận... (như trên)... tăng thượng
tuệ học. Vị này biết rõ như sau: "Pháp tánh
mà một vị chứng được tri kiến thành tựu,
pháp tánh như vậy t ó thành tựu". Như
vậy là trí thứ năm mà vị này chứng được,
thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng
chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Sức mạnh mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu, sức mạnh
như vậy t ó thành tựu hay không?" Và
này các Tỷ-kheo, sức mạnh ấy là gì mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu? Đây là sức mạnh, này các Tỷ-kheo, một
vị chứng được tri kiến thành tựu.
Trong khi Pháp và Luật do
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Sức mạnh mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu, sức mạnh
như vậy t ó thành tựu hay không?" Và
này các Tỷ-kheo, sức mạnh ấy là gì mà một vị
chứng được tri kiến thành tựu? Đây là sức mạnh, này các Tỷ-kheo, mà một
vị chứng được tri kiến thành tựu.
Trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được
giảng dạy, vị này chứng được nghĩa
tín thọ (atthaveda), Pháp tín thọ (Dhammaveda), và sự hân
hoan tương ứng với pháp; vị này hiểu rõ
như sau: "Sức mạnh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu sức mạnh
như vậy t ó thành tựu". Như vậy
là trí thứ bảy mà vị này chứng được,
thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng
chứng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, pháp tánh được
khéo an trú đối với vị Thánh
đệ tử thành tựu bảy chi này để chứng
được quả
49. KINH PHẠM THIÊN CẦU THỈNH [^]
(Brahmanimantanikasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi, tại Jetavana, vườn
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
– Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại
Ukkattha trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tala
vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm
thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: "Cái này là
thường, cái này là thường hằng, cái này là thường
tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại,
cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi,
ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn". Này
các Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được
tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ
duỗi r ánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay
đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng
Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện
ra tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm
thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy,
liền nói với Ta:
"– Hãy đến, Tôn giả, thiện
lai Tôn giả, đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến
đây. Này Tôn giả, cái
này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là
thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị
biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không
diệt, không khởi, ngoài cái này không có một giải thoát
nào khác hơn.
Khi nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với Phạm
thiên Baka:
"– Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm
đắm trong vô minh, thật sự Phạm thiên Baka bị
chìm đắm trong vô minh, khi cái vô thường lại nói
là thường, cái không thường hằng lại nói là
thường hằng, cái không thường tại lại
nói là thường tại, cái không toàn diện lại nói là
toàn diện, cái bị biến hoại lại nói là không biến
hoại, và tại chỗ có sanh, có già, có chết, có diệt,
có khởi, lại nói không sanh, không già, không chết, không diệt,
không khởi; có một giải thoát khác hơn lại nói là
không có một giải thoát nào khác hơn..."
Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma nhập vào một Phạm
thiên quyến thuộc và nói với Ta như sau:
"– Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chớ
có can thiệp vào đây! Chớ có can thiệp vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm
thiên này là Đại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng,
Biến nhãn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa
sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng,
đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã
và sẽ sanh. Này Tỷ-kheo, thuở xư ó những Sa-môn,
Bà-la-môn, ở đời phỉ báng địa đại,
ghê tởm địa đại, phỉ báng thủy đại,
ghê tởm thủy đại, phỉ báng hỏa đại,
ghê tởm hỏa đại, phỉ báng phong đại,
ghê tởm phong đại, phỉ báng chúng sanh, ghê tởm
chúng sanh, phỉ báng chư Thiên, ghê tởm chư Thiên, phỉ
báng Sanh chủ, ghê tởm Sanh chủ, phỉ báng Phạm
thiên, ghê tởm Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng sống
bị cắt đứt, phải an trú vào thân ti tiện.
Này các Tỷ-kheo, còn những Sa-môn, Bà-la-môn ở đời
xưa kia, tán thán địa đại, hoan hỷ địa
đại, tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy
đại, tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa
đại, tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại,
tán thán chúng sanh, hoan hỷ chúng sanh, tán thán chư Thiên, hoan hỷ
chư Thiên, tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ, tán thán
Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng
sống bi cắt đứt, những vị này được
an trú vào các thân vi diệu. Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề
này, ta nói như sau: "Phàm Phạm thiên nói với Ông những
gì, Ông hãy làm như vậy. Ông chớ có đi
quá xa lời Phạm thiên nói. Này các Tỷ-kheo, nếu
Ông đi quá xa lời Phạm thiên nói, thì giống như
người dùng gậy đánh đập thần tài (Siri)
đang đi đến; giống như một người
đang rơi vào vực thẳm, tay chân lại không bám vào
đất.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dắt
Ta đến chúng Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với
Ác ma như sau:
"–
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm
thiên Baka nói với Ta như sau:
"–
"– Này Phạm thiên, Ta biết việc
này.
"– Này Tỷ-kheo, Như Ông biết sanh thú, Ông
biết sự quang vinh của ta: "Phạm thiên Bak ó thần
lực như vậy; Phạm thiên Bak ó quyền lực
như vậy; Phạm thiên Bak ó uy lực như vậy".
"– Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của Ông.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu này và hữu kia,
Chỗ đến, đi hữu tình.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết chỗ
sanh thú và sự quang vinh của Ông: "Phạm thiên Bak ó thần
lực như vậy; Phạm thiên Bak ó quyền lực
như vậy; Phạm thiên Bak ó uy lực như vậy".
Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên
mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy.
Này Phạm thiên, có loại chư Thiên tên
là Abhassara (Quang âm thiên), từ chư Thiên này, Ông mạng
"– Này Tôn giả, đối với tất cả,
nếu Tôn giả không lãnh thọ nhất thiết tánh, thì
đối với Tôn giả, trở thành trống không, trống
rỗng, Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói
sáng tất cả, nếu không thể lãnh thọ địa
đại ngang qua đại tánh, không thể lãnh thọ thủy
đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa
đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong
đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh
ngang qu húng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qu
hư Thiên tánh, không thể lãnh thọ Sanh chủ ngang qua
Sanh chủ tánh, không thể lãnh thọ Phạm thiên ngang qua
Phạm thiên tánh, không thể lãnh thọ Quang âm thiên ngang qua
Quang âm thiên tánh, không thể lãnh thọ Biến tịnh thiên
ngang qua Biến tịnh thiên tánh, không thể lãnh thọ Quảng
quả thiên ngang qua Quảng quả thiên tánh, không thể
lãnh thọ Abhibhu (Thắng giả) ngang qua Abhibhu tánh, không thể
lãnh thọ nhứt thiết ngang qua nhứt thiết tánh.
"– Này Phạm thiên, hãy biến
đi trước mặt Ta, nếu Ông có thể biến
được.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka nói:
"– Ta sẽ biến mất
trước mặt Sa-môn Gotama. Ta sẽ biến mất trước Sa-môn Gotama.
Nhưng Phạm thiên Baka không biến
mất trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với
Phạm thiên Baka:
"– Này Phạm thiên, Ta sẽ biến
mất trước mặt Ông.
"–
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần
thông như sau: "Hãy để cho Phạm thiên, Phạm
thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc nghe tiếng T hớ
không thấy Ta", Ta biến mất và nói lên bài kệ
như sau:
"Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu, tìm phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước".
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm
thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc, tâm sanh vi diệu hy hữu, nói lên như sau: "Thật
vi diệu thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu thay, chư Tôn giả! Đại thần
lực, đại uy lực của Sa-môn Gotama. Thật
sự từ trước đến nay chưa từng thấy,
chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có
được đại thần lực, đại uy lực
như Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ giòng họ
Sakya. Đối với quần chúng ái trước
hữu, lạc nhiễm, hoan hỷ đối với hữu
(Sa-môn Gotama) đã nhổ hữu lên tận cả gốc rễ!"
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma sau khi nhập vào một
trong Phạm thiên quyến thuộc đã nói với Ta
như sau:
"– Này Tôn giả, nếu Ông biết như vậy,
giác ngộ như vậy, chớ có hướng dẫn
đệ tử, chớ có hướng dẫn các vị xuất
gia, chớ có thuyết pháp cho các đệ tử, chớ
có thuyết pháp cho các vị xuất gia, chớ có ái luyến
đệ tử, chớ có ái luyến các vị xuất
gia. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những
vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tự xưng là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị
này hướng dẫn đệ tử, hướng dẫn
các vị xuất gia, thuyết pháp cho các đệ tử,
thuyết pháp cho các vị xuất gia, ái luyến các đệ
tử, ái luyến các vị xuất gia. Sau khi hướng
dẫn các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi thuyết
pháp cho các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi ái
luyến các đệ tử, các vị xuất gia, khi thân
hoại, mạng sống bị cắt đứt, những
vị này bị an trú trong các thân hạ liệt. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những
vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời, tự xưng là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị này không
hướng dẫn đệ tử, không hướng dẫn
các vị xuất gia, không thuyết pháp cho đệ tử,
không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến
các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia.
Sau khi không hướng dẫn các đệ tử, không
hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp
cho các đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất
gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các
vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt
đứt, các vị này được an trú trong thân vi diệu.
Này Tỷ-kheo, ta nói với Ông như sau: "Này Tôn giả,
chớ có phiền lao cực nhọc, hãy sống lạc trú
hiện tại.
Này các Tỷ-kheo khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác
ma như sau:
"–
Như vậy, vì Ác ma đã thất bại, không
thể thuyết phục (Ta), vì có lời mời Phạm
thiên, nên bài trả lời này cũng được gọi
là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh.
50. KINH HÀNG MA [^]
(Maratajjaniyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả
Mahamoggallana trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira, rừng
Bhessakalavana, vườn
– Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ
có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử
Rồi Ác ma suy nghĩ: "Vị Sa-môn này không biết
ta, không thấy ta, lại nói như sau: "Hãy đi ra, Ác
ma! Hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu
Rồi Tôn giả Mahamoggallana lại nói với Ác
ma như sau:
–
Rồi Ác ma suy nghĩ như sau: "Vị Sa-môn
này biết ta, thấy ta và nói như sau: "Hãy đi ra, Ác
ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu
Như Lai và đệ tử
– Ác ma, ở đây, t ũng thấy Ngươi.
Ngươi chớ có nghĩ rằng: "Vị ấy
không thấy ta".
Này Ác ma, rồi Ác ma Dusi nghĩ như sau: "Ta
không biết chỗ đến và chỗ đi củ ác vị
Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này. Vậy nay
ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gi hủ và nói như sau: "Hãy
đến phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu
hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện
tánh. Do bị phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu
hại bởi các Người, các vị ấy có thể
đổi tâm và như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp
để chi phối họ. "Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập
vào hàng Bà-la-môn gi hủ và phỉ báng, mạ lỵ, thống
trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh
và thiện tánh như sau: "Những kẻ trọc đầu,
Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót
chân này. Họ nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền"
và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống,
mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại
thiền. Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang
rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền;
cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả
hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói:
"Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền". Và với hai vai thụt xuống, với mặt
cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si
thiền, dại thiền. Ví như con giả can trên bờ
sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại
thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu...
(như trên)... dại thiền. Ví như
con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu
thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy,
những kẻ trọc đầu... (như
trên)... dại thiền. Ví như con lừa, gánh nặng
được đặt xuống, đang tu thiền, mê
thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những
kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô,
hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: "Chúng tôi tu thiền,
chúng tôi tu thiền", và với hai vai thụt xuống, với
mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền,
si thiền, dại thiền".
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, những
Bà-la-môn gi hủ bị Ác ma Dusi nhập vào và nói: "Hãy
đến phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu
hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lụy,
thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các
vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma
Dusi mới có dịp để chi phối họ".
Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ, rồi an
trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với
từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi... (như trên)... với
tâm câu hữu với hỷ... (như
trên)..., biến mãn một phương với tâm câu hữu
với xả, rồi an trú; cũng vậy phương thứ
hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế
giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy
phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến
mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại,
vô biên, không hận, không sân".
Rồi Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được
Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khuyến
khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến
khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến
các chỗ không vắng, biến mãn một phương với
tâm câu hữu với từ rồi an trú; cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ
ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy
cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an
trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu
với bi... (như trên)... với tâm câu hữu
với hỷ... (như trên)...biến mãn
một phương với tâm câu hữu với xả rồi
an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu
với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không
sân.
Này Ác ma, rồi Mara Dusi suy nghĩ như sau:
"Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến
hay chỗ đi củ ác Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện
tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gi hủ và nói như
sau: "Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ
cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện
tánh này. Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và
như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối
họ".
Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào các Bà-la-môn gi hủ
và nói: "Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện
tánh. Những vị này được các Ngươi tán
thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể
đổi tâm, và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp
để chi phối họ", Rồi này Ác ma, những
Bà-la-môn gi hủ, bị Ác ma Dusi xâm nhập, tán thán, tôn trọng,
đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới
hạnh và thiện tánh.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusamdha, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gi hủ bị
Ác ma Dusi xâm nhập và nói như sau: "Các Người hãy
đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện
tánh. Những vị này được các Người tán
thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể
đổi tâm và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp
đẻ chi phối họ". Này các Tỷ-kheo, các
Người hãy sống quán bất tịnh trên thân, (quán)
tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán)
tưởng bất khả lạc đối với tất
cả thế gian, quán tánh vô thường đối với
tất cả hành".
Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được
Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến
giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến
gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống
quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán
đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả
lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh
vô thường đối với tất cả hành.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với
Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất
thực. Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào một
đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên
đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu.
Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể
và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn
Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Rồi này Ác
ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa và suy nghĩ như sau:
"Thật vậy, Ác ma Dusi không biết sự vừa phải".
Địa ngục ấy thế nào
Dusi bị nấu sôi
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt
Địa ngục là như vậy,
Dusi bị nấu sôi.
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ,
Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu.
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ Thọ,
Ai Thế Tôn khuyến khích,
Được chư Tăng
chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Vijayanta!
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ,
Với ngón chân rung chuyển
Lâu đài Vijayanta?
Đầy đủ thần thông lực,
Chư thiên cũng hoảng sợ.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ,!
Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayanta,
Hiền giả, Người có biết,
Chứng ái tận giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ,
Ai từng hỏi Phạm thiên,
Tại hội chúng Thiện pháp,
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới?
Brahmà đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Tôn giả, tôi không chấp,
Các tà kiến thuở xưa!
Tôi thấy sự huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên ơi!
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường
tại?
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ!
Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao sơ đảnh,
Rừng Đông Videha,
Và người nằm trên đất,
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanh hịu khổ thọ.
Thật sự lửa không nghĩ:
"Ta đốt cháy kẻ ngu",
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
Cũng vậy, này Ác ma,
Ngươi đột kích
Tự mình đốt cháy mình
Như kẻ ngu chạm lửa,
Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
"Ác quả không đến
ta".
Điều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!
Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakala,
Vị Dạ xoa, thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.