Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
51. KINH KANDARAKA [^]
(Kandarakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Campa, trên bờ
hồ Gaggara cùng với đại chúng Tỷ-kheo.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật
hy hữu thay, Tôn giả Gotama !
– Thật sự là vậy, này Kandaraka ! Thật sự
là vậy, này Kandaraka ! Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác trong thời quá khứ, những vị Thế
Tôn ấy đă có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu
như vậy, mà quư vị ấy chơn chánh hướng dẫn,
như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh
hướng dẫn. Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác trong thời tương lai, những vị Thế Tôn ấy
sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy,
mà quư vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như
nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng
dẫn. Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những vị
Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đă tận, tu hành
thành măn, các việc nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt lư tưởng, đă tận
trừ hữu kiết sử, đă được giải
thoát nhờ chánh trí.
Được nghe nói vậy, Pessa, con trai người
huấn luyện voi bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch
– Thật như vậy, này Pessa ! Thật như vậy,
này Pessa !
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự
hành khổ ḿnh, chuyên tâm hành khổ ḿnh, hạng người
này tâm con không thích ư. Bạch Thế Tôn, hạng người
hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng
người này tâm con không thích ư. Bạch Thế Tôn, hạng
người vừa tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm hành khổ
ḿnh, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ
người, hạng người này tâm con không thích ư. Bạch
Thế Tôn, hạng người vừa không tự hành khổ
ḿnh, không chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ
người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng
người không tự hành khổ ḿnh không hành khổ
người, ngay trong hiện tại không có tham dục, tịch
tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ,
tự ngă trú vào Phạm thể, hạng người này, tâm
con thích ư.
–
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự
hành khổ ḿnh, chuyên tâm hành khổ ḿnh, hạng người
này hành khổ ḿnh, hành hạ ḿnh, trong khi tự ao ước
lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ư hạng
người này. Bạch Thế Tôn, hạng người
hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng
người này, hành khổ người khác, hành hạ
người khác, trong khi người khác ao ước lạc,
nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ư hạng người
này. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa hành khổ
ḿnh, chuyên tâm hành khổ ḿnh, vừa hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người, hạng người này
hành khổ, hành hạ ḿnh và người khác, trong khi ḿnh và
người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy,
tâm con không thích ư hạng người này. Nhưng bạch Thế
Tôn, người vừa không hành khổ ḿnh, không chuyên tâm
hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người, hạng người này
không hành khổ ḿnh, không hành khổ người, ngay trong hiện
tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát
lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngă trú vào Phạm
thể; do vậy, tâm con thích ư hạng người này. Và
này, bạch
– Này Pessa, Ông hăy làm những ǵ Ông nghĩ là hợp
thời.
Rồi Pessa, con trai người huấn luyện
voi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
– Này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn
luyện voi là bậc có trí; Pessa, con trai người huấn
luyện voi là người có đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo,
nếu Pessa, con trai người huấn luyện voi ngồi
thêm một chút nữa, cho đến khi Ta phân tích rộng
răi hơn bốn hạng người này, thời anh ta sẽ
thâu đạt được nhiều lợi ích. Tuy vậy,
này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện
voi như vậy cũng đă thâu đạt được
nhiều lợi ích.
– Bạch Thế Tôn, nay đă đến thời.
Bạch Thiện Thệ, nay đă đến thời để
Thế Tôn phân tích rộng răi hơn bốn hạng người
này. Sau khi nghe
– Vậy này các Tỷ-kheo, hăy nghe và khéo léo tác ư, Ta
sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người
hành khổ ḿnh, chuyên tâm hành khổ ḿnh ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người sống lơa thể sống phóng
túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất
thực không chịu bước tới, đi khất thực
không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ
ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng,
không nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi
miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo,
không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa
những cây gậy, không nhận giữa những cối
giă gạo, không nhận từ hai người đang
ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không
nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận
từ người đàn bà đang giao cấu người
đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận
tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ
có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống
rượu nấu, rượu men. Vị ấy chỉ nhận
ăn tại một nhà, hay chỉ nhận ăn một miếng,
hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, hay chỉ
nhận ăn hai miếng... hay vị ấy chỉ nhận
ăn bảy nhà, hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy
miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một
bát, nuôi sống chỉ với hai bát,... nuôi sống chỉ
với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một
bữa, hai ngày một bữa,... bảy ngày một bữa.
Như vậy vị ấy sống
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người
hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ? Ở
đây, các Tỷ-kheo, có người giết trâu ḅ, là
người giết heo, là người giết vịt,
săn thú, là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm,
người xử tử các người ăn trộm, cai
ngục và những người làm các nghề độc ác
khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi
là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành
khổ người.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người
vừa hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa
hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai
cấp Sát-đế-lỵ, đă làm lễ quán đảnh,
hay một Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây dựng một
giảng đường mới về phía Đông thành phố,
cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục
tô và dầu, găi lưng với một sừng nai, đi vào
giảng đường với người vợ chính và
một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống
dưới đất trống trơn chỉ có lát cỏ.
Vị vua sống với sữa từ vú một con ḅ cái,
có con ḅ con cùng một mầu sắc; bà vợ chính sống
với sữa từ vú thứ hai; và vị Bà-la-môn tế tự
sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa từ vú
thứ tư dùng để tế lửa. C̣n con nghé con th́ sống
với đồ c̣n lại. Vị vua nói như sau: "Hăy
giết một số ḅ đực để tế lễ,
hăy giết một số nghé đực để tế lễ,
hăy giết một số nghé cái để tế lễ, hăy
giết một số dê để tế lễ, hăy giết
một số cừu để tế lễ, hăy chặt một
số cây để làm cột tế lễ, hăy thâu lượm
một số cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ.
Và những người nô tỳ, những người phục
vụ, những người làm công, những người
này v́ sợ đ̣n gậy, v́ sợ nguy hiểm, với mặt
tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng
người vừa tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự
hành khổ ḿnh, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành
khổ người. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người vừa không tự hành khổ ḿnh, không chuyên tâm
tự hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ người,
không chuyên tâm hành khổ người, hạng người
này không tự hành khổ ḿnh, không hành khổ người,
hiện tại sống không tham dục, tịch tịnh, cảm
thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự
ngă trú vào Phạm thể. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Như Lai xuất hiện ở đời là bậc
A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như
Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng
trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm
thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài
đă chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn
nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy
đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con
người gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp,
người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có
ḷng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ:
"Đời sống gia đ́nh đầy những triền
phược, con đường đầy những bụi
đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như
hư không. Thật không dễ ǵ cho một người sống
ở gia đ́nh có thể sống
Vị ấy xuất gia như vậy, hành tŕ các
học giới và hạnh sống các Tỷ-kheo, từ bỏ
sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm,
biết xấu hổ, sợ hăi, có ḷng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng
sanh và loài hữu t́nh. Vị ấy từ bỏ lấy của
không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật
đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.
Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm
hạnh, sống
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này,
thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này, thành tựu Thánh
chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng,
như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm
cây ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn xong và đi
khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già,
lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm
trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở
đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa
tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy
sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn
thương xót tất cả chúng sanh hữu t́nh, gột rửa
tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên,
vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với
tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh
giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ
bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không
trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa
tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ,
vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân
lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền
cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành
yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện,
chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ. Vị
ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy
ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong
sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như
vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng
trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, hai mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời,
một trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ
kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này,
giai cấp như thế này, ăn uống như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ
đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ
kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ
ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế
này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ
đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây".
Như vậy vị ấy nhớ đến những
đời sống quá khứ, cũng với các nét đại
cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong
sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như
vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử
trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị
ấy tuệ tri rơ rằng chúng sanh người hạ liệt
kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh đều do
hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng:
"Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu
những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh
về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ư,
phỉ báng các bậc Thánh,
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong
sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như
vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận
trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Đây là Khổ",
tuệ tri như thật: "Đây là Khổ tập",
tuệ tri như thật: "Đây là Khổ diệt",
tuệ tri như thật: "Đây là con Đường
đưa đến khổ diệt" tuệ tri như
thật: "Đây là những lậu hoặc", tuệ
tri như thật: "Đây là nguyên nhân của các lậu
hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là sự
diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật:
"Đây là con Đường đưa đến sự
diệt trừ các lậu hoặc" Nhờ biết
như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát
khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải
thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết:
"Ta đă giải thoát". Vị ấy tuệ tri:
"Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần
làm đă làm; sau đời hiện tại, không có trở
lui đời sống này nữa".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi
là hạng người vừa không tự hành khổ ḿnh,
không chuyên tâm hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ người,
không chuyên tâm hành khổ người. Vị ấy không tự
hành khổ ḿnh, không hành khổ người, ngay trong hiện
tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát
lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngă trú vào Phạm
thể.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở Vesali (Tỳ-xá-ly),
tại (
–
–
Rồi gia chủ Dasama, người ở thành
Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền
đi đến Vesali, ấp Beluvagamaka, đến Tôn giả
Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, gia chủ Dasama người ở thành Atthaka thưa với
Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc nhất
ǵ do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo
nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần sống hành tŕ
pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy
được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ đi đến đoạn
trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược chưa
được chứng đạt được chứng
đạt ?
–
– Bạch Tôn giả Ananda, pháp độc nhất ấy
là ǵ, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo
nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ
pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy
được giải thoát, và các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ đi đến đoạn
trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược
chưa được chứng đạt được
chứng đạt ?
– Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm,
có tứ. Vị ấy suy tư và được biết:
"Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành.
Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời
sự vật ấy là vô thường, chịu sự
đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở
đây, đoạn trừ được các lậu hoặc.
Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy
đoạn trừ được năm hạ phần kiết
sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế
Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo nào không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời
tâm vị ấy chưa giải thoát được giải
thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng
an ổn khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo diệt
tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tỉnh nhất tâm, vị ấy suy
tư và được biết: "Thiền thứ hai này
là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là
pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy
là vô thường, chịu sự đoạn diệt".
Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ
được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham luyến
pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ
được năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế
Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời
tâm vị ấy chưa giải thoát được giải
thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng
an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt
được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy suy tư và
được biết: "Thiền thứ ba này là pháp hữu
vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi,
do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường,
chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững
trú ở đây, đoạn trừ được các lậu
hoặc... chưa chứng đạt, được chứng
đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo xả lạc,
xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy suy
tư và được biết: "Thiền thứ tư
này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ
là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy
là vô thường, chịu sự đoạn diệt".
Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ
được các lậu hoặc... chưa chứng đạt,
được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an trú biến
măn một phương với tâm câu hữu với từ;
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu
với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không
sân. Vị ấy suy tư và được biết: "Từ
tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự
vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự
vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn
diệt". Vị ấy do vững trú ở đây, đoạn
trừ được các lậu hoặc... chưa chứng
đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an trú, biến
măn một phương với tâm câu hữu với bi... Với
tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả;
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu
với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không
sân. Vị ấy suy tư và được biết: "Xả
tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, Phàm sự
việc ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự
vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn
diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn
trừ được các lậu hoặc... chưa chứng
đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi
chướng ngại tưởng, không tác ư đối với
dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư
không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Vị này
suy tư và được biết: "Không vô biên xứ
định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự
vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự
vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn
diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn
trừ được các lậu hoặc... chưa chứng
đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là
vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Vị này suy
tư và được biết: "Thức vô biên xứ
này là pháp hữu vi do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ
là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy
là vô thường chịu sự đoạn diệt". Vị
ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu
hoặc.... chưa chứng đạt, được chứng
đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có
vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị
này suy tư và được biết: "Vô sở hữu
xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành.
Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời
sự vật ấy là vô thường, chịu sự
đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở
đây, đoạn trừ được các lậu hoặc.
Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy
đoạn trừ được năm hạ phần kiết
sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế
Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào, không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời
tâm vị ấy chưa giải thoát, được giải
thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ đi đến đoạn trừ, pháp vô thượng
an ổn khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt được chứng đạt.
Khi được nghe nói vậy, Gia chủ Dasama,
người ở thành Atthaka bạch Tôn giả Ananda:
–
Rồi gia chủ Dasama, người ở thành
Atthaka cho mời họp Tỷ-kheo Tăng ở Pataliputta và
Vesali, tự tay mời ăn và làm cho thỏa măn với các
món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm,
tặng cho mỗi Tỷ-kheo, mỗi vị một cặp
y, tặng cho Tôn giả Ananda ba y và xây dựng một
Tăng xá trị giá năm trăm đồng tiền vàng
(hay có năm trăm Tăng pḥng) cho Tôn giả Ananda.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống giữa các
Sakka, (Thích-ca), thành Kapilavatthu, tại tinh xá Nigrodha. Lúc bấy
giờ, một ngôi giảng đường mới
được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở
Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn,
hay một người nào đến ở. Rồi các Sakya ở
Kapilavatthu đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đang ngồi một bên, bạch
Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, có một ngôi giảng
đường mới, được dựng lên không bao
lâu cho các Sakya ở Kapilavatthu, và chưa được một
Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Bạch
Thế Tôn, Thế Tôn hăy dùng nhà giảng đường ấy
trước tiên, rồi các Sakya ở Kapilavatthu sẽ dùng
sau, và như vậy các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ
hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.
– Bạch Thế Tôn, ngôi giảng đường
đă được trải nệm tất cả, các chỗ
ngồi đă được sắp đặt, ghè nước
đă được đặt sẵn, đèn dầu
đă được treo lên. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn
hăy làm những ǵ Thế Tôn nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, cùng với
chúng Tỷ-kheo Tăng đi đến giảng đường,
sau khi đến Ngài rửa chân, bước vào ngôi giảng
đường và ngồi xuống, dựa vào cột ở
giữa, mặt hướng phía Đông. Chúng Tỷ-kheo
Tăng, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường,
ngồi dựa vào bức tường phía Tây, mặt hướng
về phía Đông, với Thế Tôn ngồi trước họ.
– Này Ananda, hăy giảng hữu học đạo
cho các Sakya ở Kapilavatthu, Ta bị đau lưng. Ta sẽ
nằm nghỉ.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp
Rồi Tôn giả Ananda nói với Sakya Mahanama:
– Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử,
thành tựu giới hạnh, hộ tŕ các căn, biết tiết
độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, thành tựu
bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn Thiền,
thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không
khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng
đắc không phí sức. Và này Mahanama, thế nào là vị
Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh ? Ở
đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử có giới hạnh,
sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh,
thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ
lănh và tu học các học pháp. Này Mahanama, như vậy là vị
Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh. Và này
Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử hộ tŕ
các căn ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử,
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng
Này Mahanama, khi một vị Thánh đệ tử
thành tựu giới hạnh như vậy, hộ tŕ các
căn như vậy, biết tiết độ trong ăn
uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy,
đầy đủ bảy diệu pháp như vậy, hiện
tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng
tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc
không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức
như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy
được gọi là đang đi trên con đường
hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả
năng phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả
năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi
các ách phược. Này Mahanama, ví như có tám, có mười
hay có mười hai trứng gà, được gà mái khéo ấp
ngồi, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng; dầu cho
con gà mái ấy không khởi lên ư muốn: "Mong rằng,
các con gà con của ta, sau khi phá vỡ vỏ trứng với
móng chân, hay với mỏ của chúng, thoát ra ngoài một
cách an toàn". Những con gà con ấy, sau khi phá vỡ vỏ
trứng với móng chân hay mỏ của chúng, có thể
thoát ra ngoài một cách an toàn. Cũng vậy, này Mahanama khi một
vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh
như vậy, hộ tŕ các căn như vậy, biết tiết
độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh
giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp
như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền,
thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không
khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng
đắc không phí sức như vậy, này Mahanama, vị
Thánh đệ tử ấy được gọi là
đang đi trên con đường hữu học, có trứng
không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ, có khả
năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô
thượng an ổn khỏi các ách phược. Này
Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng
được vô thượng xả niệm thanh tịnh
này, nhớ đến các đời sống quá khứ sai
biệt, như một đời, hai đời... (như
trên)... nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Đây là sự phá vỡ thứ nhất của con gà con ra
khỏi vỏ trứng. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử
ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm
thanh tịnh này, với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân thấy
sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết
rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh.. (như
trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng. Đây là
sự phá vỡ thứ hai của con gà con ra khỏi vỏ
trứng. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi
chứng được vô thượng xả niệm thanh
tịnh này, với sự đoạn tận các lậu hoặc,
tự ḿnh ngay trong hiện tại với thắng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại,
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Đây là sự
phá vỡ thứ ba của con gà con ra khỏi vỏ trứng.
Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào thành tựu
giới hạnh, như vậy thuộc về hạnh
đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ
tử nào hộ tŕ các căn, như vậy thuộc về
hạnh đức của vị ấy.
Chúng sanh tin giai cấp
Vương tộc
là tối thượng.
Vị minh hạnh
cụ túc,
Tối thắng ở
Nhơn Thiên.
Này Mahanama, bài kệ ấy được Phạm
thiên Sanankumara khéo hát, không phải vụng hát, khéo nói, không phải
vụng nói, có ư nghĩa, không phải vô nghĩa, và
được Thế Tôn ấn khả.
Rồi Thế Tôn ngồi dậy, nói với Tôn giả
Ananda:
– Lành thay, lành thay Ananda ! Thật lành thay, này Ananda,
người đă giảng hữu học đạo cho các
Sakka (Thích tử) ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Tôn giả Ananda thuyết giảng như vậy,
bậc Đạo Sư ấn khả. Các vị Sakka ở
Kapilavatthu hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda dạy.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Anguttarapa. Apana
là một thị trấn của Anguttarapa. Rồi Thế
Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Apana để
khất thực. Sau khi đi khất thực, ăn xong,
trên con đường khất thực trở về, Thế
Tôn đi đến một khu rừng để nghỉ
trưa. Sau khi đi sâu vào khu rừng ấy, Ngài ngồi
dưới một gốc cây. Gia chủ Potaliya, toàn thân mặc
đồ đầy đủ, mang dù, đi dép, ngao du tản
bộ khắp mọi nơi, và đi đến khu rừng
ấy. Sau khi đi sâu vào (khu rừng), gia chủ Potaliya,
đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên
với Thế Tôn những lời hỏi thăm, sau khi nói
lên những lời hỏi thăm, thân hữu rồi đứng
một bên. Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya đang
đứng một bên:
–
Nghe nói vậy, gia chủ Potaliya nghĩ rằng:
"Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ",
nên phẫn nộ không hoan hỷ và đứng im. Lần thứ
hai, Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya:
–
Lần thứ hai, gia chủ Potaliya nghĩ rằng:
"Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ",
nên phẫn nộ, không hoan hỷ và đứng im. Lần
thứ ba, Thế Tôn nói với gia chủ Potaliya:
–
Nghe nói vậy, gia chủ Potaliya nghĩ rằng:
"Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ",
nên phẫn nộ, không hoan hỷ, nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, thật không thích đáng, không hợp
lẽ, Tôn giả gọi tôi là Gia chủ.
–
–
– Nhưng này Gia chủ, như thế nào tất cả
nghiệp vụ đă được Ông từ bỏ, tất
cả tục sự đă được Ông đoạn tận
?
– Ở đây, này Tôn giả Gotama, tài sản, ngũ
cốc, hay vàng bạc, tất cả đều giao cho các
con tôi thừa hưởng. Ở đây, tôi không khuyên bảo,
tôi không can gián; tôi sống với tối thiểu đồ
ăn, đồ mặc. Như vậy, này Tôn giả Gotama,
tất cả nghiệp vụ được tôi từ bỏ,
tất cả tục sự được tôi đoạn
tận.
–
–
–
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp
–
– Bạch Thế Tôn tám pháp này được Thế
Tôn nói một cách vắn tắt, không được giải
thích rộng răi, đưa đến sự đoạn tận
các tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch
Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn v́ ḷng thương
tưởng, giải thích rộng răi tám pháp này.
–
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp
– Khi được nói: "Y cứ không sát sanh,
sát sanh cần phải từ bỏ", do duyên ǵ, lời
nói như vậy được nói lên ? Ở đây, này gia
chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào ta có thể sát
sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ
của các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những
ta tự trách mắng ta v́ duyên sát sanh, các bậc có trí, sau khi
t́m hiểu, cũng sẽ khiển trách ta v́ duyên sát sanh; và
sau khi thân hoại mạng
Khi được nói: "Y cứ không lấy của
không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ",
do duyên ǵ, lời nói như vậy được nói lên ? Ở
đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ
như sau: "Do nhơn những kiết sử nào ta có thể
lấy của không cho, ta đoạn tận, thành tựu sự
từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của
không cho, không những ta tự trách mắng ta v́ duyên lấy
của không cho, các bậc có trí, sau khi t́m hiểu, cũng sẽ
khiển trách ta v́ duyên lấy của không cho; và sau khi thân hoại
mạng
Khi được nói: "Y cứ lời chân thật,
nói láo cần phải từ bỏ", do duyên ǵ, lời
nói như vậy được nói lên ? Ở đây, này Gia
chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói
láo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ
các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo, không những ta tự
trách mắng ta v́ duyên nói láo, các bậc có trí, sau khi t́m hiểu,
cũng sẽ khiển trách ta v́ duyên nói láo; và sau khi thân hoại
mạng
Khi được nói: "Y cứ không nói hai
lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ",
do duyên ǵ, lời nói như vậy được nói lên ? Ở
đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ
như sau: "Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể
nói hai lưỡi, ta đoạn tận, thành tựu sự
từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hai
lưỡi, không những ta tự trách mắng ta v́ duyên nói
hai lưỡi, các bậc có trí, sau khi t́m hiểu cũng khiển
trách ta v́ duyên nói hai lưỡi, và sau khi thân hoại mạng
Khi được nói: "Y cứ không tham dục,
tham dục cần phải từ bỏ", do duyên ǵ, lời
nói như vậy được nói lên ? Ở đây, này Gia
chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể có tham
dục, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ
các kiết sử ấy. Nếu ta tham dục, không những
ta tự trách mắng ta v́ duyên tham dục, các bậc có trí,
sau khi t́m hiểu cũng khiển trách ta v́ duyên tham dục;
và sau khi thân hoại mạng
Khi được nói: "Y cứ không hủy
báng sân hận, hủy báng sân hận cần được
từ bỏ", do duyên ǵ, lời nói như vậy
được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Do nhơn những
kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận, ta
đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết
sử ấy. Nếu ta hủy báng sân hận, không những
ta tự trách mắng ta v́ duyên hủy báng, các bậc có trí,
sau khi t́m hiểu, cũng khiển trách ta v́ duyên hủy báng
sân hận; và sau khi thân hoại mạng
Khi được nói: "Y cứ không phẫn
năo, phẫn năo cần được từ bỏ", do
duyên ǵ, lời nói như vậy được nói lên ? Này
Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như
sau: "Do nhơn những kiết sử nào ta có thể có
phẫn năo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ
bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn năo,
không những ta tự trách mắng ta v́ duyên phẫn năo, các
bậc có trí, sau khi t́m hiểu, cũng khiển trách ta v́
duyên phẫn năo; và sau khi thân hoại mạng
Khi được nói: "Y cứ không quá mạn,
quá mạn cần được từ bỏ", do duyên
ǵ, lời nói như vậy được nói lên ? Này Gia chủ,
vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Do
nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn, ta đoạn
tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy.
Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng
ta v́ duyên quá mạn, các bậc có trí sau khi t́m hiểu, cũng
khiển trách ta v́ duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng
Này Gia chủ, tám pháp được nói lên vắn
tắt và được giải thích rộng răi này,
đưa đến sự đoạn tận các tục sự
trong giới luật bậc Thánh, nhưng thật sự
chưa phải là sự đoạn tận toàn diện,
toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới
luật bậc Thánh.
–
–
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp
–
– Bạch Thế Tôn, không. V́ sao vậy ? Với
khúc xương khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có
dính máu ấy, bạch
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như khúc xương, khổ nhiều,
năo nhiều, tai họa ở đây càng nhiều
hơn". Sau khi thấy như chân như vậy với
chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc
loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối
với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y
cứ nhất chủng, ở đây, mọi chấp thủ
đối với thế vật được đoạn
trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại
xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như con chim kên, con chim diều
hâu, hay con chim ưng giành được miếng thịt liền
bay bổng lên; các con chim kên khác, chim diều hâu khác, hay chim
ưng khác bay đuổi theo, đuổi sát theo giành giựt
xé nát miếng thịt ấy.
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như miếng thịt, khổ nhiều,
năo nhiều, tai họa ở đây càng nhiều
hơn". Sau khi thấy như chân như vậy, với
chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc
loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối
với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y
cứ nhứt chủng, ở đây mọi chấp thủ
đối với thế vật được đoạn
trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại
xả như vậy.
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như bó đuốc cỏ, khổ nhiều,
năo nhiều, tai họa ở đây càng nhiều
hơn". Sau khi thấy như chân như vậy...
(như trên)... với chánh trí tuệ, vị ấy tu tập
loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như một hố than hừng,
sâu hơn thân người, đầy những than hừng,
cháy không thành ngọn, cháy không thành khói, và một người
đi đến muốn sống, muốn không chết, muốn
lạc, né tránh khổ. Nhưng có hai nhà lực sĩ, nắm
chặt hai cánh tay người ấy và lôi người ấy
đến hố than hừng.
– Bạch Thế Tôn, có. V́ sao vậy ? Bạch Thế
Tôn, v́ người ấy biết: "Nếu ta rơi vào hố
than hừng này, do nhân duyên này, ta sẽ đi đến chết
hay đau khổ gần như chết.
– Cũng vậy, này cư sĩ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như hố than hừng, khổ nhiều,
năo nhiều, tai họa ở đây càng nhiều
hơn". Sau khi thấy như chân như vậy với
chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy tu tập loại
xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như có người mượn
tài vật cho mượn, xe cộ xứng đáng bậc
sang trọng, các đồ châu báu trang sức mỹ diệu,
và với những đồ vật vay mượn ấy,
người ấy đi vào chợ phố, được
(tôn trọng) đi trước, được nhiều
người vây quanh, và quần chúng thấy người ấy
bèn nói: "Người này thật sự giàu sang, và người
giàu sang hưởng thọ tài vật như vậy".
Nhưng những người chủ thấy người
kia ở chỗ nào liền lấy lui những vật sở
hữu của ḿnh.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. V́ sao vậy ? Bạch
Thế Tôn, v́ những người chủ lấy lui những
vật sở hữu của ḿnh.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như tài vật vay mượn, khổ
nhiều, năo nhiều, tai họa ở đây càng nhiều
hơn". Sau khi thấy như chân như vậy với
chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy tu tập loại
xả như vậy.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đă nói, dục
được ví như cây có trái, khổ nhiều, năo nhiều,
tai họa ở đây càng nhiều hơn". Sau khi thấy
như chân như vậy với trí tuệ, sau khi từ bỏ
loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ
đa chủng, đối với loại xả thuộc
loại nhứt chủng, y cứ nhứt chủng, ở
đây mọi chấp thủ đối với thế vật
được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn,
vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử ấy,
sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng
này, nhớ đến các đời sống trước,
như một đời, hai đời, ba đời...
(như trên)... Vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử ấy sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh
vô thượng này, với thiên nhăn thuần tịnh siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh.. (như trên)... đều do hạnh nghiệp của
chúng. Này Gia chủ vị Thánh đệ tử ấy, sau
khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng
này, và với các lậu hoặc được đoạn
trừ, vị này với thượng trí, tự ḿnh chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
–