Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
68. KINH NALAKAPANA [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú
giữa dân chúng Kosala (Câu-tát-la) tại Nalakapana, rừng cây
Palasa. Lúc bấy giờ
nhiều Thiện gia nam tử có danh tiếng, v́ ḷng tin
Thế Tôn, đă xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh, như Tôn giả Anuruddha
(A-na-luật-đà) Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila, Tôn
giả Bhagu, Tôn giả Kundadhana, Tôn giả Revata, Tôn giả
Ananda và một số Thiện gia nam tử danh tiếng
khác. Lúc bấy giờ,
– Này các Tỷ-kheo, các Thiện gia nam tử ấy
v́ ḷng tin Ta đă xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
ấy có hoan hỷ trong Phạm hạnh không ?
Khi được nói vậy, các
Tỷ-kheo ấy giữ im lặng. Lần thứ hai... (như
trên)... lần thứ ba,
– Này các Tỷ-kheo, các Thiện gia nam tử ấy
v́ ḷng tin Ta đă xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
ấy có hoan hỷ trong Phạm hạnh không ?
Cho đến lần thứ ba, các
Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: "Nay Ta
hăy hỏi các Thiện gia nam tử ấy". Rồi
Thế Tôn bảo Tôn giả Anuruddha:
– Này các Anuruddha, các Ông có hoan hỷ trong phạm
hạnh không ?
Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con hoan
hỷ trong Phạm hạnh.
– Lành thay, lành thay, các Anuruddha. Này các Anuruddha,
thật xứng đáng cho các Ông, những Thiện gia nam
tử, v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh, các Ông có hoan hỷ trong Phạm
hạnh. Này các Anuruddha, trong khi các Ông với tuổi trẻ
tốt đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc đen
nhánh, có thể hưởng thụ các dục lạc,
thời các Ông, này các Anuruddha, với tuổi trẻ tốt
đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc đen nhánh,
lại xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Này các Anuruddha, các Ông không v́ mệnh
lệnh của vua mà xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Và xuất gia như vậy, này các Anuruddha,
người Thiện gia nam tử cần phải làm ǵ ? Này các Anuruddha, ly dục, ly
bất thiện pháp. Nếu không chứng
được hỷ lạc hay một trạng thái khác an
tịnh hơn, thời dục tham xâm chiếm tâm và an trú,
sân xâm chiếm tâm và an trú, hôn trầm, thụy miên...
trạo cử, hối quá... nghi hoặc... bất lạc...
giải đăi xâm chiếm tâm và an trú. Này các Anuruddha, ly
dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng
được hỷ lạc hay một trạng thái khác an tịnh hơn. Này các Anuruddha, ly dục, ly
bất thiện pháp, vị ấy chứng được
hỷ lạc hay một trạng thái khác an tịnh hơn,
thời dục tham không xâm chiếm tâm và an trú, sân không xâm chiếm
tâm và an trú, hôn trầm thụy miên... trạo cử hối
quá... nghi hoặc... bất lạc... giải đăi không xâm
chiếm tâm và an trú. Này các Anuruddha, ly dục, ly bất
thiện pháp, vị ấy chứng được hỷ
lạc hay một trạng thái khác an
tịnh hơn.
Này các Anuruddha, các Ông nghĩ về Ta như
thế nào ? Các lậu hoặc nào liên
hệ đến phiền năo sanh khởi hậu hữu,
đáng sợ hăi, đưa đến quả khổ di
thục, hướng đến sanh, già, chết trong
tương lai, các lậu hoặc ấy chưa
được Như Lai đoạn trừ. Do vậy
– Bạch Thế Tôn, chúng con không có nghĩ như
vậy về Thế Tôn: "Các lậu hoặc nào liên
hệ đến phiền năo, sanh khởi hậu hữu,
đáng sợ hăi, đưa đến quả khổ
dị thục, hướng đến sanh, già, chết
trong tương lai, các lậu hoặc ấy chưa
được Như Lai đoạn trừ. Do vậy
Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ dụng một
pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau
khi suy tư phân tích từ bỏ một pháp; sau khi suy tư
phân tích, đoạn trừ một pháp". Bạch Thế
Tôn, chúng con nghĩ về Thế Tôn như sau: "Các
lậu hoặc nào liên hệ đến phiền năo, sanh
khởi hậu hữu, đáng sợ hăi, đưa
đến quả khổ dị thục, hướng
đến sanh, già, chết trong tương lai, các lậu
hoặc ấy đă được Như Lai đoạn
trừ. Do vậy, Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ
dụng một pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ
một pháp, sau khi suy tư phân tích, từ bỏ một
pháp; sau khi suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha !
Các lậu hoặc liên hệ đến phiền năo, sanh
khởi hậu hữu, đáng sợ hăi, đưa
đến quả khổ dị thục, hướng
đến sanh, già, chết trong tương lai đă
được Như Lai đoạn trừ, cắt
tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không thể
sanh lại, không thể sanh khởi trong tương lai. Ví
như, này các Anuruddha, cây tala đầu cây đă bị
chặt đứt, không thể lớn lên nữa, cũng
vậy này các Anuruddha, các lậu hoặc liên hệ
đến phiền năo... (như trên)...
không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy
Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ dụng một
pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau
khi suy tư phân tích, từ bỏ một pháp; sau khi suy
tư phân tích, đoạn trừ một pháp.
Này các Anuruddha, các Ông nghĩ thế nào
? Do thấy mục đích đặc biệt nào,
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con,
các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng
Thế Tôn làm lănh đạo, nương tựa Thế Tôn
làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế
Tôn thuyết giảng cho ư nghĩa này.
Sau khi được nghe
– Này các Anuruddha, Như Lai không v́ mục đích
lường gạt quần chúng, không v́ mục đích
nịnh hót quần chúng, không v́ mục đích lợi
lộc, trọng vọng, danh xưng, quyền lợi
vật chất, không v́ với ư nghĩ: Như vậy
quần chúng sẽ biết Ta"; mà Như Lai giải thích
sự tái sanh các vị đệ tử đă từ
trần đă mệnh chung, nói rằng: "Vị này tái
sanh ở chỗ này, vị này tái sanh ở chỗ này".
Và này các Anuruddha, có những Thiện gia nam tử có tin
tưởng với tín thọ cao thượng, với hoan
hỷ cao thượng, sau khi được nghe như
vậy, sẽ chú tâm trên như thật (Tathata). Như vậy, này các Anuruddha, là hạnh phúc, là an
lạc lâu đời cho các vị ấy.
Ở đây, này các Anuruddha, Tỷ-kheo có nghe:
"Tỷ-kheo với tên như thế này đă mệnh
Ở đây, này các Anuruddha, Tỷ-kheo-ni có nghe:
"Tỷ-kheo-ni với tên như thế này đă mệnh
Ở đây, này các Anuruddha, nam cư sĩ có nghe:
"Nam cư sĩ với tên như thế này đă
mệnh
Ở đây, này các Anuruddha, nữ cư sĩ có
nghe: "Nữ cư sĩ với tên như thế này
đă mệnh
Như vậy, này các Anuruddha, Như Lại không v́
mục đích lường gạt quần chúng, không v́
mục đích nịnh hót quần chúng, không v́ mục
đích được lợi lộc, trọng vọng,
danh xưng, quyền lợi vật chất, không v́ với
ư nghĩ: "Như vậy quần chúng sẽ biết
Ta", mà Như Lai giải thích sự tái sanh của các
đệ tử đă từ trần, đă mệnh chung,
nói rằng: "Vị này tái sanh ở chỗ này, vị này
tái sanh ở chỗ này". Và này các Anuruddha, có những
Thiện gia nam tử có tin tưởng, với tín thọ
cao thượng, với hoan hỷ cao thượng, sau khi
được nghe như vậy, sẽ chú tâm trên như
thật. Như vậy, này các Anuruddha, là
hạnh phúc, là an lạc lâu đời cho các vị ấy.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (
– Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi đến trú giữa chúng Tăng
phải biết tôn trọng, cung kính các đồng Phạm
hạnh. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở
rừng núi, đến trú giữa chúng Tăng không biết tôn
trọng, cung kính các đồng Phạm hạnh, thời có
người sẽ nói về vị ấy như sau:
"Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này là vị sống
ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng, hành
động theo sở thích, nay Tôn giả ấy lại không
tôn trọng, cung kính các đồng Phạm hạnh
! " Sẽ có người nói về
vị ấy như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi đến trú giữa chúng
Tăng, phải biết tôn trọng cung kính các đồng
Phạm hạnh.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng, phải biết khéo léo về chỗ ngồi,
nghĩ rằng: "Ta sẽ ngồi, không có chiếm
lấy (chỗ ngồi) các Thượng tọa Tỷ-kheo,
không có trục xuất chỗ ngồi của các niên
thiếu Tỷ-kheo. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng, không biết khéo xử về chỗ ngồi,
thời có người sẽ nói về vị ấy như
sau: "Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này là vị
sống ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng,
hành động theo sở thích; nay Tôn giả này lại không
biết hành động như pháp ! "
Sẽ có người nói về vị ấy
như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo sống ở
rừng núi, đến trú giữa chúng Tăng phải
biết khéo xử về chỗ ngồi.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo,
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng, không nên vào làng quá sớm và trở về ban ngày. Này
chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở rừng núi,
đến trú giữa chư Tăng, nếu vào làng quá
sớm và trở về ban ngày, thời có người
sẽ nói về vị ấy như sau: "Nào có tốt
ǵ, nếu Tôn giả này là vị sống ở rừng núi,
sống một ḿnh trong rừng, hành động theo sở
thích; nay Tôn giả này lại vào làng quá sớm và trở
về ban ngày". Sẽ có người nói
về vị ấy như vậy. Do vậy,
Tỷ-kheo sống ở rừng núi, đến trú giữa
chúng Tăng không nên vào làng quá sớm, và trở về ban
ngày.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo,
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng, không nên đi đến các gia đ́nh trước
buổi ăn hay sau buổi ăn. Này chư Hiền,
nếu Tỷ-kheo sống ở rừng núi, đến trú
giữa chúng Tăng, đi đến các gia đ́nh
trước buổi ăn hay sau buổi ăn, thời có
người sẽ nói về vị ấy như sau: "Có
phải Tôn giả này là vị sống ở rừng núi,
sống một ḿnh trong rừng, hành động theo sở
thích, lại đi phí thời giờ quá nhiều, và xử
sự như vậy đối với chúng Tăng
?" Sẽ có người nói về
vị ấy như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng, không nên đi đến các gia đ́nh trước
buổi ăn hay sau buổi ăn.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng không nên trạo cử, dao động. Này chư
Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở rừng núi, đến
trú giữa chúng Tăng mà trạo cử, dao động,
thời sẽ có người nói về vị ấy như
sau: "Có phải Tôn giả này là vị sống ở
rừng núi, sống một ḿnh trong rừng, hành
động theo sở thích, lại trạo cử, dao
động quá nhiều và xử sự như vậy
đối với chúng Tăng ?" Sẽ có người nói về vị ấy
như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo sống ở
rừng núi, đến trú giữa chúng Tăng, không nên
trạo cử, dao động.
Này Chư Hiền, Tỷ-kheo sống ở
rừng núi đến trú giữa chúng Tăng, không nên nói
nhiều lời và nói tạp nhạp. Này chư Hiền,
nếu Tỷ-kheo sống ở rừng núi đến trú
giữa chúng Tăng, nói nhiều lời và nói tạp
nhạp thời có người sẽ nói về vị
ấy như sau: "Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này
là vị sống ở rừng núi, sống một ḿnh trong
rừng, hành động theo sở thích; nay Tôn giả này
lại nói nhiều lời và nói tạp nhạp
! " Sẽ có người nói về
vị ấy như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi, đến trú giữa chúng
Tăng không nên nói nhiều lời và nói tạp nhạp.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi đến trú giữa chúng
Tăng, phải là người dễ nói và là người
thiện hữu. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống
ở rừng núi đến trú giữa chúng Tăng là
người khó nói và là người ác hữu, thời có
người sẽ nói về vị ấy như sau:
"Nào có tốt ǵ nếu Tôn giả này là vị sống
ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng, hành
động theo sở thích; nay Tôn giả này lại khó nói và
là người ác hữu ! " Sẽ có người nói về vị ấy
như vậy. Do vậy Tỷ-kheo sống ở
rừng núi, đến trú giữa chúng Tăng, phải là
người dễ nói và là người thiện hữu.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải thủ hộ các
căn. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở
rừng núi không thủ hộ các căn, thời có người
sẽ nói về vị ấy như sau: "Nào có tốt
ǵ, nếu Tôn giả này là vị sống ở rừng núi,
sống một ḿnh trong rừng, hành động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải tiết độ
trong sự ăn uống. Này chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo sống ở rừng núi không có tiết độ
trong sự ăn uống, thời có người sẽ nói
về vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ nếu
Tôn giả này là vị sống ở rừng núi, sống
một ḿnh trong rừng, hành động theo sở thích; nay
Tôn giả này lại không có tiết độ trong sự
ăn uống ! " Sẽ
có người nói về vị ấy như vậy.
Do vậy, Tỷ-kheo sống ở rừng núi cần
phải có tiết độ trong sự ăn
uống.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải chú tâm cảnh giác.
Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở rừng
núi không chú tâm cảnh giác thời có người sẽ nói
về vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ, nếu
Tôn giả này là vị sống ở rừng núi, sống
một ḿnh trong rừng, hành động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải tinh cần tinh
tấn. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở
rừng núi mà biếng nhác, thời có người sẽ nói
về vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ, nếu
Tôn giả này là vị sống ở rừng núi, sống
một ḿnh trong rừng, hành động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải chánh niệm
tỉnh giác. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống
ở rừng núi mà thất niệm, thời sẽ có người
nói về vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ,
nếu Tôn giả này là vị sống ở rừng núi,
sống một ḿnh trong rừng, hành động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải có Thiền
định. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống
ở rừng núi không có Thiền định, thời có
người sẽ nói về vị ấy như sau:
"Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này là vị sống
ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng, hành
động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải có trí tuệ. Này
chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở rừng núi
chỉ có liệt tuệ, thời có người sẽ nói
về vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ, nếu
Tôn giả này là vị sống ở rừng núi, sống
một ḿnh trong rừng, hành động
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải thực tập
thắng pháp (abhidhamma), thắng luật (abhivinaya). Này chư Hiền, sẽ có người hỏi
Tỷ-kheo sống ở rừng núi về thắng pháp,
thắng luật. Nếu Tỷ-kheo sống ở rừng
núi được hỏi về thắng pháp, thắng
luật mà không thể trả lời được,
thời có người sẽ nói về vị ấy như
sau: "Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này là vị
sống ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng,
hành động theo sở thích; nay Tôn giả này,
được hỏi về thắng pháp thắng luật
lại không có thể trả lời được
! " Sẽ có người nói về
vị ấy như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải có thực tập
thắng pháp, thắng luật.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải thực tập các
pháp tịch tịnh giải thoát (santavimokha), vượt
khỏi các sắc pháp, và các vô sắc pháp. Này chư
Hiền, sẽ có người hỏi Tỷ-kheo sống
ở rừng núi về các pháp tịch tịnh giải
thoát, vượt khỏi các sắc pháp, các vô sắc pháp.
Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống ở rừng
núi được hỏi về các pháp tịch tịnh
giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc
pháp mà không thể trả lời được, thời có
người sẽ nói về vị ấy như sau:
"Nào có tốt ǵ, nếu Tôn giả này là vị sống
ở rừng núi, sống một ḿnh trong rừng, hành
động theo sở thích; nay Tôn giả này được
hỏi về các pháp tịch tịnh giải thoát lại
không có thể trả lời được ! " Sẽ có người nói về vị ấy
như vậy. Do vậy, Tỷ-kheo sống ở
rừng núi cần phải thực tập các pháp tịch
tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và
vô sắc pháp.
Này chư Hiền, Tỷ-kheo
sống ở rừng núi cần phải thực tập các
pháp thượng nhân. Này chư Hiền,
sẽ có người hỏi Tỷ-kheo về những pháp
thượng nhân. Này chư Hiền,
sẽ có người hỏi Tỷ-kheo về những pháp
thượng nhân. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo
sống ở rừng núi được hỏi về các
pháp thượng nhân mà không thể trả lời
được, thời có người sẽ nói về
vị ấy như sau: "Nào có tốt ǵ, nếu Tôn
giả này là vị sống ở rừng núi, sống
một ḿnh trong rừng; hành động theo sở thích; nay
Tôn giả này được hỏi về những pháp
thượng nhân lại không có thể trả lời được".
Như vậy sẽ có người nói về
vị ấy. Do vậy Tỷ-kheo sống ở
rừng núi cần phải thực tập các pháp
thượng nhân.
Khi được nói vậy, Tôn giả
Mahamoggallana nói với Tôn giả Sariputta như sau:
– Hiền giả Sariputta, các pháp này cần
phải được chấp tŕ và thực tập
chỉ bởi Tỷ-kheo sống ở rừng núi hay
bởi Tỷ-kheo sống ở gần thôn làng
?
– Hiền giả Moggallana, các pháp này cần
được phải chấp tŕ và thực tập
bởi Tỷ-kheo sống ở rừng núi, huống chi
Tỷ-kheo sống gần thôn làng !
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành
ở Kasi cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Ở đây, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn,
từ bỏ ăn ban đêm. Ta cảm thấy ít bệnh,
ít năo, khinh an, có sức lực và an trú.
Này các Tỷ-kheo, hăy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn,
từ bỏ ăn ban đêm, các Ông sẽ cảm thấy
ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an
trú.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Chư Hiền,
Được nói vậy, Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka, nói với các Tỷ-kheo ấy:
– Chư Hiền, chúng tôi ăn
chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời. Do chúng
tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban
ngày và ăn phi thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh,
ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Sao chúng tôi lại
bỏ hiện tại, chạy
V́ các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên
các vị ấy đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi
đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con đi
đến chỗ các Tỷ-kheo Assaji và Punabbasuka, sau khi
đến chúng con nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka như sau: "Chư hiền, Thế Tôn ăn,
từ bỏ ăn ban đêm... (như trên)... có sức
lực và an trú". Bạch Thế Tôn,
được nói vậy. Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka nói với chúng con như sau: "Chư Hiền,
chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn
ban ngày và ăn phi thời... (như trên)... chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và
ăn phi thời". Bạch Thế Tôn, v́
chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo `Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka chấp thuận, nên chúng con tŕnh sự việc này
lên
Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
– Này Tỷ-kheo, hăy đi và nhân danh Ta, bảo
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka: "Bậc
Đạo Sư cho gọi các Tôn giả".
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến
chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, sau khi
đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka:
– Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn
giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka vâng đáp
Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ
– Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, một
số đông Tỷ-kheo đến các Ông và nói như sau:
"Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban
đêm, cả chúng Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn,
từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm
thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hăy đến và ăn,
từ bỏ ăn ban đêm. Chư
Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy ít
bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú".
Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông nói
với các Tỷ-kheo ấy như sau: "Chư Hiền,
chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn
ban ngày và ăn phi thời. Do ăn
chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng
tôi cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức
lực và an trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại,
chạy
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo , các Ông có
hiểu pháp Ta dạy như sau: "Một cá nhân cảm
thọ bất cứ cảm giác nào, lạc, khổ, hay
bất khổ bất lạc; đối với
người ấy, các pháp bất thiện được
đoạn diệt, các thiện pháp được tăng
trưởng"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta dạy
như sau: "Ở đây đối với một
người, khi cảm thọ lạc thọ như
vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt,
ở đây, đối với một người, khi
cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện
pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp
được tăng trưởng, ở đây,
đối với một người khi cảm thọ
khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp
được tăng trưởng, các thiện pháp bị
đoạn diệt; ở đây, đối với
một người, khi cảm thọ khổ thọ
như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn trừ,
các thiện pháp được tăng trưởng, ở
đây, đối với một người, khi cảm
thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy,
các bất thiện pháp được tăng
trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt;
ở đây, đối với một người, khi
cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như
vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt,
các thiện pháp được tăng trưởng"?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này
các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không
thấy, không giác, không chứng, không liễu giải
với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối
với một người, khi cảm thọ lạc
thọ như vậy, các bất thiện pháp
được tăng trưởng, các thiện pháp bị
đoạn diệt", có thể chăng, này các
Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy
từ bỏ lạc thọ như vậy"? Và như
vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối
với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự
việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở
đây, đối với một người, khi cảm
thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện
pháp được tăng trưởng, các thiện pháp
bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy
từ bỏ lạc thọ như vậy". Này các
Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không
thấy, không giác, không chứng, không liễu giải
với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối
với một người, khi cảm thọ lạc
thọ như vậy, các bất thiện pháp bị
đoạn diệt, các thiện pháp được tăng
trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không
biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy chứng và trú
lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các
Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ sự việc này Ta
biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải
với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối
với một người, khi cảm thọ lạc
thọ như vậy, các thiệ�n pháp
được tăng trưởng, các bất thiện
pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy
chứng và trú lạc thọ như vậy.
Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không
biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu
giải với trí tuệ rằng: "Ở đây,
đối với một người khi cảm giác
khổ thọ... (như trên)... khi cảm giác bất
khổ bất lạc thọ như vậy, các bất
thiện pháp được tăng trưởng, các
thiện pháp bị đoạn diệt", có thể
chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta
lại nói: "Hăy từ bỏ bất khổ bất
lạc thọ như vậy" ? Và
như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng
đối với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự
việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở
đây, đối với một người, khi cảm
thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy,
các bất thiện pháp được tăng
trưởng, các thiện pháp bị đoạn
diệt", do vậy Ta nói: "Hăy từ bỏ bất
khổ bất lạc thọ như vậy". Này các
Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không
thấy, không giác, không chứng, không liễu giải
với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối
với một người, khi cảm thọ bất
khổ bất lạc thọ như vậy, các bất
thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp
được tăng trưởng", có thể
chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta
lại nói: "Hăy chứng và trú bất khổ bất
lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các
Tỷ-kheo là xứng đáng đối với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự
việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở
đây, đối với một người, khi cảm
thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy,
các thiện pháp được tăng trưởng, các
bất thiện pháp bị đoạn diệt", do
vậy Ta nói: "Hăy chứng và trú bất khổ bất
lạc thọ như vậy".
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng
đối với tất cả Tỷ-kheo, có sự
việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, Ta
không nói rằng đối với tất cả Tỷ-kheo
không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng
dật. Này các Tỷ-kheo, đối với những
Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă
đoạn tận, tu hành thành măn, các việc nên làm đă
làm, đă đặt gánh nặ�ng xuống, đă
thành đạt được lư tưởng, đă
tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát;
này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo
như vậy, Ta nói rằng không có sự việc cần
phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy
? V́ sự việc ấy đă
được các vị này làm, nhờ không phóng dật.
Các vị này không thể trở thành phóng
dật. Và này các Tỷ-kheo, đối với các
Tỷ-kheo c̣n là các bậc hữu học, tâm chưa thành
tựu, đang sống cần cầu sự vô
thượng an ổn khỏi các triền ách; này các
Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo như
vậy, Ta nói rằng có sự việc cần phải làm,
nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ?
Dầu cho trong khi các bậc Tôn giả này thọ dụng
các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu,
chế ngự các căn, các vị ấy (cần phải)
tự ḿnh nhờ thượng trí chứng ngộ chứng
đạt, và an trú ngay trong hiện tại mục đích
vô thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích
này, các Thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo này, v́
thấy quả này của không phóng dật nên Ta nói có sự
việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Này các Tỷ-kheo có bảy hạng
người sống trong đời này. Thế nào là bảy ?
Bậc câu phần giải thoát, bậc
tuệ giải thoát, bậc thân chứng, bậc kiến
đáo, bậc tín giải thoát, bậc tùy pháp hành, bậc
tùy tín hành.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc câu
phần giải thoát ? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người, sau khi thân đă chứng
đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt
khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă
thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị
này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này, này các Tỷ-kheo, được gọi
là hạng người câu phần giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này,
Ta không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng
dật. V́ sao vậy ? V́ sự việc ấy đă được
vị này làm, nhờ không phóng dật, vị ấy không có
thể trở thành phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc tuệ
giải thoát ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người, sau khi thân không chứng
đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt
khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă
thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị
này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này như vậy được gọi là
bậc tuệ giải thoát. Này các
Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói không có
sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
V́ sao vậy ? V́ sự
việc ấy đă được vị này làm, nhờ
không phóng dật; vị ấy không có thể trở thành
phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc thân chứng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người sau khi thân chứng đắc các tịch
tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và
vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ,
một số lậu hoặc của vị này
được đoạn trừ hoàn toàn. Vị
này như vậy được gọi là bậc thân
chứng. Này các Tỷ-kheo, đối
với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải
làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy
? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các
sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu,
chế ngự các căn, vị này (cần phải) tự
ḿnh với thượng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô
thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích này
các Thiện gia nam tử đă chơn chánh xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng
dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự
việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc kiến đáo ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người sau khi tự thân không chứng đắc các
tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc
pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí
tuệ, một số lậu hoặc của vị này
được đoạn trừ hoàn toàn; và các pháp do
Như Lai tuyên thuyết được vị này thấy
một cách hoàn toàn với trí tuệ và thực hành một
cách hoàn toàn. Này các Tỷ-kheo, vị này
được gọi là kiến đáo. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này,
Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng
dật. V́ sao vậy ? Dầu cho
trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng
pháp ... ... sống không gia đ́nh. Do vậy này các
Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên
đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người tín giải thoát ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo có người, sau khi tự thân
chứng đắc các tịch tịnh giải thoát
vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi
đă thấy với trí tuệ, một số lậu
hoặc của vị này được đoạn
trừ một cách hoàn toàn; và ḷng tin của vị này đối
với Như Lai đă được xác định, phát
sanh từ căn để, an trú. Này các
Tỷ kheo, vị này được gọi là bậc tín
giải thoát. Này các Tỷ-kheo,
đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này
thọ dụng các sàng tọa đúng pháp... ...sống không
gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này
của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo
này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không
phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người tùy pháp hành ? Ở đây, này
các Tỷ-kheo có người sau khi tự thân không chứng
đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt
khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă
thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không
được đoạn trừ một cách hoàn toàn; và các
pháp do Như Lai tuyên thuyết (chỉ) được
vị này chấp nhận một cách vừa phải
với trí tuệ, dầu cho vị này có những pháp
như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định
căn, tuệ căn. Này các Tỷ-kheo, vị
này được gọi là người tùy pháp hành. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này,
Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng
dật. V́ sao vậy ? Dầu cho
trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng
pháp... ... sống không gia đ́nh. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên
đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
người tùy tín hành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sau
khi tự thân không chứng đắc có tịch tịnh
giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc
pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, nhưng các
lậu hoặc không được đoạn trừ.
Nhưng nếu vị này có đủ ḷng tin và ḷng
thương Như Lai, thời vị này sẽ có những
pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn,
định căn, tuệ căn. Này các
Tỷ-kheo, vị này được gọi là người
tùy tín hành. Này các Tỷ-kheo, đối
với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải
làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy
? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các
sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu,
chế ngự các căn, nhưng vị này (cần
phải) tự ḿnh với thượng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
mục đích vô thượng của Phạm hạnh, v́
mục đích này các Thiện gia nam tử chơn chánh
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này
của phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta
nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng
dật.
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng
trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các
Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ
học từ từ, hành từ từ, thực tập
từ từ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí
tuệ được hoàn thành nhờ học từ
từ, hành từ từ, thực tập từ từ ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
một vị có ḷng tin đi đến gần; sau khi
đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ;
sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau khi
lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy
thọ tŕ pháp, vị ấy suy tư ư nghĩa các pháp
được thọ tŕ; sau khi suy tư ư nghĩa các pháp
được chấp thuận; sau khi các pháp
được chấp thuận, ước muốn sanh
khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị
ấy nỗ lực; sau khi nỗ lực vị ấy cân
nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do tinh
cần, vị ấy tự thân chứng được
sự thật tối thượng, và với trí tuệ
thể nhập sự thật ấy, vị ấy
thấy. Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu không có ḷng tin
ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến
gần ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ
sự kính lễ ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có
sự lóng tai ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự
nghe pháp ấy, thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ
tŕ pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy
tư ư nghĩa ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có
sự chấp thuận pháp ấy, thời này các
Tỷ-kheo, không có sự ước muốn ấy, thời
này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực ấy,
thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân nhắc ấy,
thời này các Tỷ-kheo không có sự tinh cần ấy. Này các Tỷ kheo, ở đây, các Ông đă đi
vào phi đạo. Này các Tỷ-kheo, ở
đây, các Ông đă đi vào tà đạo. Thật là
quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này
đă đi ra ngoài pháp luật này.
Này các Tỷ-kheo, có sự thuyết tŕnh gồm có
bốn phần (Catuppadam = Bốn cú) chính nhờ thuyết
tŕnh này người có trí, không bao lâu, nhờ tuệ
biết được ư nghĩa. Ta sẽ đọc
sự thuyết tŕnh ấy lên cho các Ông, này các Tỷ-kheo,
các Ông nhờ Ta mà sẽ hiểu thuyết tŕnh ấy.
–
– Này các Tỷ-kheo, cho đến một bậc
Đạo sư sống quá trọng vọng tài vật, là
vị thừa tự tài vật, và sống liên hệ
với tài vật, thời sự mua may bán đắt này
không xảy ra: "Chúng tôi sẽ làm việc này như
vậy, và như vậy chúng tôi sẽ không làm việc này
như vậy", huống nữa là Như Lai, này các
Tỷ-kheo, là vị sống hoàn toàn không liên hệ với
các tài vật. Này các Tỷ-kheo, đối với một
đệ tử, có ḷng tin giáo pháp bậc Đạo sư
và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp
(anudhamma) được khởi lên: "Bậc Đạo
sư là Thế Tôn, đệ tử là tôi.
71. KINH BA MINH VACCHAGOTA [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Vesali (Tỳ-xá-ly) rừng Đại Lâm, tại Kutagarasala (
–
– Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: "Sa-môn
Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết
kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta
đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri
kiến luôn luôn tồn tại, liên tục". Bạch
Thế Tôn, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama là
bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết
kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta
đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri
kiến luôn luôn tồn tại liên tục". Bạch
Thế Tôn, những vị ấy nói về Thế Tôn có
đúng với điều đă được nói,
những vị ấy không vu khống Thế Tôn với
điều không thực, nhưng đă giải thích về
Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và không một đồng
pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ
để quở trách ?
– Này Vaccha, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama
là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết
kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta
đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri
kiến luôn luôn tồn tại, liên tục". Th́ đấy là họ nói về Ta không đúng
với điều đă được nói, họ đă vu
khống Ta với điều không thực, hư ngụy.
– Phải giải thích như thế nào, bạch
Thế Tôn, chúng con mới nói về Thế Tôn đúng
với điều đă được nói, chúng con không vu
khống Thế Tôn với điều không thực, chúng con
mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp;
và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp
có thể lấy cớ để quở trách
?
– Ông phải giải thích: "Sa-môn Gotama là
bậc có ba minh (tevijja)", th́ này Vaccha, Ông mới là
người nói về Thế Tôn đúng với điều
đă được nói, mới không vu khống Thế Tôn
với điều không thực, mới giải thích về
Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một
đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể
lấy cớ để quở trách.
Khi được nói vậy, du sĩ Vacchagotta
bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, có thể có vị tại gia nào
không đoạn trừ kiết sử tại gia mà khi thân
hoại mạng
–
– Tôn giả Gotama, có thể có người tại
gia nào không đoạn trừ kiết sử tại gia mà
khi thân hoại mạng
– Không phải chỉ một trăm, này Vaccha,
không phải hai trăm, không phải ba trăm, không phải
bốn trăm, không phải năm trăm, nhưng
nhiều hơn như vậy là những người
tại gia không đoạn trừ tại gia kiết sử
mà khi thân hoại lại có thể sanh Thiên.
– Tôn giả Gotama, có hạng tà mạng ngoại
đạo nào, sau khi thân hoại mạng
–
Tôn giả Gotama, có hạng tà mạng ngoại
đạo nào, sau khi thân hoại mạng
–
– Sự việc là như vậy, Tôn giả Gotama,
thời ngoại đạo giới này (titthayatanan) là
trống không cho đến vấn đề sanh Thiên.
– Sự việc là như vậy, này Vaccha,
thời ngoại đạo giới này là trống không cho
đến vấn đề sanh Thiên.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tinh xá ông
Anathapindika (
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Thế giới là thường
trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Thế giới là thường trú, chỉ như
vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Thế giới là vô
thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là
hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Thế giới là vô thường, chỉ như
vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Thế giới là hữu biên,
chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Thế giới là vô biên,
chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Sinh mạng và thân thể là
một, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Sinh
mạng và thân thể là một, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Sinh mạng và thân thể là
khác, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Sinh
mạng và thân thể là khác, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Như Lai có tồn tại sau
khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại
sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là
hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng ?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau
khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư
vọng".
– Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại
và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như
vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng
?"
– Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau:
"Như Lai không có tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài
ra là hư vọng".
– Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama
? Khi được hỏi: "Phải chăng Tôn
giả Gotama có tri kiến như sau: "Thế giới là
thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là
hư vọng ?", Tôn giả Gotama
đă trả lời: "
– Này Vaccha, nghĩ rằng: "Thế giới là
thường trú", như vậy là tà kiến, kiến
trù lâm, kiến hoang vu, kiến hư luận, kiến tranh
chấp, kiến kiết phược, đi đôi với
khổ, với tàn hại, với năo hại, với
nhiệt năo, không hướng đến yểm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết- bàn. Này Vaccha, nghĩ rằng: "Thế giới
là vô thường"... (như trên)...
"Thế giới là hữu biên"... "Thế
giới là vô biên"... "Sinh mạng và thân thể là
một"... "Sinh mạng và thân thể là khác"...
"Như Lai có tồn tại sau khi chết"...
"Như Lai không có tồn tại sau khi chết"...
"Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau
khi chết"... Này Vaccha, nghĩ rằng: "Như Lai
không có tồn tại và không không tồn tại sau khi
chết", như vậy là tà kiến, kiến trù lâm,
kiến hoang vu, kiến hư luận, kiến tranh chấp,
kiến kiết phược, đi đôi với khổ,
với tàn hại, với năo hại, với nhiệt năo,
không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này
Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà Ta không chấp
nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy.
–
– Này Vaccha, tà kiến đă được Như
Lai đoạn trừ. Nhưng này Vaccha, đây là
điều Như Lai đă thấy: "Đây là sắc,
đây là sắc tập, đây là sắc diệt; đây là
thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt;
đây là tưởng, đây là tưởng tập, đây
là tưởng diệt; đây là hành, đây là hành tập,
đây là hành diệt; đây là thức, đây là thức
tập, đây là thức diệt". Do vậy ta nói
rằng, với sự đoạn trừ, ly tham,
đoạn diệt, xả bỏ, vứt bỏ tất cả
ảo tưởng tất cả hôn mê, của tất
cả ngă kiến, ngă sở kiến, mạn tùy miên, mà
Như Lai được giải thoát, không c̣n chấp
thủ.
–
– Sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.
– Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy
không sanh khởi?
– Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.
– Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh
khởi và không sanh khởi ?
– Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có
áp dụng.
– Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy
không sanh khởi và không không sanh khởi ?
– Không sanh khởi và không không sanh khởi, này
Vaccha, không có áp dụng.
– Khi được hỏi: "Tôn giả Gotama,
vị Tỷ-kheo được tâm giải thoát như
vậy sanh khởi tại chỗ nào ?",
Tôn giả đáp: "Sanh khởi, này Vaccha, không có áp
dụng". Khi được hỏi: "Như vậy,
Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi
?" Tôn giả đáp: "Không sanh khởi, này Vaccha,
không có áp dụng". Khi được hỏi:
"Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh
khởi và không sanh khởi?", Tôn
giả đáp: "Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha,
không có áp dụng". Khi được hỏi:
"Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh
khởi và không không sanh khởi ?", Tôn
giả đáp: "Không sanh khởi và không không sanh khởi,
này Vaccha, không có áp dụng". Thưa Tôn giả Gotama, tôi
trở thành vô tri về điểm này, tôi trở thành mê
mờ về điểm này, và một số tin
tưởng tôi đă có đối với Tôn giả Gotama
do các cuộc đàm thoại lúc trước đem lại,
nay đă biến mất nơi tôi.
–
– Tôn giả Gotama, nếu một ngọn lửa
cháy đỏ trước mặt tôi, tôi có biết:
"Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt
tôi".
– Nhưng nếu, này Vaccha, có người hỏi
Ông như sau: "Ngọn lửa này cháy đỏ
trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên ǵ mà cháy đỏ ?", nếu được
hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời như thế nào
?
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu có người
hỏi tôi như sau: "Ngọn lửa này cháy đỏ
trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên ǵ mà cháy đỏ ?", nếu được
hỏi vậy, thưa Tôn giả Gotama, tôi sẽ trả
lời như sau: "Ngọn lửa cháy đỏ
trước mặt tôi, ngọn lửa này cháy đỏ do
duyên nhiên liệu cỏ và củi".
–
– Tôn giả Gotama, nếu ngọn lửa ấy
được tắt trước mặt tôi, tôi sẽ
biết: "Ngọn lửa này đă tắt trước
mặt tôi".
– Này Vaccha, nếu có người hỏi Ông như
sau: "Ngọn lửa này đă tắt trước
mặt Ông, ngọn lửa ấy từ đây đă đi
về phương hướng nào, phương Đông,
phương Tây, phương Bắc, hay phương Nam
?", được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả
lời thế nào ?
– Không có thể áp dụng ở đây, Tôn giả
Gotama. V́ rằng, này Tôn giả Gotama, ngọn
lửa ấy đă cháy v́ duyên nhiên liệu cỏ và
củi. Khi cỏ và củi ấy
hết và v́ không có nhiên liệu khác, nên được xem là
không có nhiên liệu, đă bị tắt.
– Cũng vậy, này Vaccha, do sắc pháp này,
nhờ đó mà một người nhận biết Như
Lai có thể nhận biết được, sắc pháp
ấy đă được Như Lai đoạn diệt,
cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không
được tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai. Giải thoát khỏi cái gọi là sắc,
này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó ḍ
đến đáy như đại dương. Khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không
có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp
dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp
dụng. Do thọ này, nhờ đó mà một
người nhận biết Như Lai có thể nhận
biết được, thọ ấy đă
được Như Lai đoạn diệt, cắt
đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala
không được tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai. Giải thoát cái gọi là thọ, này Vaccha,
là Như Lai, thâm sâu, vô lượng khó ḍ đến đáy
đại dương, khởi lên không có áp dụng, không
khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên
không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên
không có áp dụng. Do tưởng này, nhờ đó mà một
người nhận biết Như Lai có thể nhận
biết được, tưởng ấy đă
được Như Lai đoạn diệt, cắt
đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala
không được tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai. Giải thoát cái gọi là tưởng, này
Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng... (như
trên)... không khởi lên và không không khởi lên không có áp
dụng. Do những hành này nhờ đó mà một
người nhận biết Như Lai có thể nhận
biết được, các hành ấy đă được
Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận
gốc rễ, làm cho như thân cây tala không được
tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải
thoát những cái gọi là hành, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu,
vô lượng... (như trên)... không
khởi lên và không không khởi lên, không có áp dụng. Do
thức này, nhờ đó mà một người nhận
thức Như Lai có thể nhận thức
được, cái thức ấy đă được
Như Lai đoạn diệt, cắt đứt được
tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không
được tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai. Giải thoát cái gọi là thức, này Vaccha,
là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó ḍ đến đáy
như đại dương, khởi lên không có áp dụng,
không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi
lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên
không có áp dụng.
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại
đạo Vacchagotta bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, như một cây tala
lớn, không xa làng hay thị trấn, v́ vô thường nên
cành lá rơi rụng, vỏ và đọt non rơi
rụng, giác cây rơi rụng và sau một thời gian,
với cành lá rơi rụng, với vỏ và đọt non
rơi rụng, với giác cây rơi rụng, cây ấy
thuần tịnh chỉ c̣n lại lơi cây. Cũng vậy,
lời nói này của Tôn giả Gotama, với cành lá rơi
rụng, với vỏ và đọt non rụng, với giác
cây rơi rụng, lời nói ấy thuần tịnh,
chỉ c̣n lại lơi cây. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng
đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống,
phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp
đă được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương
tiện tŕnh bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy
Pháp và quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử, từ nay trở đi cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
tại Rajagaha (Vương Xá), Veluvàna (
– Đă lâu rồi tôi mới
được hầu chuyện với Tôn giả Gotama. Lành thay, nếu Tôn
giả Gotama giảng cho tôi một cách vắn tắt các
thiện và bất thiện pháp.
– Này Vaccha, Ta có thể giảng cho Ông một cách
vắn tắt các thiện và bất thiện pháp. Này Vaccha,
Ta có thể giảng cho Ông, một cách rộng răi các
thiện và bất thiện pháp. Nhưng này
Vaccha, Ta sẽ giảng cho Ông một cách vắn tắt, các
thiện và bất thiện pháp. Hăy nghe và
khéo tác ư. Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Du sĩ ngoại đạo
Vacchagotta vâng đáp
– Tham, này Vaccha, là bất thiện, vô tham là
thiện. Sân, này Vaccha, là bất thiện, vô
sân là thiện. Si, này Vaccha, là bất
thiện, vô si là thiện. Như vậy,
này Vaccha, ba pháp là bất thiện, ba pháp là thiện. Sát sanh, này Vaccha, là bất thiện, từ bỏ
sát sanh là thiện. Lấy của không
cho, này Vaccha, là bất thiện, từ bỏ lấy
của không cho là thiện. Tà hạnh
trong các dục, này Vaccha là bất thiện, từ bỏ tà
hạnh trong các dục là thiện. Vọng
ngữ, này Vaccha, là bất thiện, từ bỏ vọng
ngữ là thiện. Nói hai lưỡi, này
Vaccha, là bất thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là
thiện. Nói ác khẩu, này Vaccha, là
bất thiện, từ bỏ nói ác khẩu là thiện.
Nói lời phù phiếm, này Vaccha, là bất
thiện, từ bỏ nói lời phù phiếm là thiện.
Xan tham, này Vaccha, là bất thiện, không xan
tham là thiện. Sân, này Vaccha, là bất
thiện, không sân là thiện. Tà kiến,
này Vaccha, là bất thiện, chánh kiến là thiện. Như vậy, này Vaccha, mười pháp là bất
thiện, mười pháp là thiện. Này Vaccha, khi ái
được một Tỷ-kheo đoạn trừ,
cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không
được tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai, Tỷ-kheo ấy là bậc A-la-hán, các
lậu đă tận, tu hành thành măn, các việc nên làm đă
làm, đă đặt gánh nặng xuống, đă thành
đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, chánh trí giải thoát.
– Mong sự việc là vậy về Tôn giả
Gotama. Nhưng không biết Tôn giả Gotama có một
Tỷ-kheo là đệ tử đă đoạn trừ các
lậu hoặc, với thượng trí, tự ḿnh
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ?
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm, hai
trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà c̣n
nhiều hơn thế nữa là những Tỷ-kheo
đệ tử của Ta đă đoạn trừ các
lậu hoặc, với thượng trí, tự ḿnh
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
– Mong sự việc là như vậy đối
với Tôn giả Gotama. Mong sự việc là
như vậy đối với các Tỷ-kheo.
Nhưng không biết Tôn giả Gotama có một Tỷ-kheo-ni
là đệ tử đă đoạn trừ các lậu
hoặc, với thượng trí, tự ḿnh chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ?
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm, hai
trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà c̣n
nhiều hơn thế nữa là những Tỷ-kheo-ni,
đệ tử của Ta, đă đoạn trừ các
lậu hoặc, với thượng trí, tự ḿnh
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
– Mong sự việc là như vậy đối
với tôn giả Gotama. Mong sự việc là
như vậy đối với các Tỷ-kheo. Mong sự việc là như vậy đối
với các Tỷ-kheo-ni. Nhưng không biết Tôn
giả Gotama có một Nam cư sĩ là đệ tử
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh,
sau khi đă đoạn trừ năm hạ phân kiết
sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại
chỗ ấy, không phải trở lại đời này
nữa ?
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm...
không phải năm trăm mà c̣n nhiều hơn thế nữa
là những Nam cư sĩ, là đệ tử sống
tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh, sau khi
đă đoạn trừ năm hạ phần kiết
sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại
chỗ ấy, không phải trở lại đời này
nữa.
– Mong sự việc là như vậy đối
với Tôn giả Gotama. Mong sự việc là
như vậy đối với các Tỷ-kheo. Mong sự việc là như vậy đối
với các Tỷ-kheo-ni. Mong sự việc là như
vậy đối với Nam cư sĩ, sống tại
gia, mặc áo trắng,
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm...
không phải năm trăm mà c̣n nhiều hơn thế
nữa là những Nam cư sĩ, là đệ tử
sống tại gia, mặc áo trắng, hưởng thụ
vật dục, nhưng xây dựng Thánh giáo, chấp
nhận giáo huấn, đă độ nghi đoạn
hoặc, chứng đắc vô sở úy, không dựa vào
người khác, sống trong Thánh giáo của bậc
Đạo sư.
– Mong sự việc là như vậy đối
với Tôn giả Gotama. Mong sự việc là
như vậy đối với các Tỷ-kheo. Mong sự việc là như vậy đối
với các Tỷ-kheo-ni. Mong sự việc là như
vậy đối với Nam cư sĩ, sống tại gia,
mặc áo trắng,
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm...
không phải năm trăm mà c̣n nhiều hơn thế
nữa là những Nữ cư sĩ, là đệ tử
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh,
sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết
sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại
chỗ ấy, không trở lại đời này nữa.
– Mong sự việc là như vậy đối
với Tôn giả Gotama. Mong sự việc là
như vậy đối với các Tỷ-kheo. Mong sự việc là như vậy đối
với các Tỷ-kheo-ni. Mong sự việc là như
vậy đối với các Nam cư sĩ, sống
tại gia, mặc áo trắng,
– Này Vaccha, không phải chỉ một trăm,
không phải hai trăm, không phải ba trăm, không phải
bốn trăm, không phải năm trăm mà nhiều
hơn thế nữa là những Nữ cư sĩ, là
đệ tử sống tại gia, mặc áo trắng,
hưởng thụ vật dục, nhưng xây dựng Thánh
giáo, chấp nhận giáo huấn, đă độ nghi
đoạn hoặc, chứng đắc vô sở úy, không
dựa vào người khác, sống trong Thánh giáo của
bậc Đạo sư.
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu Tôn giả Gotama
đă thành măn pháp này, nhưng các Tỷ-kheo không
được thành măn, như vậy Phạm hạnh này
đă không được đầy đủ về
phương diện này. Thưa Tôn giả Gotama, v́ rằng
Tôn giả Gotama đă thành măn pháp này và các Tỷ-kheo cũng
được thành măn; như vậy Phạm hạnh này
đă được đầy đủ về
phương diện này. Thưa Tôn giả Gotama, nếu Tôn
giả Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă thành
măn, và các Tỷ-kheo-ni không thành măn; như vậy Phạm
hành này không được đầy đủ về
phương diện này. Thưa Tôn giả Gotama, v́ rằng
Tôn giả Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă
thành măn, và các Tỷ-kheo-ni đă thành măn; như vậy Phạm
hạnh này được đầy đủ về
phương diện này. Thưa Tôn giả Gotama, nếu Tôn
giả Gotama đă thành măn pháp này và các Tỷ-kheo đă thành
măn, và các Tỷ-kheo ni đă thành măn, và các Nam cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh
không thành măn; như vậy Phạm hạnh này đă không
được đầy đủ về phương
diện này. Thưa Tôn giả Gotama, v́ rằng Tôn giả
Gotama đă thành măn pháp này, các Tỷ-kheo cũng đă thành
măn, các Tỷ-kheo-ni cũng đă thành măn, các Nam cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh
cũng đă thành măn; như vậy Phạm hạnh này
đă được đầy đủ về
phương diện này. Thưa Tôn giả Gotama, nếu Tôn
giả Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă thành
măn, và các Tỷ-kheo ni đă thành măn, các Nam cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng, theo phạm hạnh
đă thành măn nhưng các Nam cư sĩ sống tại gia,
mặc áo trắng, hưởng thụ vật dục không
thành măn; như vậy phạm hạnh này không
được đầy đủ về phương
diện này. Thưa Tôn giả Gotama v́ rằng Tôn giả
Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă thành măn, và
các Tỷ-kheo-ni đă thành măn, và các Nam cư sĩ sống
tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh đă
thành măn, và các Nam cư sĩ sống tại gia, mặc áo
trắng, hưởng thụ vật dục đă thành măn;
như vậy Phạm hạnh này được
đầy đủ về phương diện này.
Thưa Tôn giả Gotama, nếu Tôn giả Gotama đă thành
măn pháp này và các Tỷ-kheo đă thành măn, và các Tỷ-kheo-ni
đă thành măn, và các Nam cư sĩ sống tại gia,
mặc áo trắng, hưởng thụ vật dục
đă thành măn; nhưng các Nữ cư sĩ, sống
tại gia, mặc áo trắng, sống theo Phạm hạnh
không thành măn; như vậy Phạm hạnh này không
được đầy đủ về phương
diện này. Thưa Tôn giả Gotama, v́ rằng Tôn giả
Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă thành măn, và
các Tỷ-kheo-ni đă thành măn, và các Nam cư sĩ sống
tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh đă
thành măn, và các Nam cư sĩ sống tại gia, mặc áo
trắng, hưởng thụ các vật dục đă thành
măn, và các Nữ cư sĩ sống tại gia, mặc áo
trắng, theo Phạm hạnh đă thành măn; như vậy
Phạm hạnh này được đầy đủ
về phương diện này. Này Tôn giả Gotama, nếu
Tôn giả Gotama đă thành măn pháp này, và các Tỷ-kheo đă
thành măn, và các Ty kheo ni đă thành măn, và các Nam cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh
đă thành măn, và các Nam cư sĩ sống tại gia,
mặc áo trắng, hưởng thụ vật dục
đă thành măn, và các Nữ cư sĩ sống tại gia,
mặc áo trắng, theo Phạm hạnh đă thành măn;
nhưng các Nữ cư sĩ sống tại gia, mặc áo
trắng, hưởng thụ vật dục không thành măn;
như vậy Phạm hạnh này đă không đầy
đủ về phương diện này. Thưa Tôn giả
Gotama, v́ rằng Tôn giả Gotama đă thành măn pháp này, và các
Tỷ-kheo đă thành măn, và các Tỷ-kheo-ni đă thành măn, và
các Nam cư sĩ sống tại gia, mặc áo trắng,
theo Phạm hạnh đă thành măn, và các Nam cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng hưởng thụ
vật dục đă thành măn, và các nữ cư sĩ
sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh
đă thành măn, và các Nữ cư sĩ sống tại gia,
mặc áo trắng, hưởng thụ các vật dục
đă thành măn; như vậy Phạm hạnh này
được đầy đủ về phương
diện này.
Thưa Tôn giả Gotama, ví như con sông Hằng
(Ganga) hướng về biển cả, chảy về
biển cả, xuôi ḍng về biển cả, liền
đứng lại khi xúc chạm với biển cả;
cũng vậy hội chúng này của Tôn giả Gotama,
gồm có cư sĩ và xuất gia, hướng về
Niết-bàn, chảy về Niết-bàn, xuôi ḍng về
Niết-bàn, đứng lại khi xúc chạm với
Niết-bàn. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Tôn giả Gotama như người dựng
đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống,
phơi bày những ǵ bị che kín, chỉ đường
cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă
được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương
tiện tŕnh bày. Nay con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp,
quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama cho con được
xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọ
đại giới.
–
–
Du sĩ ngoại đạo Vacchagotta
được xuất gia với Thế Tôn,
được thọ đại giới, không lâu sau khi
thọ đại giới, nửa tháng sau khi thọ
đại giới, Tôn giả Vacchagotta đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn,
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, Tôn giả Vacchagotta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, cho đến mức
độ trí hữu học, minh hữu học có thể
chứng đạt, con đă chứng đạt. Mong
Thế Tôn dạy cho con pháp (khác) cao hơn.
Vậy này Vaccha, hăy tu tập hai pháp
cao hơn này, chỉ và quán. Này Vaccha, hai pháp này được tu tập cao
hơn, chỉ và quán, sẽ đưa đến sự
thể nhập vào một số giới sai biệt.
Này Vaccha, nếu Ông muốn như sau: "Ta
muốn chứng được các loại thần thông: ta
có thể một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân; ta có thể hiện h́nh biến h́nh
đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang
hư không; Ta có thể độn thổ trồi lên ngang
qua đất liền như ở trong nước; ta có
thể đi trên nước không ch́m như đi trên
đất liền; ta có thể ngồi kiết già đi
trên hư không như con chim, với bàn tay ta có thể
chạm và rờ mặt trăng và mặt trời,
những vật có đại oai lực, oai thần như
vậy; ta có thể tự thân bay đến cơi Phạm
thiên" th́ Ông sẽ đạt được cái ǵ có
thể chứng ngộ ở tại đây, nếu Ông c̣n
giữ được đối tượng.
Này Vaccha, nếu Ông Muốn như sau: "Mong
rằng ta có thể biết được tâm của các
chúng sanh khác, của các người khác với tâm của
ta; tâm có tham, ta có thể biết được là tâm có
tham, hay tâm vô tham, ta có thể biết được là tâm vô
tham; hay tâm có sân, ta có thể biết được là tâm có
sân; hay tâm vô sân, ta có thể biết được là tâm vô
sân; hay tâm có si, ta có thể biết được là tâm có
si; hay tâm vô si, ta có thể biết được là tâm vô
si; hay tâm chuyên chú, ta có thể biết được là tâm
chuyên chú; hay tâm tán loạn, ta có thể biết
được là tâm tán loạn; hay tâm đại hành, ta có
thể biết được là tâm đại hành; hay tâm
không phải đại hành; ta có thể biết
được là tâm không phải đại hành; hay tâm
chưa vô thượng, ta có thể biết là tâm chưa vô
thượng; hay tâm vô thượng, ta có thể biết là
tâm vô thượng; hay định tâm, ta có thể biết
là định tâm; hay không phải định tâm, ta có
thể biết là không phải định tâm; hay giải
thoát tâm, ta có thể biết là giải thoát tâm; hay không
phải giải thoát tâm, ta có thể biết là không phải
giải thoát tâm"., th́ Ông sẽ đạt
được những ǵ có thể chứng ngộ
tại đây, nếu Ông c̣n giữ được
đối tượng.
Này Vaccha, Ông có thể muốn như sau: "Ta có
thể nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ, như một đời, hai đời, ba
đời, bốn đời, năm đời, mười
đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm
mươi đời, trăm đời, hai trăm
đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, nhiều
hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và
thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, ḍng họ như
thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ
nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như
thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như
thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi
thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta
được sanh ra ở đây. Như
vậy, ta có thể nhớ đến nhiều đời
sống quá khứ cùng với các nét đại cương
và các chi tiết", Ông sẽ đạt được
những ǵ có thể chứng ngộ tại đây, nếu
Ông c̣n giữ được đối tượng.
Này Vaccha, Ông có thể muốn như sau:
"Với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, ta có thể
thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta có
thể biết rằng, chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ
kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Những chúng sanh này làm những ác hạnh về thân,
ngữ và ư, phỉ báng các bậc Thánh,
Này Vaccha, Ông có thể muốn như sau:
"Với sự đoạn trừ các lậu hoặc,
mong rằng ta có thể với thượng trí tự ḿnh
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát", Ông sẽ chứng đạt những ǵ có
thể chứng ngộ tại đây, nếu Ông c̣n giữ
được đối tượng.
Rồi Tôn giả Vaccha hoan hỷ, tùy hỷ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía
hữu hướng về Ngài rồi từ biệt.
Rồi Tôn giả Vacchagotta độc trú viễn ly, không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu với
thắng trí, tự ḿnh chứng ngộ, chứng
đạt và an trú ngay trong hiện tại vô thượng
cứu cánh Phạm hạnh, v́ mục đích này Thiện
gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh, hướng đến Sanh đă
tận, Phạm hạnh đă thành, việc cần làm
đă làm, sau đời hiện tại không có đời
khác nữa; Tôn giả Vacchagotta đă trở thành một
vị La hán khác nữa.
Sau một thời gian, một
số đông Tỷ-kheo đi đến yết kiến
– Chư Tôn giả đang đi đâu
?
–
– Vậy chư Tôn giả hăy
nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân
– Thưa vâng, Hiền giả.
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Vacchagotta cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch
như sau: "Thế Tôn đă được con hầu
hạ, Thiện Thệ đă được con hầu
hạ".
– Này các Tỷ-kheo, Ta đă được
biết tâm của Tỷ-kheo Vacchagotta với tâm của Ta
như sau: "Tỷ-kheo Vacchagotta là bậc tam minh, có
đại thần lực, có đại uy lực". Các chư Thiên cũng báo với Ta ư nghĩa
ấy: "Tỷ-kheo Vacchagotta là bậc tam minh, có
đại thần lực, có đại uy lực".