Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
74. KINH TRƯỜNG TRẢO [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha
(Vương Xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu), trong hang
Sukarakhata. Rồi du sĩ ngoại đạo Dighanakha
(Trường Trảo) đi đến chỗ Thế Tôn,
sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi
thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu liền đứng
một bên. Đứng một bên, du sĩ ngoại
đạo Dighanakha nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, tôi có lư thuyết như sau, tôi
có tri kiến như sau: "Tất cả đều không
làm cho tôi thích thú".
– Này Aggivessana, tri kiến: "Tất cả
đều không làm cho tôi thích thú", tri kiến ấy không
làm Ông thích thú?
– Tôn giả Gotama, nếu tri kiến ấy làm tôi
thích thú, thời đây cũng giống như vậy,
thời đây cũng giống như vậy.
– Này Aggivessana, nếu số đông người
ở trong đời đă nói như sau: "Thời
đây cũng giống như vậy, thời đây
cũng giống như vậy", thời họ không
từ bỏ tri kiến ấy, họ chấp thủ
một tri kiến khác. Này Aggivessana, nếu thiểu số
người ở trong đời đă nói như sau:
"Thời đây cũng giống như vậy, thời
đây cũng giống như vậy", thời họ
sẽ từ bỏ tri kiến ấy và không chấp
thủ một tri kiến khác.
Này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lư
thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất
cả đều làm cho tôi thích thú". Này Aggivessana, một
số Sa-môn, Bà-la-môn có lư thuyết như sau, có tri kiến
như sau: "Tất cả đều làm cho tôi không thích thú".
Này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lư thuyết
như sau, có tri kiến như sau: "Một phần làm
tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Ở
đây, này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lư
thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất
cả đều làm cho tôi thích thú," tri kiến này
của họ là gần với tham dục, gần với
triền phược, gần với hoan lạc, gần
với đắm trước, gần với chấp
thủ. Ở đây, này Aggivessana, một số Sa-môn,
Bà-la-môn có lư thuyết như sau, có tri kiến như sau:
"Tất cả đều làm cho tôi không thích thú", tri
kiến này của họ là gần với không tham dục,
gần với không phiền trược, gần với
không hoan lạc, gần với không chấp thủ.
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại
đạo Dighanakha thưa với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama tán dương quan điểm
của tôi, Tôn giả Gotama hết sức tán dương
quan điểm của tôi.
– Ở đây, này Aggivessana, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào có lư thuyết như sau, có tri kiến
như sau: "Một phần làm tôi thích thú, một
phần làm tôi không thích thú". Cái ǵ trong tri kiến này làm họ thích thú là
gần tham dục, gần phiền trược, gần
hoan lạc, gần đắm trước, gần chấp
thủ ? Cái ǵ trong tri kiến này làm
họ không thích thú là gần không tham dục, gần không
triền phược, gần không hoan lạc, gần không
đắm trước, gần không chấp thủ
?
Ở đây, này Aggivessana, những Sa-môn, Ba la môn
có lư thuyết như sau, có tri kiến như sau:
"Tất cả đều làm tôi thích thú". Ở
đây, người có trí suy nghĩ như sau: "Nếu
ta nói tri kiến này của ta: "Tất cả đều
làm tôi thích thú", và nếu ta cố chấp, kiên chấp
tri kiến này và nói: "Đây là sự thật, ngoài ra là
hư vọng", như vậy là đối nghịch
với hai hạng người: Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lư
thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất
cả đều làm cho tôi không thích thú", và Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có lư thuyết như sau, có tri kiến như sau:
"Một phần làm tôi thích thú, một phần làm tôi
không thích thú". Ta sẽ đối nghịch với hai
hạng người này. Khi nào có đối
nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận
thời có chống đối; khi nào có chống đối
thời có bực ḿnh". Như
vậy, vị này v́ thấy sự đối nghịch,
tranh luận, chống đối và bực ḿnh nên từ
bỏ tri kiến này, không chấp thủ tri kiến khác.
Như vậy là sự đoạn trừ
những tri kiến này, như vậy là sự hủy
bỏ những tri kiến này. Ở đây, này
Aggivessana, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lư thuyết
như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả
đều làm cho tôi không thích thú". Ở đây, người
có trí suy nghĩ như sau: "Nếu ta nói tri kiến này
của ta: "Tất cả đều làm tôi không thích
thú", và nếu ta cố chấp, kiên chấp tri kiến
này và nói: "Đây là sự thật, ngoài ra là hư
vọng", th́ như vậy, ta đối nghịch
với hai hạng người: Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lư thuyết
như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả
đều làm cho tôi thích thú" và Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lư
thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Một
phần làm tôi thích thú, một phần làm tôi không thích
thú". Ta sẽ đối nghịch với hai hạng
người này. Khi nào có đối nghịch
thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có
chống đối; khi nào có chống đối thời có
bực ḿnh". Như vậy, vị này
v́ thấy sự đối nghịch, tranh luận,
chống đối và bực ḿnh, nên từ bỏ tri
kiến ấy, không chấp thủ tri kiến khác. Như vậy là sự đoạn trừ
những tri kiến này, như vậy là sự hủy
bỏ những tri kiến này. Ở đây, này
Aggivessana, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lư thuyết
như sau, có tri kiến như sau: "Một phần làm
tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Ở đây,
người có trí suy nghĩ như sau: "Nếu ta nói tri
kiến này của ta: "Một phần làm tôi thích thú,
một phần làm tôi không thích thú", và nếu ta cố
chấp, kiên chấp tri kiến này và nói: "Đây là
sự thật ngoài ra là hư vọng", th́ như
vậy, ta đối nghịch với hai hạng
người: Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lư thuyết như sau, có
tri kiến như sau: "Tất cả đều làm cho
tôi thích thú" và Sa-môn hay Bà la-môn này có lư thuyết như
sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều
làm cho tôi không thích thú". Ta sẽ đối nghịch
với hai hạng người này. Khi nào có
đối nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh
luận thời có chống đối, khi nào có chống
đối thời có bực ḿnh". Như
vậy, vị này v́ thấy sự đối nghịch
tranh luận, chống đối và bực ḿnh, nên từ
bỏ tri kiến ấy, không chấp thủ tri kiến
khác. Như vậy là sự đoạn
trừ những tri kiến này, như vậy là sự
hủy bỏ những tri kiến này.
Nhưng này Aggivessana, thân này có sắc, do bốn
đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi
dưỡng, vô thường, biến hoại, phân toái,
đoạn tuyệt, hoại diệt, cần phải
được quán sát là vô thường, khổ, như
bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như
điều bất hạnh, như bệnh chướng,
như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô
ngă. Khi vị ấy quán sát thân này là vô thường,
khổ, như bệnh, như cục bướu, như
mũi tên, như điều bất hạnh, như
bệnh chướng, như kẻ địch, như phá
hoại, là không, là vô ngă, thời thân, thân dục, thân ái, thân
phục ṭng được đoạn diệt.
Lúc bấy giờ Tôn giả Sariputta
đứng sau lưng Thế Tôn và đang quạt
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Như người dựng đứng lại
những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra
những ǵ bị che kín, chỉ đường cho kẻ
bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy
sắc; cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn
giả Gotama dùng nhiều phương tiện tŕnh bày
giải thích. Nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y
chúng Tỷ-kheo.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú
giữa dân chúng Kuru, tại thị trấn của dân chúng Kuru
tên là Kammasadhamma, trên thảm cỏ trong nhà lửa của
một Bà-la-môn thuộc ḍng họ Bharadvaji. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng
đắp y, cầm y bát, vào Kammasadhamma để khất
thực. Đi khất thực ở
Kammasadhamma xong, sau bữa ăn, trên đường khi
khất thực về,
Rồi du sĩ Magandiya, trong khi
đi bộ ngao du cùng khắp, đến tại ngôi nhà
lửa của Bà-la-môn thuộc họ Bharadvaja. Du sĩ Magandiya thấy thảm cỏ
đă soạn sẵn trong nhà lửa của vị Bà-la-môn
thuộc ḍng họ Bharadvaja, khi thấy vậy liền nói
với Bà-la-môn thuộc ḍng họ Bharadvaja:
– Tấm thảm cỏ này trong nhà lửa của
Tôn giả Bharadvaja đă được sửa soạn cho
ai, h́nh như là chỗ nằm ngủ của một Sa-môn ?
–
– Thật sự, này Tôn giả Bharadvaja, chúng tôi
thấy một sự bất hạnh khi chúng tôi thấy
chỗ ngủ của Tôn giả Gotama, một vị phá
hoại sự sống (bhunahuno).
– Này Magandiya, hăy thận trọng lời Ông nói. Này
Magandiya, hăy thận trọng lời Ông nói. Nhiều
vương tộc trí giả, nhiều Bà-la-môn trí giả,
nhiều Cư sĩ trí giả, nhiều Sa-môn trí giả có
ḷng tin nơi Tôn giả Gotama ấy, và đă tu tập theo
Thánh đạo, theo Pháp và theo (chí) Thiện.
– Này Tôn giả Bharadvaja, nếu chúng tôi thấy
mặt Tôn giả Gotama, chúng tôi sẽ nói như sau
trước mặt vị ấy: "Sa-môn Gotama là
người phá hoại sự sống". V́ sao vậy ? Thánh điển
của chúng tôi đă truyền lại như vậy.
– Nếu Tôn giả Magandiya hoan hỷ, tôi sẽ
tin lại sự t́nh này cho Sa-môn Gotama biết.
– Tôn giả Bharadvaja hăy yên ḷng, và hăy nói lên
những điều ǵ đă được nói.
–
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Bharadvaja hoảng
hốt, lông tóc dựng ngược, bạch Thế Tôn:
– Chính là điều chúng con muốn thưa
với Tôn giả Gotama và Tôn giả Gotama đă đoán
trước chúng con.
Nhưng cuộc nói chuyện này giữa Thế
Tôn và Bà-la-môn thuộc ḍng họ Bharadvaja nói chưa xong, du
sĩ Magandiya, khi đi bộ ngao du cùng khắp, đến
tại ngôi nhà lửa của Bà-la-môn thuộc ḍng họ
Bharadvaja, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm
với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một
bên. Rồi Thế Tôn nói với du sĩ Magandiya đang
ngồi một bên:
– Này Magandiya, con mắt ưa thích sắc, ái
lạc sắc, hoan hỷ sắc, và Như Lai nhiếp
phục, thủ hộ, hộ tŕ con mắt và thuyết pháp
để pḥng hộ con mắt.
– Chính v́ vậy, Tôn giả Gotama, mà tôi nói:
"Sa-môn Gotama phá hoại sự sống". V́ sao vậy ? Thánh điển
của chúng tôi đă truyền lại như vậy.
–
– Chính v́ vậy, Tôn giả Gotama, mà tôi nói:
"Sa-môn Gotama là người phá hoại sự
sống". V́ sao vậy ? Thánh điển của chúng tôi đă truyền
lại như vậy.
– Ông nghĩ thế nào, này Magandiya ?
Ở đây, có người trước kia
đam mê các sắc pháp do mắt nhận thức, các
sắc pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc,
khả ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Người ấy sau một thời gian, sau khi như
chơn biết được sự tập khởi,
sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của các sắc pháp, sau khi
đoạn tận sắc ái, sau khi trừ diệt
nhiệt năo đối với sắc pháp, người này
trú với khát ái được đoạn trừ, với
nội tâm an tịnh.
– Không có ǵ, Tôn giả Gotama.
– Ông nghĩ thế nào ? Này
Magandiya, ở đây, có người trước kia đam
mê các tiếng do tai nhận thức... các hương do
mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận
thức... các xúc do thân nhận thức, các xúc này là khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ
đến dục, hấp dẫn. Người ấy sau
một thời gian, sau khi như chơn biết
được sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của các xúc, sau khi đoạn tận xúc ái, sau
khi trừ diệt nhiệt năo đối với các xúc,
người này trú với khát ái được đoạn
trừ, với nội tâm an tịnh.
– Không có ǵ, Tôn giả Gotama.
–
Ví như, này Magandiya, một gia chủ hay con
một người gia chủ, giàu sang, tài vật nhiều,
sở hữu nhiều, sống thọ hưởng một
cách đầy đủ, một cách sung măn, năm dục
trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận
thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư,
liên hệ đến dục, hấp dẫn, các tiếng do
tai nhận thức... các hương do mũi nhận
thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do
thân nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Vị ấy, sau khi làm thiện thân hành, sau khi làm
thiện khẩu hành, sau khi làm thiện ư hành, khi thân
hoại mạng
– Không có vậy, thưa Tôn giả Gotama
! V́ sao vậy ? V́ thiên
dục, thưa Tôn giả Gotama, là kỳ diệu hơn, là
vi diệu hơn nhân dục.
– Cũng vậy, này Magandiya, Ta thuở
trước, khi c̣n là tại gia. Ta hưởng thụ
một cách đầy đủ, một cách sung măn các
dục trưởng dưỡng các sắc pháp do mắt
nhận thức, các sắc pháp này là khả ái, khả
hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ đến
dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức...
các hương do mũi nhận thức... các vị do
lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức,
các xúc này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả
ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Rồi Ta
sau một thời gian, sau khi chơn biết
được sự tập khởi, sự diệt
trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly của các dục, sau khi đoạn tận dục ái, sau
khi trừ diệt nhiệt năo của các dục, Ta trú
với khát ái được đoạn trừ, với
nội tâm an tịnh.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi; với thân (đầy) những lở lói,
với thân hư thối, nứt chảy, bị các
loại trùng đục khoét, đang cào rách miệng các
vết thương với móng tay, hơ đốt thân ḿnh
trên hố than hừng. Các bạn bè thân hữu, bà con
huyết thống của người ấy mời một
y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa
mổ xẻ này cho người ấy thuốc.
Người ấy dùng thuốc, được khỏi
bệnh cùi, không bệnh, an lạc, tự do, tự
tại, có thể đi chỗ nào người ấy
muốn. Người ấy thấy một người
bị bệnh cùi khác, với thân (đầy) những
lở lói, với thân hư thối, nứt chảy, bị
cái loài trùng đục khoét, đang cào rách miệng các
vết thương với móng tay, hơ đốt thân ḿnh
trên hố than hừng.
– Không, thưa Tôn giả Gotama. V́ sao vậy
?
– Cũng vậy, này Magandiya, Ta thuở
trước, khi c̣n là tại gia, Ta hưởng thụ
một cách đầy đủ, một cách sung măn, các
dục trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt
nhận thức, các sắc pháp này là khả ái, khả hỷ,
khả lạc, khả ư, liên hệ đến dục,
hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các
hương do mũi nhận thức... các vị do
lưỡi nhận thức... các xúc đo thân nhận
thức, các xúc ấy là khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Rồi Ta sau một thời gian, sau khi như
chơn biết được sự tập khởi,
sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của các dục, sau khi đoạn
tận dục ái, sau khi trừ diệt nhiệt năo của
các dục, Ta trú với khát ái được đoạn
trừ, với nội tâm an tịnh.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi, với thân (đầy) những lở lói,
với thân hư thối, nứt chảy, bị các
loại trùng đục khoét, đang cào rách miệng các
vết thương với móng tay, hơ đốt thân ḿnh
trên hố than hừng. Các bạn bè thân hữu, bà con huyết
thống của người ấy mời một y sĩ
khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa mổ
xẻ này cho người ấy thuốc. Người
ấy dùng thuốc được khỏi bệnh cùi, không
bệnh, an lạc, tự do, tự tại, có thể đi
chỗ nào người ấy muốn. Rồi có hai lực
sĩ, nắm chặt (hai) cánh tay
người ấy và lôi kéo người ấy đến
hố than hừng.
–
–
–
– Cũng vậy, này Magandiya, sự xúc chạm
với các dục trong thời quá khứ cũng là đau
khổ, rất là nồng cháy, rất là nhiệt năo, và
sự xúc chạm với các dục trong thời vị lai
cũng là đau khổ, rất là nồng cháy, rất là
nhiệt năo, và sự xúc chạm với các dục trong
thời hiện lại cũng là đau khổ, rất là
nồng cháy, rất là nhiệt năo. Và này Magandiya, những
chúng sanh này chưa đoạn trừ tham ái đối
với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến,
đang bị dục nhiệt năo thiêu đốt, với
các căn bị hư hoại, do sự xúc chạm đau
khổ với các dục, lại có phản tưởng là
được lạc thọ.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi thân (đầy) lở lói, thân bị hư
thối nứt chảy, bị các loài trùng đục khoét,
đang cào rách miệng các vết thương với móng tay, hơ đốt thân ḿnh trên hố than
hừng. Này Magandiya, người bị bệnh cùi với
thân (đầy) lở lói, thân bị hư thối nứt
chảy, bị các loài trùng đục khoét, càng cào rách
miệng các vết thương với các móng tay, càng hơ
đốt thân ḿnh trên hố than hừng chừng nào thời
miệng các vết thương ấy lại càng thêm
bất tịnh, càng thêm hôi thối và càng thêm thối nát, và
người ấy chỉ có cảm giác dễ chịu,
thỏa thích do nhân duyên găi ngứa miệng các vết
thương; cũng vậy, này Magandiya, các chúng sanh, chưa
đoạn trừ tham ái đối với các dục,
đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị
dục nhiệt năo thiêu đốt, chạy theo các dục.
Này Magandiya các chúng sanh, chưa đoạn trừ tham ái
đối với các dục, đang bị các dục ái
nhai nghiến, đang bị dục nhiệt năo thiêu
đốt, càng chạy theo dục chừng nào, thời
dục ái các chúng sanh ấy càng tăng trưởng, càng
bị dục nhiệt năo thiêu đốt, và họ chỉ
có cảm giác dễ chịu, thỏa thích do duyên năm
dục trưởng dưỡng.
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Lành thay, này Magandiya ! Này
Magandiya, Ta cũng không thấy, cũng không nghe một
vị vua hay vị đại thần của vua
hưởng thụ một cách đầy đủ,
một cách sung măn năm dục trưởng dưỡng,
dục ái chưa được đoạn tận,
dục nhiệt năo chưa được trừ diệt,
đă trú, đang trú hay sẽ trú với khát ái
được đoạn trừ, với nội tâm an
tịnh. Nhưng này Magandiya, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn
nào đă sống, đang sống hay sẽ sống với
khát ái được đoạn trừ, với nội tâm
an tịnh, tất cả những vị này, sau khi như
chơn biết sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của các dục ấy, với dục ái
được đoạn tận, với dục nhiệt
năo được trừ diệt, đă trú, đang trú hay
sẽ trú với khát ái được đoạn trừ,
với nội tâm được an tịnh.
Rồi Thế Tôn, thời ấy nói lên cảm
hứng ngữ như sau:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn,
lạc tối thắng,
Bát chánh là
độc đạo,
An ổn và bất
tử.
Khi được nghe vậy, du sĩ Magandiya
bạch Thế Tôn:
– Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Lời này được Tôn giả Gotama khéo nói:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn, lạc tối thắng.
Con cũng vậy, thưa Tôn giả Gotama, con cũng
đă được nghe lời này, do các vị Tôn sư,
đại Tôn sư các du sĩ đă nói:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn,
lạc tối thắng.
Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, lời nói
này lời nói kia phù hợp nhau.
– Nhưng này Magandiya, điều mà Ông đă
được nghe do các vị Tôn sư, đại Tôn
sư các du sĩ đă nói:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn,
lạc tối thắng.
Thế nào là không bệnh ?
Thế nào là Niết-bàn ?
Khi được nói vậy, du sĩ Magandiya,
tự lấy tay xoa bóp chân tay của ḿnh
và nói:
– Thế nào là không bệnh, thưa Tôn giả Gotama ? Thế nào là Niết-bàn, thưa Tôn
giả Gotama ? Tôi nay không
bệnh, an lạc, không có bệnh tật ǵ ở tôi.
– Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù,
không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy
sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc
đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các
v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời.
Người ấy nghe một người có mắt nói
như sau: "Thật tốt đẹp thay tấm
vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh
tịnh". Và người ấy t́m tấm
vải trắng. Rồi có một người khác
đánh lừa người ấy với một tấm y
thô, dính dầu và đất và nói: "Này bạn, đây là
tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế,
thanh tịnh cho bạn". Người
ấy lấy tấm y ấy, sau khi lấy, đắp trên
ḿnh. Sau khi đắp trên ḿnh, người ấy hoan
hỷ thốt lên lời nói tự măn: "Thật tốt
đẹp thay tấm vải trắng xinh đẹp, không
cấu uế, thanh tịnh".
– Thưa Tôn giả Gotama, do không biết, không
thấy, kẻ sanh ra đă mù kia lấy tấm y thô, dính
dầu và đất ấy để rồi sau khi lấy,
người ấy đắp trên ḿnh, sau khi đắp trên
ḿnh, người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói
tự măn: "Thật tốt đẹp thay tấm
vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh
tịnh" là do ḷng tin người có mắt.
– Cũng vậy, này Magandiya, các du sĩ mù ḷa, không
có mắt, không biết không bệnh, không thấy
Niết-bàn nhưng nói lên câu kệ này:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn,
lạc tối thắng.
Này Magandiya, câu kệ này trong thời quá khứ
đă được các bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
nói lên:
Không bệnh,
lợi tối thắng,
Niết-bàn, lạc tối thắng.
Bát chánh là
độc đạo,
An ổn và bất tử.
Và câu kệ ấy này được dần
dần lan tràn đến dân chúng phàm phu.
Nhưng này Magandiya, thân này trở thành bệnh khổ,
trở thành cục bướu, trở thành mũi tên,
trở thành bất hạnh, trở thành bệnh chướng
và với thân trở thành bệnh khổ, trở thành
cục bướu, trở thành mũi tên, trở thành
bất hạnh, trở thành bệnh chướng này, Ông
nói: "Thưa Tôn giả Gotama, cái này là không bệnh
ấy, cái này là Niết-bàn ấy". Như vậy, này
Magandiya, Ông không có Thánh nhăn ấy, với Thánh nhăn ấy Ông
có thể biết không bệnh, có thể thấy
Niết-bàn.
– Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn
giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có
thể biết không bệnh, có thể thấy
Niết-bàn".
– Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù,
không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy
sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc
đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các
v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời. Các
bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của
người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ.
Vị y sĩ khoa mổ xẻ này cho
người ấy thuốc. Người ấy sau khi
dùng thuốc, mắt không khởi lên, mắt không
được sáng tỏ.
– Thưa vâng, Tôn giả Gotama.
Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp
cho Ông: "Đây là không bệnh ấy, đây là
Niết-bàn ấy", và Ông không biết không bệnh, không
biết Niết-bàn thời như vậy làm Ta mệt
mỏi, làm Ta phiền năo.
– Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn
giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có
thể biết không bệnh, có thể thấy
Niết-bàn".
– Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù,
không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy
sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc
đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các
v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời.
Người ấy nghe một người có mắt nói
như sau: "Thật tốt đẹp thay tấm
vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh",
và người ấy đi t́m tấm vải trắng.
Rồi có một người khác đánh lừa
người ấy với một tấm y thô, dính dầu
và đất và nói: "Này bạn, đây là tấm vải
trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh
cho bạn". Người ấy lấy
tấm y ấy. Sau khi lấy, người ấy
đắp trên ḿnh, sau khi đắp trên ḿnh người
ấy, các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống
của người ấy mời một y sĩ khoa mổ
xẻ. Vị y sĩ khao mổ xẻ này cho
người ấy thuốc bài tiết các nhơ bẩn
về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía
dưới, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt,
cho thuốc qua lỗ mũi. Người ấy sau khi
dùng thuốc, mắt được khởi lên, mắt
được sáng tỏ. Với mắt được
khởi lên, người ấy đoạn trừ tham
dục đối với tấm y thô, dính dầu và dính
đất kia, và người ấy có thể xem
người kia là không phải bạn, có thể xem
người kia là thù địch và nghĩ đến sát
hại sinh mạng (của người kia): "Thật
sự trong một thời gian dài, Ta bị người này
lường gạt, lừa dối, phỉnh gạt
với tấm y thô, dính dầu và đất: "Này
bạn, đây là tấm vải trắng, xinh đẹp,
không cấu uế, thanh tịnh cho bạn". Cũng
vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp cho Ông:
"Đây là không bệnh ấy, đây là Niết-bàn
ấy", Ông có thể biết không bệnh, Ông có thể
thấy Niết-bàn. Và với mắt được
khởi lên cho Ông, ḷng tham dục đối với năm
thủ uẩn được đoạn trừ; và Ông có
thể nghĩ như sau: "Thật sự trong một
thời gian dài, ta bị tâm này lường gạt, lừa
dối, phỉnh gạt, chấp thủ sắc, ta đă
chấp thủ, chấp thủ thọ, ta đă chấp
thủ, chấp thủ tưởng, ta đă chấp
thủ, chấp thủ các hành, ta đă chấp thủ,
chấp thủ thức, ta đă chấp thủ. Do duyên
chấp thủ ấy nơi ta, nên có hữu; do duyên
hữu, có sanh; do duyên sanh, có già chết, sầu, bi, khổ,
ưu, năo khởi lên. Như vậy là sự
tập khởi của toàn bộ Khổ uẩn".
– Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn
giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta khiến ta có
thể từ chỗ ngồi này đứng dậy, không
c̣n mù nữa".
– Vậy này Magandiya, hăy thân cận các vị chân
nhân. Này Magandiya, do Ông thân cận các vị chân nhân, thời
này Magandiya, Ông sẽ được nghe diệu pháp. Này
Magandiya, do ngươi được nghe diệu pháp,
thời này Magandiya, Ông sẽ sống đúng với Chánh
pháp và tùy pháp. Này Magandiya, do Ông sống đúng với Chánh
pháp và tùy pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ tự ḿnh
biết, tự ḿnh thấy: "Đây là những bệnh
chướng, những cục bướu, những mũi
tên. Ở đây, những bệnh
chướng, những cục bướu, những mũi
tên được trừ diệt, không có dư tàn. Do
chấp thủ được diệt ở ta, nên hữu
diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh diệt, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo được
diệt trừ. Như vậy là sự
đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này".
Khi được nghe nói vậy, du sĩ Magandiya
bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng
đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống,
phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho kẻ lạc hướng, đem
đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp
đă được các Tôn giả Gotama dùng nhiều
phương tiện tŕnh bày giải thích. Nay con xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Con xin
xuất gia với Tôn giả Gotama, con xin thọ đại
giới.
–
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu những
người xưa kia là ngoại đạo, nay muốn
xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và
luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi
sống bốn tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu
đồng ư sẽ cho xuất gia, cho thọ đại
giới; thời con sẽ xin sống biệt trú bốn
năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu các
Tỷ-kheo đồng ư, hăy cho con xuất gia, hăy cho con
thọ đại giới để thành Tỷ-kheo.
Và du sĩ Magandiya được
xuất gia với
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Kosambi (Kiều-thưởng-di), tại tu viện Ghosita
(Cù-sư-la). Lúc bấy
giờ, du sĩ Sandaka trú ở hang Pilakka với đại
chúng du sĩ, khoảng độ năm trăm du sĩ.
Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy, và nói
với các Tỷ-kheo:
– Chư Hiền, chúng ta hăy đi đến
Devakatasobbha để xem hang.
– Thưa vâng, Hiền giả.
–
Rồi các du sĩ ấy đều
im lặng. Tôn
giả Ananda đến chỗ du sĩ Sandaka. Du sĩ
Sandaka thưa với Tôn giả Ananda:
– Hăy đến, Tôn giả Ananda !
Thiện lai, Tôn giả Ananda ! Đă lâu Tôn giả Ananda mới tạo cơ
hội này, nghĩa là đến đây. Tôn
giả Ananda hăy ngồi, đây là chỗ ngồi đă
soạn sẵn.
Tôn giả Ananda ngồi trên chỗ
đă soạn sẵn. Du sĩ Sandaka lấy một
ghế thấp khác rồi ngồi xuống một bên.
Tôn giả Ananda nói với du sĩ Sandaka đang ngồi
một bên:
–
– Tôn giả Ananda, hăy gác một bên vấn
đề chúng tôi đang hội họp bàn luận. Lát nữa Tôn giả Ananda nghe lại cũng không
khó khăn ǵ. Lành thay, nếu
được Tôn giả Ananda thuyết cho pháp thoại
vị Đạo sư của ḿnh.
– Vậy này Sandaka, hăy nghe và khéo tác ư, tôi sẽ
giảng:
– Thưa vâng, Tôn giả.
Du sĩ Sandaka vâng đáp Tôn giả
Ananda. Tôn giả Ananda
nói như sau:
– Này Sandaka, bốn pháp phi phạm hạnh trú này,
do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và bốn pháp
bất an phạm hạnh cũng được tuyên
bố. Ở đây, người có trí không
thể tự ḿnh sống Phạm hạnh và nếu
sống, thời không thể thành đạt (chánh)
đạo, pháp và (chí) thiện.
– Tôn giả Ananda, bốn pháp phi phạm hạnh
trú do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và ở đây
người có trí không thể tự ḿnh sống Phạm
hạnh, và nếu sống, thời không thể thành
đạt (chánh) đạo, pháp và (chí) thiện; bốn
pháp phi phạm hạnh trú ấy là ǵ ?
– Ở đây, này Sandaka, có vị Đạo
sư có thuyết lư như sau, có quan điểm như sau:
"Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế
tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện
ác, không có đời này, không có đời khác, không có
mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời
không có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh
hạnh, sau khi đă tự ḿnh giác ngộ với thắng
trí tuyên bố về đời này và đời sau. Con
người này do bốn đại họp thành, khi
mệnh
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư
như sau: "Vị Tôn sư này, thuyết lư như
vầy, quan điểm như vầy: "Không có bố
thí, không có lễ hy sinh... (như trên)... Không c̣n tồn tại sau khi chết".
Nếu vị Tôn sư này nói đúng sự thật,
thời cái ǵ đă làm ở đây không phải ta làm, cái ǵ
được sống ở đây không phải ta
sống, nhưng cả hai chúng ta ở đây đều
đồng đẳng khi chứng Sa-môn quả, và ta không
có nói: "Cả hai chúng ta, sau khi thân hoại mạng chung,
sẽ bị đoạn diệt, tiêu thất, sẽ không
hiện hữu sau khi chết". Thật sự là quá
độ hạnh lơa thể, trọc đầu, tinh
tấn ngồi chỏ hỏ, nhổ lông tóc của vị
Tôn sư này; trong khi ta sống trong gia đ́nh
được con cái bao bọc đoanh vây, thọ dụng
chiên-đàn Kasi, mang dùng ṿng hoa, hương liệu phấn
sáp, hưởng thọ vàng bạc, và trong đời sau ta
sẽ đồng đẳng với vị Tôn sư này
về chỗ thọ sanh. Như vậy, ta biết ǵ,
thấy ǵ mà ta sẽ sống Phạm hạnh dưới
vị Đạo sư này ?" Vị ấy sau khi biết phi phạm hạnh trú
này, yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Như
vậy, này Sandaka là phi phạm hạnh trú thứ nhất,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố và
ở đây người có trí không thể tự ḿnh
sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không
thể thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư có thuyết lư như sau, có quan điểm
như sau: "Tự làm hay khiến người làm, chém
giết hay khiến người chém giết, đốt
nấu hay khiến người đốt nấu, gây
phiền muộn, hay khiến người gây phiền
muộn, gây áo năo hay khiến người gây áo năo, tự
ḿnh gây sợ hăi hay khiến người gây sợ hăi, sát
sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp
đoạt, đánh cướp một nhà lẻ loi,
chận đường cướp giựt, tư thông
vợ người, nói láo, hành động như vậy
không có tội ác. Nếu lấy một bánh xe
sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cơi
đất này, làm thành một đống thịt, thành
một chồng thịt, cũng không v́ vậy mà có tội
ác, gây ra tội ác. Nếu đi trên bờ phía Nam sông
Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến
người chém giết, đốt nấu, khiến
người đốt nấu, cũng không v́ vậy có
tội ác, gây ra tội ác. Nếu đi trên
bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến
người bố thí, tế lễ, khiến người
tế lễ, cũng không v́ vậy có phước báo,
tạo nên phước báo. Bố thí,
tự điều phục, tự chế ngự, nói
thật không có công đức, không tạo nên công
đức".
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư
như sau: "Vị Tôn sư này, có thuyết lư như
vầy, có quan điểm như vầy: "Tự làm,
khiến người làm... (như trên)... không
tạo nên công đức". Nếu vị Tôn sư
này nói đúng sự thật, thời cái ǵ đă làm ở
đây không phải ta làm, cái ǵ được sống
ở đây không phải ta sống; nhưng cả hai chúng
ta ở đây đều đồng đẳng khi
chứng Sa-môn quả, và ta không có nói: "Hành động
cả hai (chúng ta) không tạo ra tội ác". Thật
sự là quá độ... (như trên)... mà ta sẽ sống
Phạm hạnh dưới vị Đạo sư này ?" Vị ấy sau khi
biết phi phạm hạnh trú này, yểm ly hạnh ấy
và bỏ đi. Như vậy, này Sandaka là phi phạm
hạnh trú thứ hai, được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
đă tuyên bố và ở đây người có trí không
thể tự ḿnh sống theo hạnh ấy, và nếu
sống, thời không thể thành đạt (chánh)
đạo, pháp và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây, có vị
Đạo sư có thuyết lư như vậy, có quan
điểm như vầy: "Không có nhân, không có duyên, các
loài hữu t́nh bị nhiễm ô; không có nhân, không có duyên, các
loài hữu t́nh sẽ bị nhiễm ô. Không có nhân, không có
duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh, không
nhân không duyên, các loài hữu t́nh sẽ được thanh
tịnh. Không có lực, không có tinh tấn,
không có nhân lực, không có cố gắng của
người. Tất cả loài hữu
t́nh, tất cả chúng sanh, tất cả sanh loại,
tất cả sinh mạng đều không tự tại,
không lực, không tinh tấn. Họ
bị dắt dẫn chi phối bởi định
mệnh, bởi sự trùng hợp, bởi tự tánh.
Họ hưởng thọ khổ lạc,
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư
như sau: "Vị Tôn sư này có thuyết lư như
vầy, có quan điểm như vầy: "Không có nhân,
không có duyên... (như trên)... họ hưởng thọ
khổ lạc,
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư có thuyết lư như vầy, có quan
điểm như vầy: "Có bảy thân này không bị
làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo,
không sanh sản, thường tại như đảnh núi,
đứng thẳng như trụ đá. Chúng
bất động, không chuyển biến, không xâm hại
nhau. Chúng không thể ảnh hưởng đến
lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và
lạc. Thế nào là bảy ? Địa
thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc, và
thứ bảy là mạn. Bảy thân này không
bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng
tạo, không sanh sản, thường tại như
đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá.
Chúng bất động, không chuyển
biến, không xâm hại nhau. Chúng không thể ảnh
hưởng đến lạc hay khổ với nhau,
hoặc cả khổ và lạc. Ở đây, không có
người giết hại hoặc người bị
giết hại, người nghe hoặc người nói,
người biết hoặc người khiến cho
biết, khi có một ai dùng lưỡi kiếm sắc bén
chém đầu, thời không ai tước đoạt sanh
mạng của ai cả, lưỡi kiếm chỉ rơi
vào giữa bảy thân mà thôi. Có tất cả
là 14 trăm ngàn chủng loại thác sanh, lại có thêm 60
một trăm và 6 một trăm. Có 5 một trăm
loại nghiệp và có 5 nghiệp (theo 5 căn), lại có 3
nghiệp (về thân, khẩu, ư), lại có toàn nghiệp (thân
và khẩu), bán nghiệp (ư), có 62 đạo, 62 trung
kiếp, 6 giai cấp, 8 nhân địa; 4900 sanh nghiệp,
4900 kẻ du hành, 4900 chỗ ở của loài Naga, 2000
căn, 3000 cảnh địa ngục, 36 trần giới,
7 tưởng thai, 7 vô tưởng thai, 7 tiết thai (sanh
từ đốt, hay ly hệ thai ?) 7 loài Thiên, 7 loài
Người, 7 loài Quỷ, 7 hồ nước, 7 pavutas (núi
hay hồ nhỏ), 7000 pavutas, 700 papatas (vực thẳm), 7
mộng, 700 mộng có 8.400.000 đại kiếp, trong
thời gian ấy kẻ ngu và người trí, sau khi lưu
chuyển, luân hồi, sẽ trừ tận khổ đau.
Không có lời nguyện: "Với giới này, với
giới cấm này, với khổ hạnh này, hay với
Phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín muồi những
nghiệp chưa được thuần thục, hoặc
trừ diệt những nghiệp đă được
thuần thục, bởi những nhẫn thọ liên
tục không thể đo lường, khổ và lạc
với những vật đo lường, trong luân hồi
không có tăng giảm, không có cao thấp. Ví như cuộn
chỉ được
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư
như sau: "Vị Tôn sư này có lư thuyết như
vầy, có quan điểm như vầy: "Có bảy thân
này... (như trên)... sẽ chấm dứt
khổ đau". Nếu vị Tôn sư này nói
đúng sự thật, thời cái ǵ đă làm ở đây
không phải ta làm, cái ǵ được sống ở
đây không phải ta sống, nhưng cả hai chúng ta
ở đây đều đồng đẳng khi chứng
Sa-môn quả, và ta không có nói: "Cả hai chúng tôi, sau khi
lưu chuyển luân hồi sẽ chấm dứt khổ
đau". Thật sự là quá độ hạnh lơa
thể, trọc đầu, tinh tấn ngồi chỏ
hỏ, nhổ lông tóc của vị Tôn sư này, trong khi ta
sống trong gia đ́nh, được con cái bao bọc
đoanh vây, thọ dụng chiên-đàn Kasi, mang dùng ṿng hoa,
hương liệu, phấn sáp, hưởng thọ vàng
bạc, và trong đời sau ta sẽ đồng
đẳng với vị Tôn sư này về chỗ thọ
sanh. Như vậy ta biết ǵ, ta thấy ǵ mà ta sẽ
sống
Này Sandaka, bốn phi phạm hạnh trú này
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và
ở đây, người có trí không thể tự ḿnh
sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không
thể thành đạt (chánh) lư, pháp, và (chí) thiện.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ananda
! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda !
Bốn phi phạm hạnh trú này đă được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bấc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố là phi phạm
hạnh trú, và ở đây, người có trí không thể
tự ḿnh sống theo hạnh ấy, và nếu sống,
thời không thể thành đạt (chánh) lư, pháp, và (chí)
thiện. Tôn giả Ananda, thế nào là bốn pháp bất an
phạm hạnh được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
tuyên bố, và ở đây người có trí không thể
tự ḿnh sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời
không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và (chí)
thiện ?
Ở đây, này Sandaka, có bậc Đạo sư
nhứt thiết tri nhứt thiết kiến, tự xem
đă chứng được tri kiến hoàn toàn: "Khi ta
đi, ta đứng, ta ngủ và ta thức, tri, kiến
được an trú ở trong ta, liên
tục, không gián đoạn". Vị ấy đi vào
một nhà trống, không nhận được đồ
ăn khất thực, và con chó cắn vị ấy, vị
ấy gặp voi dữ, gặp người dữ, gặp
ḅ dữ, và vị ấy hỏi tên và họ một
người đàn bà, một người đàn ông, và
hỏi tên những con đường của làng, của
trị trấn. Vị ấy được hỏi:
"Sao như thế này ?", và trả
lời: "Ta phải vào một nhà trống, do vậy ta
đă vào; ta phải không nhận được đồ
ăn khất thực, do vậy ta đă không nhận
được đồ ăn khất thực. (Có
người) phải bị chó cắn, do vậy ta đă
bị chó cắn. (Có người) phải gặp voi
dữ, do vậy ta đă gặp; phải gặp ngựa
dữ, do vậy ta đă gặp, phải gặp ḅ dữ,
do vậy ta đă gặp. Có người phải hỏi tên
và họ một người đàn bà, một người
đàn ông, do vậy ta đă hỏi. (Có người)
phải hỏi tên những con đường của làng,
của thị trấn, do vậy ta đă hỏi".
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư như
sau: "Vị Tôn sư này là nhất thiết tri, nhứt
thiết kiến... (như trên)... do vậy ta đă
hỏi". Vị ấy sau khi biết: "Hạnh này là
bất an", nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi.
Này Sandaka, đây là Bất an phạm hạnh thứ nhất,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và
ở đây người có trí không thể tự ḿnh
sống theo hạnh ấy, và nếu sống thời không
thể thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí)
thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây, có vị
Đạo sư y cứ truyền thuyết, (xem) truyền
thuyết là chân thật, vị này thuyết pháp
Lại nữa, này Sandaka, ở
đây có vị Đạo sư là nhà lư luận, là nhà suy
luận. Do sự
đả phá của lư luận và y cứ
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư là người đần độn, là
người ngu si. V́ đần
độn ngu si, khi được
hỏi về vấn đề này, vấn đề khác,
vị ấy dùng những lời ngụy biện
trườn uốn như con lươn: "
Này Sandaka, bốn bất an phạm hạnh này
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và
ở đây người có trí không thể tự ḿnh
sống theo hạnh ấy, và nếu sống th́ không
thể thành đạt (chánh) lư, pháp và (chí) thiện.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ananda
! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda !
Bốn pháp bất an phạm hạnh này đă
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố là
bất an phạm hạnh, và ở đây người trí
không thể tự ḿnh sống theo hạnh ấy, và nếu
sống th́ không thể thành đạt (chánh) lư, pháp, và (chí)
thiện. Thưa Tôn giả Ananda, vị Đạo sư
ấy dạy những ǵ, tuyên bố những ǵ, mà ở
đây, người có trí có thể tự ḿnh sống
Phạm hạnh, và khi sống, có thể thành đạt
(chánh) lư, pháp, và (chí) thiện ?
– Ở đây, này Sandaka, Như Lai xuất
hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thưởng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng
tự chứng ngộ với thượng trí... lại
tuyên thuyết điều Ngài đă chứng ngộ... Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ thanh tịnh. Người gia
trưởng hay con người gia trưởng, hay một
người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp
ấy... (như
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong
sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyễn,
dễ sử dụng, vững chắc bất động
như vậy, vị ấy, hướng tâm đến túc
mạng trí. Vị ấy nhớ đến
các đời sống quá khứ, như một đời,
hai đời... như vậy, vị ấy nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng
với các nét đại cương và các chi tiết.
Này Sandaka, nếu một đệ tử chiếm
được ưu thắng đặc thù như vậy
dưới một vị Đạo sư... (như trên)... (chánh) lư, pháp,
và (chí) thiện. Với tâm định tĩnh, thanh
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu
nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất
động như vậy, vị ấy hướng tâm
đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người
hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ
bất hạnh... đều do hạnh nghiệp của
họ. Này Sandaka nếu một đệ tử chứng
được ưu thắng đặc thù như vậy
dưới một vị Đạo sư... (như trên)... (chánh)
đạo, pháp và (chí) thiện. Với tâm định
tĩnh thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền năo, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy
như thật biết: "Đây là Khổ"... vị
ấy như thật biết: "Đây là con
đường đưa đến lậu hoặc
diệt". Vị ấy do biết vậy, do thấy
vậy, tâm được giải thoát khỏi dục
lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu
lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh
lậu. Đối với tự thân đă giải thoát
như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta
đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh
đă diệt, Phạm hạnh đă thành, việc cần
làm đă làm; sau đời hiện tại, không có
đời sống nào khác nữa". Này Sandaka, nếu
một đệ tử chứng được ưu
thắng đặc thù như vậy dưới một
Đạo sư nào, thời ở đây người có trí
có thể tự ḿnh sống Phạm hạnh, và khi sống
có thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và (chí)
thiện.
– Nhưng, thưa Tôn giả Ananda, một
Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đă tận, tu
hành thành măn, các việc nên làm đă làm, đă đặt gánh
nặng xuống, đă thành đạt lư tưởng,
đă tận trừ hữu kiết sử, đă giải
thoát nhờ chánh trí, vị Tỷ-kheo ấy có thể
thọ dụng các dục vọng không ?
– Này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán,
các lậu đă tận, tu hành thành măn, các việc nên làm
đă làm, đă đặt gánh nặng xuống, đă thành
đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, đă giải thoát nhờ chánh trí, vị
ấy không thể vi phạm năm điều: Vị
Tỷ-kheo, các lậu đă tận không có thể cố ư
sát hại mạng sống chúng sanh; vị Tỷ-kheo các
lậu đă tận không có thể lấy của không cho, được
gọi là ăn trộm; vị Tỷ-kheo các lậu đă
tận không có thể hành dâm dục; vị Tỷ-kheo các
lậu đă tận không có thể cố ư nói láo; vị
Tỷ-kheo các lậu đă tận không có thể
hưởng thọ các dục đối với các vật
được tàng trữ như trước khi c̣n tại
gia. Này Sandaka, một vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán,
các lậu đă tận, tu hành thành măn, các việc nên làm
đă làm, đă đặt gánh nặng xuống, đă thành
đạt lư tưởng, đă tận trừ hữu
kiết sử, đă giải thoát nhờ chánh trí, vị
ấy không có thể vi phạm năm điều này.
– Thưa Tôn giả Ananda, vị Tỷ-kheo nào là
bậc A-la-hán, các lậu đă tận, tu hành thành măn, các
việc nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt lư tưởng, đă
tận trừ hữu kiết sử, đă giải thoát
nhờ chánh trí, khi vị ấy đi, đứng, ngủ
và thức, có phải tri kiến vị ấy
được an trú một cách liên tục, không gián
đoạn: "Các lậu hoặc của ta đă
được đoạn tận" ?
– Này Sandaka, tôi sẽ cho Ông một ví dụ,
nhờ ví dụ ở đây, một số người có
trí sẽ biết ư nghĩa câu nói. Ví như, này Sandaka,
một người tay chân bị chặt; khi người
ấy đi, đứng, ngủ và thức, tay chân bị
chặt một cách liên tục, không gián đoạn, và khi
người ấy suy tư về vấn đề này,
người ấy biết: "Tay chân của ta bị
chặt". Cũng vậy, này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào
là bậc A-la-hán, các lậu đă tận, tu hành thành măn, các
việc nên làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt lư tưởng, đă
tận trừ hữu kiết sử, đă giải thoát
nhờ chánh trí, khi vị ấy đi, đứng, ngủ
và thức, các lậu hoặc được đoạn
tận một cách liên tục, không gián đoạn, và khi
vị ấy suy tư về vấn đề này, vị
ấy biết: "Các lậu hoặc ta đă
được đoạn tận".
– Nhưng thưa Tôn giả Ananda, có bao nhiêu vị
lănh đạo tối thắng trong pháp và luật này ?
– Này Sandaka, không phải chỉ có một trăm,
hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, mà c̣n
nhiều vị lănh đạo tối thắng hơn
nữa trong pháp và luật này.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ananda
! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda !
Không có sự tự tán pháp của ḿnh, không có
sự hủy báng pháp của người khác, nhưng
cả hai sự thuyết pháp với các hành tŕ (ayatane) và
rất nhiều vị lănh đạo tối thắng
như vậy đă được thấy (ở đây).
C̣n các tà mạn ngoại đạo này là những
đứa con của người mẹ không con, họ
tự tán khen ḿnh chê người, và họ chỉ có ba
vị lănh đạo tối thắng, tức là Nanda Vaccha,
Kisa Sankicca và Makkhali Gosala.
Rồi du sĩ Sandaka nói với đồ chúng
của ḿnh:
– Chư Tôn giả, hăy đi và sống Phạm
hạnh dưới Sa-môn Gotama, tuy rằng nay không có dễ
ǵ cho chúng ta từ bỏ quyền lợi, tôn kính và danh
tiếng.
Như vậy du sĩ Sandaka đă
đưa đồ chúng của ḿnh sống Phạm
hạnh dưới Sa-môn Gotama.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (
Lúc bấy giờ du sĩ Sakuludayi đang ngồi
cùng với đại chúng du sĩ, đang lớn
tiếng, cao tiếng, to tiếng, bàn luận nhiều
vấn đề phù phiếm như vương luận,
tặc luận, đại thần luận, binh luận,
bố úy luận, chiến đấu luận, thực
luận, ẩm luận, y luận, sàng luân, hoa man luận,
hương liệu luận, thân tộc luận, xa thừa
luận, thôn luận, trấn luận, thị luận,
quốc độ luận, phụ nữ luận, anh hùng
luận, câu chuyện bên lề đường, câu
chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện
về người đă chết, tạp thoại luận,
thế giới luận, hải dương luận,
hiện hữu, vô hiện hữu luận. Du sĩ Sakuludayi
thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy
vậy liền khuyến cáo chúng của ḿnh:
–
Các du sĩ ấy đều im
lặng.
–
–
– Bạch Thế Tôn, hăy gác một bên vấn
đề chúng tôi đang hội họp bàn luận. Về
sau
Có một số người đă nói như sau:
"Vị Makkhali Gosala này... (như
trên)... Ajita Kesakambali... Pukudha Kaccayana... Sanjaya Belatthiputta...
Vị Nigantha Nataputta này là bậc lănh đạo hội
chúng, bậc lănh đạo đồ chúng, bậc sư
trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ
sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng. Vị ấy không được các đệ
tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường.
Và các đệ tử sau khi cung kính, tôn
trọng đă không sống nương tựa
Có một số người nói như sau:
"Sa-môn Gotama này là bậc lănh đạo hội chúng,
bậc lănh đạo đồ chúng, bậc sư
trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ
sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng. Và vị này được các đệ tử
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường. Và các đệ tử sau khi cung kính tôn trọng,
sống nương tựa Sa-môn Gotama. Thuở
xưa, Sa-môn Gotama đang thuyết pháp cho hội chúng hàng
trăm người. Ở đây,
một đệ tử của Sa-môn Gotama ho (thành
tiếng). Một vị đồng Phạm hạnh
dùng đầu gối đập (nhẹ) vào người
ấy và nói: "Tôn giả hăy lặng tiếng
! Tôn giả chớ có làm ồn !
– Này Udayi, Ông thấy nơi ta có bao nhiêu pháp mà do
các pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính tôn trọng,
sống nương tựa vào Ta ?
– Bạch Thế Tôn, con thấy nơi Thế Tôn
có năm pháp mà do năm pháp này, các đệ tử cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi
cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Thế
Tôn. Thế nào là năm ?
Bạch Thế Tôn,
Lại nữa, bạch
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
biết đủ với bất cứ món ăn khất
thực nào và tán thán hạnh biết đủ với
bất cứ món ăn khất thực nào. Bạch Thế
Tôn,
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
biết đủ với bất cứ sàng tọa nào và tán
thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng
tọa nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ
với bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh
biết đủ với bất cứ sàng tọa nào. Chính pháp này, bạch
Lại nữa, bạch
Chính năm pháp này, bạch Thế Tôn, con thấy
nơi Thế Tôn. Do năm pháp này, các đệ tử cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và
sau khi cung kính, tôn trọng sống nương tựa vào
Thế Tôn.
– "Sa-môn Gotama ăn ít và tán thán hạnh ăn
ít"; này Udayi, nếu v́ vậy các đệ tử cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung
kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời
này Udayi, có những đệ tử của Ta chỉ ăn
với một bát (kosa), chỉ ăn với nửa bát,
chỉ ăn với trái cây veluva, chỉ ăn với
nửa trái cây veluva, và này Udayi. C̣n Ta, có khi Ta ăn hơn
một b́nh bát này, có khi Ta ăn nhiều hơn như
vậy nữa. "Sa-môn Gotama ăn ít và tán thán hạnh
ăn ít"; này Udayi, nếu v́ vậy các đệ tử
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi
tôn trọng, cung kính sống nương tựa vào Ta,
thời này Udayi, những đệ tử ấy của Ta,
sống nương tựa vào Ta chỉ ăn với
một bát, chỉ ăn với nửa bát, chỉ ăn
với trái cây veluva, chỉ ăn với nửa trái cây
veluva; những vị ấy v́ pháp hạnh này đáng lẽ
không cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và
đáng lẽ không tôn trọng cung kính không sống
nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với
bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết
đủ với bất cứ loại y nào"; này Udayi,
nếu v́ vậy các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có
những đệ tử của Ta sống mặc phấn
tảo y, mặc thô y. Những vị ấy lượm
từng mảnh vải từ băi tha ma, hay từng
đống rác, hay từ tiệm phố, và sau khi làm thành áo
sanghati (tăng-già-lê), họ mang loại áo ấy. C̣n Ta, này
Udayi, có khi Ta mặc vải y của cư sĩ cúng
dường, các chỗ sờn mỏng được
bện chắc lại với dây tơ cây bí trắng.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất
cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ
với bất cứ loại y nào"; này Udayi, nếu v́
vậy các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta và sau khi tôn trọng cung kính,
sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, những
vị đệ tử ấy của Ta, sống mặc
phấn tảo y, mặc thô y. Những vị ấy
lượm từng mảnh vải từ băi tha ma, hay
từ đống rác, hay từ tiệm phố, và sau khi làm
thành áo sanghati, họ mang loại áo ấy; những vị
ấy v́ pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ
không cung kính, tôn trọng, không sống nương tựa
vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với
bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh
biết đủ với bất cứ món ăn khất
thực nào", nếu v́ vậy, này Udayi, các đệ
tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và
sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta,
thời này Udayi, có những đệ tử của Ta
chỉ ăn những món ăn nhận trong b́nh bát khất
thực, chỉ đi khất thực từng nhà một
(không bỏ sót nhà nào); tự thỏa măn với những món
ăn mảy mún, khi đi vào trong nhà, dầu
được mời ngồi, cũng không chấp
nhận. C̣n Ta, này Udayi, đôi khi Ta nhận ăn những
chỗ được mời, nhận ăn các thứ
gạo, cháo trong ấy các hạt đen được
vứt bỏ, các loại canh, các loại trợ vị.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất
cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh
biết đủ với bất cứ món ăn khất thực
nào"; này Udayi nếu v́ vậy, các đệ tử
của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa
vào Ta, thời này Udayi, những vị đệ tử
ấy của Ta, chỉ ăn những món ăn nhận
trong b́nh bát khất thực, chỉ đi khất thực từng
nhà một, tự thỏa măn với những món ăn
mảy mún, khi đi vào trong nhà, dầu được
mời ngồi cũng không chấp nhận; những
vị ấy v́ pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và đáng lẽ
không cung kính, tôn trọng, không sống nương tựa
vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ và
bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh biết
đủ với bất cứ sàng tọa nào"; nếu
v́ vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có
những đệ tử của Ta sống dưới
gốc cây, sống ở ngoài trời. Những
vị ấy trong tám tháng không sống dưới mái che nào.
C̣n ta, này Udayi, có đôi khi Ta sống
dưới những ngôi lầu có gác nhọn, có tô vôi trong
và ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại
và có các cửa sổ khép kín. "Sa-môn Gotama sống
biết đủ với bất cứ sàng tọa nào và tán
thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng
tọa nào" và nếu v́ vậy, này Udayi, các đệ
tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta,
và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào
Ta, thời này Udayi, các vị đệ tử ấy
của Ta, sống dưới gốc cây, sống ở
ngoài trời, trong tám tháng không sống dưới mái che nào;
những vị ấy v́ pháp (hạnh) này đáng lẽ không
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và
đáng lẽ không cung kính tôn trọng, không sống
nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama là vị sống viễn ly và tán
thán hạnh viễn ly"; này Udayi, nếu v́ vậy các
đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng
dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có những
đệ tử của Ta sống trong rừng núi, tại
các trú xứ xa vắng. Sau khi đi sâu vào trong
rừng núi, trong các trú xứ xa vắng, sống tại các
chỗ ấy, và nửa tháng một lần mới trở
về giữa Tăng chúng để tụng đọc
Giới bổn.
Như vậy, này Udayi, các đệ tử
của Ta do năm pháp này không cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường Ta và không cung kính, tôn trọng, không
sống nương tựa vào Ta.
Này Udayi, lại có năm pháp khác, do năm pháp này,
các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa (vào Ta). Thế nào là năm ?
Ở đây, này Udayi, các đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng giới: "Sa-môn Gotama
là vị có giới hạnh và thành tựu giới uẩn
tối thượng". Này Udayi, chính đệ tử
của Ta thán phục Tăng thượng giới, nghĩ
rằng: "Sa-môn Gotama là vị có giới hạnh và thành
tựu giới uẩn tối thượng", đây là
pháp thứ nhất, này Udayi, các đệ tử của Ta
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi
cung kính , tôn trọng, sống
nương tựa vào Ta.
Lại nữa, này Udayi, các đệ tử
của Ta thán phục tri kiến vi
diệu. Khi nói: "Ta biết", nghĩa là Sa-môn Gotama có
biết. Khi nói: "Ta thấy", nghĩa là Sa-môn Gotama có
thấy. Sa-môn Gotama thuyết pháp với
thắng trí, không phải không với thắng trí. Sa-môn Gotama thuyết pháp có nhơn duyên, không
phải không có nhơn duyên. Sa-môn Gotama
thuyết pháp có thần thông lực (Sappatihariyam), không
phải không có thần thông lực.
Lại nữa, này Udayi, đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng trí tuệ và sự
kiện này không thể xảy ra khi họ nghĩ rằng:
"Sa-môn Gotama là vị có trí tuệ và thành tựu tuệ
uẩn tối thượng. (Tuy vậy) Ngài
không thấy trước một luận đạo nào
ở tương lai, hay một luận nạn ngoại
đạo nào khởi lên (trong hiện tại) mà Ngài không
luận phá sau khi khéo léo nạn phá với Chánh pháp".
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Udayi, Ta không chờ đợi sự giáo
giới từ nơi những đệ tử của Ta. Trái lại, chính những đệ tử của
Ta chờ đợi sự giáo giới từ nơi Ta.
Do vậy, này Udayi, sự kiện này không thể xảy ra
khi các đệ tử của Ta thán phục Tăng
thượng trí tuệ và suy nghĩ: "Sa-môn Gotama là
bậc có trí tuệ và thành tựu tuệ uẩn tối
thắng. (Tuy vậy) Ngài không thấy
(trước) một luận đạo nào ở
tương lai, hay một luận nạn ngoại
đạo nào khởi lên (trong hiện tại) mà Ngài không
luận phá, sau khi khéo léo nạn phá với chánh pháp".
Đây là pháp thứ ba, này Udayi, mà các đệ tử
của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa
vào Ta.
Lại nữa, này Udayi, những đệ tử
của Ta bị đắm ch́m trong đau khổ, bị
đau khổ chi phối, đến Ta và hỏi về
khổ Thánh đế. Được hỏi
về
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, tu tập Bốn Chánh
cần. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo với
mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ
trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ư
muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, tŕ tâm; với
mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đă
sanh ra được trừ diệt, khởi lên ư muốn
cố gắng, tinh tấn, sách tâm, tŕ tâm; với mục
đích khiến cho các thiện pháp từ trước
chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi lên ư muốn cố
gắng; tinh tấn, sách tâm, tŕ tâm; với mục đích
khiến cho các thiện pháp đă được sanh có
thể duy tŕ, không có mù mờ, được tăng
trưởng, được quảng đại,
được tu tập, được viên măn, khởi
lên ư muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, tŕ tâm... Và
ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí và chứng đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ theo đường tu hành này tu tập Năm Căn.
Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín căn
hướng đến an tịnh, đưa đến
giác ngộ, tu tập tinh tấn căn... tu tập niệm
căn... tu tập định căn... tu tập tuệ
căn, hướng đến an tịnh, đưa
đến giác ngộ. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc
cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ theo đường tu hành này, tu tập Năm
Lực. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín
lực, hướng đến an tịnh, đưa
đến giác ngộ, tu tập tinh tấn lực... tu
tập niệm lực... tu tập định lực...tu
tập tuệ lực, hướng đến an tịnh,
đưa đến giác ngộ. Ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc
cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, tu tập Bảy Giác
chi. Ở đây, này các Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập
niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y
chỉ diệt, hướng đến xả, tu tập
trạch pháp giác chi... tu tập tinh
tấn giác chi... tu tập hỷ giác
chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi, tu tập xả
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ
diệt, hướng đến xả. Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau
khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng
đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, tu tập Thánh
đạo Tám ngành. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo
tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập
chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập chánh
mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu tập chánh niệm,
tu tập chánh định. Và ở đây, này Udayi, các
vị đệ tử của Ta phần đông an trú, sau
khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng
đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này tu tập Tám Giải
thoát. "Tự ḿnh có sắc, thấy các
sắc", đó là giải thoát thứ nhất. "Quán tưởng nội sắc, thấy các
ngoại sắc", đó là giải thoát thứ hai.
"Quán tưởng (sắc là) tịnh,,
chú tâm trên suy tưởng ấy", đó là giải thoát
thứ ba. Vượt hoàn toàn sắc tưởng, diệt
trừ các tưởng đối ngại, không suy tư
đến những tưởng khác biệt, với suy
tư "Hư không là vô biên", chứng và trú "Không vô
biên xứ", đó là giải thoát thứ tư.
Vượt hoàn toàn Hư không vô biên xứ, với suy tư
"Thức là vô biên", chứng và trú "Thức vô biên
xứ", đó là giải thoát thứ năm. Vượt
hoàn toàn "Thức vô biên xứ", với suy tư
"không có vật ǵ", chứng và trú "Vô sở
hữu xứ", đó là giải thoát thứ sáu. Vượt hoàn toàn Vô sở hữu xứ,
chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
đó là giải thoát thứ bảy. Vượt
hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát
thứ tám. Và ở đây, này Udayi, các đệ
tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu
cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này tu tập Tám Thắng
xứ. Một vị quán tưởng nội
sắc, thấy các loại ngoại sắc, có hạn
lượng, đẹp, xấu. Vị
ấy nhận thức rằng. "Sau
khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó
là thắng xứ thứ nhất. Một
vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại
ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ hai. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu.
Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ ba. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ tư. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, h́nh sắc xanh, ánh
sáng xanh... như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, h́nh sắc
xanh, ánh sáng xanh... như lụa Ba la nại, cả hai
mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, h́nh sắc xanh,
ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô
sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại
sắc màu xanh, sắc màu xanh, h́nh sắc xanh, ánh sáng xanh.
Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta thấy, ta biết", đó là thắng
xứ thứ năm. Một vị quán tưởng vô
sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại
sắc màu vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng... như bông
Kanikara màu vàng, sắc màu vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng...
như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu
vàng, sắc màu vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy
vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm,
thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng,
h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ sáu. Một
vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu
đỏ, h́nh sắc màu đỏ, ánh sáng đỏ...
như bông Bandhujivaka màu đỏ, sắc màu đỏ, h́nh
sắc đỏ, ánh sáng đỏ... như lụa sa Ba la
nại, cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc
màu đỏ, h́nh sắc đỏ, ánh sáng đỏ.
Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở
nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu
đỏ, sắc màu đỏ, h́nh sắc đỏ, ánh
sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ bảy.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm,
thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu
trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng... như sao
mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng, h́nh sắc
trắng, ánh sáng trắng... như lụa sa Ba la nại,
cả hai mặt láng trơn màu trắng, sắc màu
trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng. Như
vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc
màu trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị
ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ tám. Và ở đây, này Udayi, các đệ
tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu
cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này tu tập Mười
Biến xứ. Một vị biết được
đất biến xứ: trên dưới, ngang, bất
nhị, vô lượng. Một vị biết
được nước biến xứ... Một vị
biết được lửa biến... Một vị
biết được gió biến... Một vị biết
được xanh biến... Một vị biết
được vàng biến... Một vị biết
được đỏ biến... Một vị biết
được trắng biến... Một vị biết
được hư không biến... Một vị biết
được thức biến xứ: trên, dưới,
ngang, bất nhị, vô lượng. Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau
khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng
đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này tu tập Bốn
Thiền. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
với tầm, với tứ. Vị Tỷ-kheo thấm
nhuần tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy
thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một
chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh
ấy thấm nhuần. Này Udayi, như một người
hầu tắm lăo luyện, hay đệ tử
người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm
trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy
với nước, cục bột tắm ấy
được thấm nhuần nước ướt,
trào trộn với nước ướt, thấm
ướt cả trong lẫn ngoài với nước,
nhưng không chảy thành giọt, cũng vậy, này Udayi,
vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm
sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly
dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không
được hỷ lạc do ly dục sanh ấy
thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo
ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Vị Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với
hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được hỷ lạc do định sanh
ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như một hồ
nước, nước từ trong dâng lên, phương
Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây
không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc
không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có
lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời
lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ
nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung măn tràn đầy hồ nước
ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào
của hồ nước ấy không được
nước mát lạnh ấy thấm nhuần; cũng
vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần; tẩm
ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với
hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được hỷ lạc do định sanh
ấy thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi, vị
Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ và các bậc Thánh gọi là
"xả niệm lạc trú", chứng và an trú vào
Thiền thứ ba. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh
với lạc thọ không có hỷ ấy, không một
chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ
không có hỷ ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như trong
hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có
những sen xanh, sen hồng hay sen trắng; những bông sen
ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không
vượt khỏi nước, nuôi sống dưới
nước, từ đầu ngọn cho đến
gốc rễ đều thấm nhuần tẩm
ướt, đầy tràn thấu suốt bởi
nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào
của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không
được nước mát lạnh ấy thấm
nhuần; cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy
thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy, không
một chỗ nào trên toàn thân không được lạc
thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Lại
nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo xả lạc xả
khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị
Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân ḿnh
với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng
ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như một
người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm
đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không
được vải trắng ấy che thấu; cũng
vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần
toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh, trong sáng, không
một chỗ nào trên toàn thân không được tâm
thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Và ở
đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và
chứng đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi. Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu
hành này tuệ tri như sau: "Thân này của ta là sắc
pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ
cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến
hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại
diệt, trong thân ấy thức ta lại nương
tựa và bị trói buộc. Ví như, này Udayi, một ḥn
lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có
tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế
trược, đầy đủ tất cả mỹ
tướng. Và một sợi dây được xâu qua ḥn
ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu
trắng, hay màu vàng nhạt. Một người có mắt
cầm ḥn ngọc ấy trên tay sẽ
thấy: "Ḥn lưu ly bảo châu này, đẹp
đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài,
sáng chói, không uế trược, đầy đủ
tất cả mỹ tướng. Và sợi dây này
được xâu qua ḥn ngọc ấy, sợi dây màu xanh,
màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu
hành này biết được như sau: "Thân này của
ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh,
nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến
hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại
diệt, trong thân ấy thức ta lại nương
tựa và bị trói buộc. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc
cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này chú tâm, hướng tâm
đến sự hóa hiện một thân do ư làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi
thân này, cũng là sắc pháp, do ư làm ra, đầy
đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu
một căn nào. Ví như, này Udayi, một
người rút một cây lau ra ngoài vỏ, người
ấy nghĩ: "Đây là vỏ, đây là cây lau, vỏ
khác, cây lau khác, và cây lau từ vỏ rút ra". Ví như, này Udayi, một người rút thanh
kiếm từ bao kiếm. Người ấy nghĩ:
"Đây là thanh kiếm, đây là bao kiếm; thanh
kiếm khác, bao kiếm khác; và thanh kiếm từ nơi bao
kiếm rút ra. Ví như, này Udayi, một
người lột xác một con rắn. Người
ấy nghĩ: "Đây là con rắn, đây là xác rắn;
con rắn khác, xác rắn khác; và con rắn từ nơi xác
rắn được lột ra". Cũng vậy, này Udayi,
Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các
đệ tử . Và các đệ tử
của Ta y cứ con đường tu hành này, chú tâm,
hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ư
làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân
này, cũng là sắc pháp, do ư làm ra, đầy đủ các
chi tiết lớn nhỏ,không thiếu
một căn nào. Và ở đây, này Udayi, các đệ
tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu
cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này dẫn tâm, hướng
tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng
được các loại thần thông, một thân hiện
ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện
h́nh, biến h́nh đi ngang qua vách, qua tường, qua núi
như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên
ngang qua đất liền, như ở trong nước;
đi trên nước không ch́m như trên đất
liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con
chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và
mặt trời, những vật có đại oai lực,
đại oai thần như vậy; có thể tự thân
bay đến cơi Phạm thiên. Ví như, này Udayi, một
người thợ gốm khéo tay, hay
đệ tử người thợ gốm, với
đất sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các
loại đồ gốm tùy
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, với thiên nhĩ thanh
tịnh siêu nhân, có thể nghe được hai loại
tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Ví như, này Udayi, một người đang
đi qua đường, nghe tiếng trống lớn,
tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập
xỏa và tiếng kiểng. Người ấy
nghĩ: "Đây là tiếng trống lớn, đây là
tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng
xập xỏa, tiếng kiểng. Cũng
vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu
hành cho các đệ tử. Và các đệ tử
của Ta, y cứ con đường tu hành này, với thiên
nhĩ, thanh tịnh, siêu nhân, có thể
nghe được hai loại tiếng, chư Thiên và
Người, xa và gần. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc
cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm
của chúng sanh, của loài người với tâm của
ḿnh được biết như sau: "Tâm tham biết là
tâm tham; tâm không tham, biết là tâm không tham. Tâm
sân, biết là tâm sân; tâm không sân, biết là tâm không sân. Tâm si, biết là tâm si; tâm không si, biết là tâm không
si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm
không chuyên chú, biết là tâm không chuyên chú. Tâm
đại hành, biết là tâm đại hành; tâm không
đại hành, biết là tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô
thượng; tâm vô thượng biết là tâm vô
thượng.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, nhớ đến các
đời sống quá khứ như một đời, hai
đời, ba đời, bốn đời, năm đời,
mười đời, hai mươi đời, ba
mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, hai
trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành
kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy
nhớ rằng: "Tại chỗ kia,
ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai
cấp như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta
được sanh ra tại chỗ nọ. Tại
chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như
thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây".
Như vậy các vị ấy nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng
với nét đại cương và các chi tiết. Ví như, này Udayi, một người đi từ
làng ḿnh đến làng khác, từ làng ấy đi
đến một làng khác nữa, và từ làng này lại
trở về làng của ḿnh. Người ấy
nghĩ: "Ta từ làng của ḿnh đi đến làng kia, nơi đây ta đă đứng như
thế này, đă ngồi như thế này, đă nói như
thế này, đă yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đă trở về làng
của ta". Cũng vậy, này Udayi, Ta
thuyết giảng con đường tu hành cho các
đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, nhớ đến các
đời sống quá khứ như một đời, hai
đời... (như trên)... Như vậy các vị ấy nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét
đại cương và các chi tiết. Và ở
đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ
nhờ thắng trí chứng đắc cứu cánh viên măn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, với thiên nhăn
thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết
của chúng sanh. Những vị ấy biết rơ rằng
chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang,
người đẹp đẽ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh nào làm
những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các
bậc Thánh,
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y
cứ con đường tu hành này, sau khi đoạn
tận các lậu hoặc, tự ḿnh chứng ngộ
với thắng trí, chứng đạt và an
trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Ví như, này Udayi, tại dăy núi lớn
có một hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không
cấu nhiễm, một người có mắt đứng
trên bờ sông thấy con hến, con ṣ, những ḥn đá,
ḥn sạn, những đàn cá bơi qua lại, hay
đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ:
"Đây hồ nước, thuần tịnh, trong sáng,
không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con ṣ,
những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn cá đang
bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu
hành này, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, tự
ḿnh chứng ngộ với thắng trí, chứng
đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Và
ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và
chứng đắc cứu cánh viên măn.
Này Udayi, đây là pháp thứ năm, do pháp này các
đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa vào Ta.
Này Udayi, do năm pháp này, các đệ tử của
Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau
khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.