Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
(78) Kinh Samanamandika
(79) Tiểu kinh Sakuludayi
(80) Kinh Vekhanassa
(81) Kinh Ghatikara
(82) Kinh Ratthapala
78. KINH SAMANAMANDIKA [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (
–
Rồi các du sĩ ấy đều im lặng.
Thợ mộc Pancakanga đi đến du sĩ Uggahamana,
con của Samanamandika; sau khi đến, nói lên những
lời chào đón hỏi thăm với du sĩ Uggahamana,
con của Samanamandika; sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Du sĩ Uggahamana nói với thợ mộc
Pancakanga đang ngồi một bên:
–
Rồi thợ mộc Pancakanga không hoan hỷ,
không kích bác lời nói của du sĩ Uggahamana, con của
Samanamandika; không hoan hỷ, không kích bác, từ chỗ
ngồi đứng dậy ra đi, với ư nghĩ:
"Từ Thế Tôn, ta sẽ biết ư nghĩa lời nói
này". Rồi thợ mộc Pancakanga đến chỗ
– Nếu sự t́nh là như vậy thời
một đứa con nít c̣n bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa
sẽ được thiện cụ túc, thiện tối
thắng, là bậc Sa-môn, thành đạt tối
thượng, là bậc vô năng thắng đúng như
lời du sĩ Uggahamana, con của Samanamandika. Này Thợ
mộc, đối với đứa con nít nhỏ bé, vô
trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là thân",
từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về thân, trừ
ra chỉ biết quơ tay quơ chân ? Này Thợ mộc,
đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí,
nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là lời
nói", từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về
lời nói, trừ ra chỉ biết khóc ? Này Thợ
mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô
trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là tư duy",
từ đâu nó có thể tư duy ác tư duy, trừ ra
chỉ biết bập bẹ ? Này Thợ mộc,
đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí,
nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là nghề sinh
sống", từ đâu nó có thể sinh sống bằng
nếp sống ác, trừ ra chỉ biết bú sữa
mẹ ? Nếu sự t́nh là vậy này Thợ mộc,
thời một đứa con nít c̣n bé nhỏ, vô trí, nằm
ngửa, sẽ được thiện cụ thúc,
thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối
thượng, vô năng thắng, đúng như lời du
sĩ Uggahamana, con của Samanamandika.
Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng
một người thành tựu bốn pháp, người
ấy sẽ không được thiện cụ túc,
thiện tối thắng, không là bậc Sa-môn thành
đạt tối thượng, vô năng thắng, và
như vậy để xác chứng đứa con nít bé
nhỏ, vô trí, nằm ngửa này. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này Thợ mộc, không làm ác nghiệp về thân,
không nói lời ác ngữ, không tư duy ác tư duy, không sinh
sống (bằng) nếp sống ác. Này Thợ mộc, Ta
chủ trương rằng một người thành
tựu bốn pháp này, người ấy sẽ không
được thiện cụ túc, thiện tối
thắng, không là bậc Sa-môn thành đạt tối
thượng, vô năng thắng.
Này thợ mộc, Ta chủ trương rằng
một người thành tựu mười pháp,
người ấy sẽ được thiện cụ
túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành
đạt tối thượng, vô năng thắng. Ta nói
rằng, những pháp này, này Thợ mộc, cần phải
được người ấy hiểu là những bất
thiện giới, Ta nói rằng, này Thợ mộc, những
bất thiện giới cần phải được
người ấy hiểu là từ đây sanh (Itosamutthana).
Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây cần
phải được người ấy hiểu là
những bất thiện giới được diệt
trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc,
cần phải được người ấy hiểu
là thực hành như vậy là sự thực hành đưa
đến diệt trừ các bất thiện giới. Ta
nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần
phải được người ấy hiểu là
những thiện giới. Ta nói rằng, này Thợ mộc,
những thiện giới cần phải được
người ấy hiểu là từ đây sanh. Ta nói
rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải
được người ấy hiểu là những
thiện giới được diệt trừ không có
dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải
được người ấy hiểu là thực hành
như vậy là sự thực hành đưa đến
diệt trừ các thiện giới. Ta nói rằng, này
Thợ mộc, những (pháp) này cần phải
được người ấy hiểu là những
bất thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc,
cần phải được người ấy hiểu
là những bất thiện tư duy từ nơi đây
sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần
phải được người ấy hiểu các
bất thiện tư duy được diệt trừ
không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần
phải được người ấy hiểu là
thực hành như vậy là sự thực hành đưa
đến diệt trừ các bất thiện tư duy. Ta
nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần
phải được người ấy hiểu là
những thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ
mộc, cần phải được người ấy
hiểu là những thiện tư duy từ nơi đây
sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần
phải được người ấy hiểu là các
thiện tư duy được trừ diệt không có
dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải
được người ấy hiểu là thực hành
như vậy là sự thực hành đưa đến
diệt trừ các thiện tư duy.
Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện
giới ? Thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp
bất thiện, nếp sống ác. Những pháp này, này
Thợ mộc, được gọi là bất thiện
giới. Và này Thợ mộc, những bất thiện
giới này sanh khởi như thế nào ? Sự sanh
khởi của chúng cũng được nói đến,
cần phải trả lời từ tâm sanh khởi.
Thế nào là tâm ? Tâm có nhiều loại, đa chủng, sai
biệt. Tâm có tham, có sân, có si, từ đây những bất
thiện giới sanh khởi. Và này Thợ mộc, những
bất thiện giới này từ đâu được
trừ diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt
của chúng cũng được nói đến. Ở
đây, này Thợ mộc, một Tỷ-kheo, sau khi
đoạn trừ thân ác hạnh, tu tập thân thiện
hạnh; sau khi đoạn trừ khẩu ác hạnh, tu tập
khẩu thiện hạnh; sau khi đoạn trừ ư ác
hạnh, tu tập ư thiện hạnh; sau khi đoạn
trừ nếp sống ác sinh sống với nếp
sống chánh. Ở đây, những bất thiện
giới ấy được trừ diệt không có tàn
dư. Thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là
sự thực hành đưa đến diệt trừ các
bất thiện giới ? Ở đây, này Thợ mộc,
vị Tỷ-kheo khởi lên ư muốn, nỗ lực, tinh
tấn, quyết tâm, sách tấn tâm; khiến cho các ác,
bất thiện pháp từ trước chưa sanh không
được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ
lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho
các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ
diệt; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn,
quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các thiện pháp
chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư
muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn
tâm khiến cho các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ,
không có mơ hồ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu
tập, được viên măn. Sự thực hành như
vậy, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa
đến diệt trừ các bất thiện giới.
Và này Thợ mộc, thế nào là thiện
giới ? Thân nghiệp thiện, khẩu nghiệp
thiện, nếp sống thanh tịnh mạng; những pháp
này, này Thợ mộc, được gọi là thiện
giới. Và này Thợ mộc, những thiện giới này
sanh khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của
chúng cũng được nói đến, cần phải
trả lời là tự tâm sinh khởi. Thế nào là tâm ? Tâm
có nhiều loại, đa chủng, sai biệt. Tâm không tham,
không sân, không si, từ đây những thiện giới sanh
khởi. Và này Thợ mộc, những thiện giới này
từ đâu được trừ diệt, không có dư
tàn,. Sự trừ diệt của chúng cũng
được nói đến. Ở đây, vị
Tỷ-kheo có giới hạnh, và không chấp trước
giới (silamayo), và vị này như thật tuệ tri tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây, những
thiện giới ấy được trừ diệt,
không có dư tàn. Thực hành như thế nào, này Thợ
mộc, là sự thực hành đưa đến trừ
diệt các thiện giới ? Ở đây, này Thợ
mộc, vị Tỷ-kheo khởi lên ư muốn, nỗ
lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm, khiến cho
các ác, bất thiện pháp, chưa sanh không được
sanh khởi; khiến cho các ác, bất thiện pháp đă
sanh được trừ diệt; khiến cho các thiện
pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư
muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn
tâm, khiến cho các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ,
không có mơ hồ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu
tập, được viên măn. Sự thực hành như
vậy là sự thực hành đưa đến diệt
trừ các thiện giới.
Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện
tư duy ? Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy.
Pháp này, này Thợ mộc, được gọi là bất
thiện tư duy. Và này Thợ mộc, những bất
thiện tư duy này sanh khởi như thế nào ? Sự
sanh khởi của chúng cũng được nói
đến. Cần phải trả lời là từ
tưởng sanh khởi. Thế nào là tưởng ?
Tưởng có nhiều loại, đa chủng, sai
biệt: dục tưởng, sân tưởng, hại
tưởng, từ đấy những bất thiện
tư duy sanh khởi. Và này Thợ mộc, những bất
thiện tư duy này từ đâu được trừ
diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt của chúng
cũng được nói đến. Ở đây, này
Thợ mộc, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất
thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm,
với tứ. Ở đây, những bất thiện tư
duy được trừ diệt, không có dư tàn. Và
sự thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là
sự thực hành đưa đến diệt trừ các
bất thiện tư duy ? Ở đây, vị Tỷ-kheo
khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết
tâm, sách tấn tâm khiến cho các ác, bất thiện pháp
chưa sanh không được sanh khởi... khiến cho
các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ
diệt; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay
được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ
lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm; khiến cho
các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ, không có mơ
hồ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu
tập, được viên măn. Sự thực hành như
vậy là sự thực hành đưa đến diệt
trừ các bất thiện tư duy. Này Thợ mộc,
thế nào là thiện tư duy ? Ly dục tư duy, vô sân
tư duy, bất hại tư duy; những pháp này, này
Thợ mộc, được gọi là thiện tư duy.
Và này Thợ mộc, những thiện tư duy này sanh
khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của chúng
cũng được nói đến. Cần phải
trả lời là từ tưởng sanh khởi. Thế nào
là tưởng ? Tưởng có nhiều loại, đa
chủng, sai biệt: ly dục tưởng, vô sân
tưởng, bất hại tưởng, từ đấy
sanh khởi là những thiện tư duy. Và này Thợ mộc,
những thiện tư duy này từ đâu được
diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt của
chúng cũng được nói đến. Ở đây, này
Thợ mộc, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ,
nội tĩnh nhất tâm. Ở đây, những thiện
tư duy ấy được trừ diệt không có dư
tàn. Và sự thực hành như thế nào, này Thợ
mộc, là sự thực hành đưa đến diệt
trừ các thiện tư duy ? Ở đây, Tỷ-kheo
khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết
tâm, sách tấn tâm khiến cho các ác, bất thiện pháp
chưa sanh không có sanh khởi... (như trên)...; khiến cho
các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ
diệt... (như trên)...; khiến cho các thiện pháp
chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư
muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn
tâm, khiến cho các thiện pháp đă sanh, có thể duy tŕ,
không có mơ hồ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu
tập, được viên măn. Sự thực hành như
vậy là sự thực hành đưa đến diệt
trừ các thiện tư duy. Và này Thợ mộc, Ta chủ
trương rằng một người thành tựu
mười pháp này, người ấy được
thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc
Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng
thắng. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo
thành tựu vô học chánh tri kiến, thành tựu vô học
chánh tư duy, thành tựu vô học chánh ngữ, thành
tựu vô học chánh mạng, thành tựu vô học chánh
tinh tấn, thành tựu vô học chánh niệm, thành tựu
vô học chánh định, thành tựu vô học chánh trí,
thành tựu vô học chánh giải thoát. Này Thợ mộc,
Ta chủ trương rằng một người thành
tựu mười pháp này sẽ được thiện
cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành
đạt tối thượng, vô năng thắng.
79. TIỂU KINH THIỆN SANH ƯU ĐÀ DI
[^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá). Veluvana (Trúc Lâm), ở Kalandakanivapa (chỗ
nuôi dưỡng sóc). Lúc bấy giờ, du sĩ Sakuludayi
ở tại Moranivapa (Khổng Tước Lâm), một tinh
xá du sĩ, cùng với đại chúng du sĩ. Rồi
Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm bát vào
Vương Xá để khất thực. Thế Tôn
khởi lên ư nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để đi
khất thực ở Vương Xá, Ta hăy đi đến
tinh xá du sĩ Khổng Tước Lâm, đến du sĩ
Sakuludayi".
–
Rồi các du sĩ ấy đều im lặng.
–
–
– Bạch Thế Tôn, hăy gác một bên vấn
đề chúng con đang hội họp bàn luận. Về
sau
– Vậy này Udayi, hăy nói lên ở đây vấn
đề ǵ, để Ta có thể nói chuyện.
– Thuở xưa, bạch Thế Tôn, rất xa
xưa, bậc biết tất cả, thấy tất
cả tự nhận ḿnh có tri kiến không dư thừa:
"Khi ta đi, khi ta đứng, khi ta ngủ và khi ta
thức, tri kiến được tồn tại liên
tục thường hằng". Vị ấy khi
được con hỏi câu hỏi về quá khứ,
liền tránh né với một câu hỏi khác, trả lời
ra ngoài đề, và tỏ lộ phẫn nộ, sân
hận, và bất măn. Do vậy, bạch
– Này Udayi, vị nào là bậc biết tất
cả, thấy tất cả và tự nhận ḿnh có tri
kiến không dư thừa: "Khi ta đi, khi ta
đứng, khi ta ngủ, khi ta thức, tri kiến
được tồn tại, liên tục thường
hằng"? Vị ấy là ai mà khi được Ông
hỏi câu hỏi về quá khứ liền tránh né với
một câu hỏi khác, trả lời ra ngoài đề, và
tỏ lộ phẫn nộ, sân hận và bất măn ?
– Bạch Thế Tôn, vị ấy là Nigantha
Nataputta.
– Này Udayi, vị nào nhớ đến các
đời sống quá khứ sai biệt như một
đời, hai đời... nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Hoặc là vị ấy
hỏi Ta câu hỏi về quá khứ, hay là Ta hỏi vị
ấy câu hỏi về quá khứ. Hoặc là vị ấy
làm tâm Ta thỏa măn với câu trả lời câu hỏi
về quá khứ; hay là Ta làm tâm vị ấy thỏa măn
với câu trả lời câu hỏi về quá khứ. Này
Udayi, vị nào với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân
thấy sự sống và chết của chúng sanh, vị
ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ
kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh... đều do hạnh nghiệp của họ.
Hoặc là vị ấy hỏi Ta câu hỏi về
tương lai, hay là Ta hỏi vị ấy câu hỏi
về tương lai. Hoặc là vị ấy làm tâm Ta
thỏa măn với câu trả lời câu hỏi về
tương lai, hay là Ta làm tâm vị ấy thỏa măn
với câu trả lời câu hỏi về tương lai.
Và thôi, này Udayi, hăy dừng lại ở quá khứ, hăy dừng
lại ở tương lai ! Ta sẽ thuyết pháp cho Ông:
Cái này có mặt th́ cái đây có mặt; do cái này sanh, cái
đây sanh. Cái này không có mặt th́ cái đây không có mặt;
do cái này diệt, cái đây diệt".
– Bạch Thế Tôn, cho đến trong phạm vi
kinh nghiệm với tự ngă này (Attabhava), con c̣n không có
thể nhớ đến các nét đại cương và
các chi tiết, từ đâu con có thể nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời... con có thể nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ, với các nét
đại cương và các chi tiết như Thế Tôn ?
Bạch Thế Tôn, nay con c̣n không thấy được con
phiêu phong quỷ (pamsapisacaka), từ đâu với thiên nhăn
thanh tịnh siêu nhân con có thể tuệ tri rằng chúng sanh
người hạ liệt kẻ cao sang, người
đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may
mắn kẻ bất hạnh... con có thể biết rơ các
chúng sanh đều do hạnh nghiệp của họ,
như Thế Tôn ? Do vậy, bạch Thế Tôn, khi Thế
Tôn nói với con như sau: "Này Udayi, hăy dừng lại
ở quá khứ, hăy dừng lại ở tương lai. Ta
sẽ thuyết pháp cho Ông: "Cái này có mặt th́ cái đây
có mặt; do cái này sanh, cái đây sanh. Cái này không có mặt
th́ cái đây không có mặt; do cái này diệt, cái đây
diệt", thời con lại càng không nhận rơ bội
phần. Tuy vậy, bạch Thế Tôn, con có thể làm tâm
Thế Tôn thỏa măn với câu trả lời câu hỏi
về bạc Đạo sư của ḿnh.
–
– Bạch Thế Tôn, bậc Đạo sư
của chúng con dạy chúng con rằng: "Sắc này là
tối thượng, sắc này là tối
thượng".
–
– Bạch Thế Tôn, khi một sắc nào không có
một sắc khác cao thượng hơn, hay thù thắng
hơn, thời sắc ấy là sắc tối
thượng.
–
– Bạch Thế Tôn, khi một sắc nào không có
một sắc khác cao thượng hơn, hay thù thắng
hơn, thời sắc ấy là sắc tối
thượng.
–
– Bạch Thế Tôn, sự t́nh là như vậy
thời lời nói của người ấy thật
sự là không hiệu năng.
– Cũng vậy, này Udayi, khi Ông nói: "Bạch
Thế Tôn khi một sắc nào không có một sắc khác cao
thượng hơn hay thù thắng hơn, thời sắc
ấy là sắc tối thượng", thời Ông không
chỉ rơ sắc ấy.
– Bạch Thế Tôn, ví như một ḥn lưu ly
bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám
mặt, khéo dũa, khéo mài, được đặt trên
một tấm màn màu nhạt, tự nó sáng lên, chói lên,
bừng sáng lên; với sắc như vậy, tự ngă là
không bệnh, sau khi chết.
–
–
–
–
–
–
–
–
–
– Bạch Thế Tôn, mặt trăng trong khi
đứng bóng, trong một bầu trời quang đăng
không mây, vào lúc nửa đêm, trong ngày Uposatha (Bố tát) vào
ngày Rằm, quang sắc này vi diệu hơn và thù thắng
hơn giữa hai quang sắc.
–
–
–
–
– Này Udayi, sao Ông lại nói: "Thế Tôn đă
cắt đứt câu chuyện. Thiện thệ đă
cắt đứt câu chuyện ?"
– Bạch Thế Tôn, các vị Đạo sư
của chúng con dạy như sau: "Quang sắc này là
tối thượng, quang sắc này là tối
thượng". Nhưng bạch Thế Tôn, các bậc
Đạo sư của chúng con khi bị Thế Tôn
đối nạn, cật nạn, vấn nạn, (tự
tỏ là) trống không, hư vọng, thất bại.
– Nhưng này Udayi, có một thế giới
nhứt hướng lạc không ? Có đạo lộ
hợp lư nào đưa đến chứng đắc
thế giới nhứt hướng lạc ?
– Bạch Thế Tôn, các bậc Đạo sư
của chúng con có dạy như sau: "Có một thế
giới nhứt hướng lạc. Có đạo lộ
hợp lư đưa đến chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc".
–
– Ở đây, bạch Thế Tôn, có người
đoạn trừ sát sanh, từ bỏ sát sanh, đoạn
trừ lấy của không cho, từ bỏ lấy của
không cho, đoạn trừ tà dâm, từ bỏ tà dâm,
đoạn trừ nói láo, từ bỏ nói láo, hay sống
sau khi thọ tŕ một loại khổ hạnh. Bạch
Thế Tôn, đó là đạo lộ hợp lư đưa
đến chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc.
–
– Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
– Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi
đoạn trừ lấy của không cho, từ bỏ
lấy của không cho, trong khi ấy, tự ngă là nhứt
hướng lạc hay cả lạc cả khổ?
– Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
–
– Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
–
– Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
–
– Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
–
–
–
– Bạch Thế Tôn, các bậc Đạo sư
của chúng con có dạy như sau: "Có một thế
giới nhứt hướng lạc, có một đạo
lộ hợp lư để chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc". Nhưng các
bậc Đạo sư của chúng con khi bị Thế Tôn
đối nạn, cật nạn, vấn nạn, (tự
tỏ là) trống không, hư vọng, thất bại.
Nhưng bạch
–
–
– Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly
dục... chứng đắc và trú Thiền thứ
nhất; sau khi diệt tầm và tứ... Thiền thứ
hai... chứng đắc và trú Thiền thứ ba. Như
vậy, này Udayi là đạo lộ hợp lư đưa
đến chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc.
– Bạch Thế Tôn, đạo lộ ấy không
phải là đạo lộ đưa đến chứng
đắc thế giới nhứt hướng lạc.
Chứng đắc như vậy, bạch
– Này Udayi, chứng đắc như vậy
chưa phải là thế giới nhứt hướng
lạc. Đạo lộ ấy chỉ là đạo
lộ hợp lư đưa đến chứng đắc
thế giới nhứt hướng lạc.
Khi được nói vậy, hội chúng của
du sĩ Sakuludayi lớn tiếng, cao tiếng, to tiếng
như sau:
– Ở đây, chúng tôi đă được nghe
từ các vị Đạo sư. Ở đây, chúng tôi
đă được nghe từ các vị Đạo sư.
Chúng tôi không được biết ǵ hơn như vậy
nữa.
Rồi du sĩ Sakuludayi sau khi làm cho các vị du
sĩ ấy lặng tiếng xuống, liền bạch
Thế Tôn:
– Phải đến mức như thế nào,
mới là chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc ?
– Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo đoạn
trừ lạc... chứng đạt và an trú Thiền
thứ tư; có bao nhiêu chư Thiên được sanh vào
thế giới nhứt hướng lạc, Tỷ-kheo cùng
đứng với các chư Thiên ấy, cùng nói chuyện,
cùng đàm luận. Cho đến mức độ như
vậy, này Udayi, mới là chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc.
–
– Này Udayi, không phải chỉ v́ nhân duyên chứng
đắc thế giới nhứt hướng lạc mà
các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự
(chỉ dẫn) của Ta. Này Udayi, có những pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng hơn. V́ nhơn duyên chứng
đắc các pháp ấy, các Tỷ-kheo sống Phạm
hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
– Bạch Thế Tôn, thế nào là những pháp cao
thượng hơn, thù thắng hơn, v́ nhơn duyên
chứng đắc các pháp ấy, các Tỷ-kheo sống
Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của
Thế Tôn ?
– Ở đây, này Udayi, Như Lai xuất hiện
ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn... sau khi đoạn
trừ năm triền cái này, những pháp làm ô uế tâm,
làm muội lược trí tuệ, ly dục, ly bất
thiện pháp... chứng và trú Thiền thứ nhất.
Đây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng
hơn, do nhân duyên chứng đắc pháp này mà Tỷ-kheo
sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn
của Ta. Lại nữa này Udayi, Tỷ-kheo diệt tầm
và tứ... đệ nhị Thiền... đệ tam
Thiền... chứng và an trú đệ tứ Thiền.
Đây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng
hơn, do nhân duyên chứng đắc pháp này các Tỷ-kheo
sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn
của Ta. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong
sáng không cấu uế, với các phiền năo
được đoạn trừ, nhu nhuyễn, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như
vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng
trí. Vị ấy nhớ nhiều đời ở quá
khứ, như một đời, hai đời... nhớ
đến nhiều đời sống ở quá khứ,
với các nét đại cương và các chi tiết.
Đây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng
hơn, do nhơn duyên chứng đắc pháp ấy,
Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự
chỉ dẫn của Ta. Với tâm định tĩnh,
thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, với các
phiền năo được đoạn trừ, dễ
sử dụng, nhu nhuyến bất động như vậy,
vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí
của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thanh tịnh,
siêu nhân, thấy rơ sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ
kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh... đều do hạnh nghiệp của họ.
Đây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng
hơn, do nhơn duyên chứng đắc pháp này, vị
Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự
chỉ dẫn của Ta. Với tâm định tĩnh,
thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, với các
phiền năo được đoạn trừ, dễ
sử dụng, nhu nhuyến, vững chắc, bất
động như vậy vị Tỷ-kheo hướng tâm
đến lậu tận trí. Vị ấy như thật
biết: "Đây là Khổ"... "Đây là Khổ tập"...
"Đây là Khổ diệt"... "Đây là con
Đường đưa đến khổ diệt".
Vị ấy như thật biết: "Đâu là những
lậu hoặc"... "Đây là nguyên nhân của lậu
hoặc"... "Đây là sự diệt trừ các
lậu hoặc". Vị ấy như thật biết:
"Đây là con đường đưa đến
sự diệt trừ các lậu hoặc. Nhờ hiểu
biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị
ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với
tự thân được giải thoát như vậy,
vị ấy khởi lên sự hiểu biết: "Ta
đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh
đă tận, Phạm hạnh đă thành, việc cần
làm đă làm, sau đời hiện tại không có
đời sống nào khác nữa". Đây là pháp, này
Udayi, cao thượng hơn, thù thắng hơn, do nhân duyên
chứng đắc pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm
hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta. Đây
là những pháp, này Udayi, cao thượng hơn, thù thắng
hơn, do nhơn duyên chứng đắc những pháp này,
các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự
chỉ dẫn của Ta.
Khi nghe nói vậy du sĩ Sakuludayi bạch Thế
Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch
Khi được nghe nói vậy, chúng du sĩ
của Sakuludayi nói với du sĩ Sakuludayi:
– Tôn giả Udayi, chớ có sống Phạm
hạnh dưới sự chỉ dẫn của Sa-môn
Gotama. Tôn giả Udayi, đă là bậc Đạo sư, nay
chớ có sống làm đệ tử. Như một ghè
nước tốt, nay bị thủng lỗ bị
chảy nước; hành động của Tôn giả Udayi
cũng sẽ như vậy. Tôn giả Udayi, chớ có
sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn
của Sa-môn Gotama ! Tôn giả Udayi đă là bậc
Đạo sư, nay chớ có sống làm đệ tử.
Như vậy, chính chúng du sĩ của Sakuludayi
đă làm một chướng ngại pháp cho du sĩ
Sakuludayi sống Phạm hạnh dưới sự chỉ
dẫn của
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi
(Xá-vệ) , Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tịnh xá ông Anathapinka
(
– Sắc này là tối thượng, sắc này là
tối thượng.
– Nhưng này Kaccana, sao Ông lại nói như sau:
"Sắc này là tối thượng, sắc này là tối
thượng" ?
– Tôn giả Gotama, sắc nào không có một sắc
khác cao thượng hơn, hay thù thắng hơn, sắc
này là tối thượng.
– Nhưng này Kaccana, sắc ấy là sắc ǵ mà
không có sắc khác cao thượng hơn hay thù thắng
hơn ?
– Tôn giả Gotama, sắc nào không có sắc khác cao
thượng hơn hay thù thắng hơn, sắc ấy là
tối thượng.
–
–
– Cũng vậy, này Kaccana, khi Ông nói: "Tôn
giả Gotama khi sắc nào không có một sắc khác cao
thượng hơn, hay thù thắng hơn, sắc ấy là
tối thượng", thời Ông không chỉ rơ sắc
ấy.
– Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một ḥn
lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có
tám mặt, khéo dũa, khéo mài được đặt trên
một tấm màn màu nhạt, tự nó sáng lên, chói lên,
bừng sáng lên. Với sắc như vây, tự ngă là không có
bệnh, sau khi chết.
–
–
–
–
–
–
–
–
–
– Thưa Tôn giả Gotama, mặt trăng trong khi
đứng bóng, trong một bầu trời quang đăng,
không mây, vào lúc nửa đêm trong ngày Uposatha (Bố-tát) vào
ngày Rằm, quang sắc này vi diệu hơn và thù thắng
hơn giữa hai quang sắc.
–
–
–
Này Kaccana, có năm dục trưởng
dưỡng này. Thế nào là năm ? Các sắc có mắt
nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ư,
khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp
dẫn; các tiếng do tai nhận thức... các hương
do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận
thức... các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả
lạc, khả ư, khả hỷ, liên hệ đến
dục, hấp dẫn. Này Kaccana, những pháp này là năm
dục trưởng dưỡng. Này Kaccana, lạc và
hỷ nào khởi lên, duyên với năm dục
trưởng dưỡng này, được gọi là
dục lạc. Như vậy, bởi v́ có dục, nên có
dục lạc; từ nơi dục lạc, dục tối
thượng lạc được gọi ở đây là
tối thượng.
Được nghe nói vậy, du sĩ Vekhanassa
bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch
– Cái này thật khó cho Ông có thể hiểu
được, này Kaccana, về dục, hay dục lạc,
hay dục tối thượng lạc. Ông là người
thuộc chấp kiến khác, thuộc kham nhẫn khác,
thuộc mục đích khác, thuộc tu tập khác,
thuộc Đạo sư khác. Này Kaccana, nhưng đối
với Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă
tận, tu hành thành măn, đă làm những việc cần làm,
đă đặt gánh nặng xuống, đă đạt
được mục đích, đă đoạn trừ
hữu kiết sử, đă giải thoát nhờ chánh trí,
những vị ấy biết: "Dục, dục lạc,
hay dục tối thượng lạc".
Khi được nghe nói vậy, du sĩ
Vekhanassa, phẫn nộ và bất măn, mắng nhiếc
cả Thế Tôn, miệt thị cả Thế Tôn và nói:
–
Và du sĩ Vekhanassa thưa Thế Tôn:
– Nhưng như vậy, ở đây, có một
số Sa-môn, Bà-la-môn không biết về quá khứ, không
thấy về tương lai, nhưng các vị ấy
tự cho: "Sanh đă diệt, Phạm hạnh đă
thành, những việc nên làm đă làm, từ nay không trở
lại đời sống này nữa". Lời nói như
vậy của họ tự chứng tỏ là đáng
cười, tự chứng tỏ là nói suông, tự chứng
tỏ là trống không, tự chứng tỏ là hư
vọng.
– Này Kaccana, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không biết
về quá khứ, không thấy được tương
lai, nhưng tự cho là ta biết: "Sanh đă tận,
Phạm hạnh đă thành, các việc nên làm đă làm, không
c̣n trở lui đời này nữa", lời phủ
nhận chỉ trích như vậy về họ là hợp
pháp. Nhưng này Kaccana, hăy bỏ qua quá khứ, hăy bỏ qua
tương lai. Hăy đến, người có trí không gian
trá, không xảo quyệt, chơn trực và nói như sau:
"Ta giảng dạy, ta thuyết pháp". Nếu
thực hành
Khi được nghe nói vậy, du sĩ Vekhanassa
bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! ... Xin Tôn giả Gotama
nhận con làm đệ tử. Từ nay cho đến
mạng
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn đi du hành giữa dân
chúng Kosala với đại chúng Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn, do nhân ǵ, do duyên ǵ.
– Thuở xưa này Ananda, tại địa
điểm này là một thị trấn tên là Vebhalinga,
phồn thịnh, giàu có và dân cư đông đúc. Này Ananda,
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
sống ở đây, dựa vào thị trấn Vebhalinga.
Ở đây, này Ananda, là tu viện của
Rồi Tôn giả Ananda gấp tư y sanghati
(tăng-già-lê), trải ra rồi bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, thỉnh Thế Tôn ngồi
xuống. Chính tại địa điểm này, hai bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác sẽ sử dụng.
– Thuở xưa, này Ananda, tại địa
điểm này là thị trấn tên Vebhalinga, phồn
thịnh, giàu có và dân cư đông đúc. Này Ananda, Thế
Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă sống
dựa vào thị trấn Vebhalinga. Chính tại đây, này
Ananda, là tu viện của
"– Này bạn Jotipala, chúng ta hăy đi. Chúng ta hăy
đi đến yết kiến
Khi nghe nói vậy, này Ananda, thanh niên Jotipala nói
với thợ gốm Ghatikara:
"– Thôi vừa rồi, bạn Ghatikara, yết
kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để
làm ǵ ?"
Lần thứ hai, này Ananda... (như trên)...
Lần thứ ba, này Ananda, thợ gốm Ghatikara nói với
thanh niên Jotipala:
"– Này bạn Jotipala, chúng ta hăy đi. Chúng ta hăy
đi đến yết kiến
Lần thứ ba này Ananda, thanh niên Jotipala nói
với thợ gốm Ghatikara:
"– Thôi vừa rồi bạn Ghatikara yết
kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để
làm ǵ ?"
"– Vậy này bạn Jotipala, hăy cầm
đồ găi lưng và bột tắm, chúng ta hăy đi
đến sông để tắm".
"– Thưa bạn, vâng".
Này Ananda, thanh niên Jotipala vâng đáp thợ gốm
Ghatikara như vậy.
Thợ gốm Ghatikara và thanh niên Jotipala lấy
đồ găi lưng và bột tắm, đi đến sông
để tắm. Rồi này Ananda, thợ gốm Ghatikara
nói với thanh niên Jotipala:
"– Này bạn Jotipala, chỗ này cách tu viện
Khi nghe nói vậy, này Ananda, thanh niên Jotipala nói
với thợ gốm Ghatikara:
"– Thôi vừa rồi, bạn Ghatikara, yết
kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để
làm ǵ ?"
Lần thứ hai, này Ananda, ... (như trên)...
lần thứ ba này Ananda, thợ gốm Ghatikara nói với
thanh niên Jotipala:
"– Này bạn Jotipala, chỗ này cách tu viện
của
Lần thứ ba, này Ananda, thanh niên Jotipala nói
với thợ gốm Ghatikara:
"– Thôi vừa rồi, bạn Ghatikara, yết
kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để
làm ǵ ?"
Rồi này Ananda, thợ gốm Ghatikara nắm
lấy thanh niên Jotipala ở nơi cổ tay áo và nói:
"– Này bạn Jotipala, chỗ này cách tu viện
Rồi này Ananda, sau khi gỡ thoát cổ áo, thanh
niên Jotipala nói với thợ gốm Ghatikara:
"– Thôi vừa rồi, bạn Ghatikara, yết
kiến vị Sa-môn đầu trọc ấy để làm
ǵ ?
Rồi thợ gốm Ghatikara nắm lấy tóc
vừa mới tắm xong của thanh niên Jotipala và nói:
"– Này bạn Jotipala, chỗ này cách tu viện
của
Rồi này Ananda, thanh niên Jotipala suy nghĩ như
sau: "Thật là vi diệu ! Thật là hy hữu ! Thợ
gốm Ghatikara tuy sanh thuộc hạ cấp, lại dám
nghĩ có thể nắm lấy tóc của ta, dầu ta
vừa mới gội đầu, chắc việc này không
phải là tầm thường", rồi nói với
thợ gốm Ghatikara:
"– Này bạn Ghatikara, có thật sự là
cần thiết không ?"
"– Này bạn Jotipala, thật sự là cần
thiết. Thật là tốt lành cho tôi được
yết kiến
"– Vậy bạn Ghatikara, hăy thả (tay) ra.
Chúng ta sẽ đi".
Rồi này Ananda, thợ gốm Ghatikara và thanh niên
Jotipala cùng đi đến
"– Bạch Thế Tôn, đây là thanh niên Jotipala,
bạn của con, bạn thân t́nh của con. Mong Thế Tôn
thuyết pháp cho bạn con".
Rồi này Ananda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, với pháp thoại khích lệ làm cho
thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thợ
gốm Ghatikara và thanh niên Jotipala. Rồi này Ananda, thợ
gốm Ghatikara và thanh niên Jotipala, sau khi được
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác với
pháp thoại, khích lệ, làm cho thích thú, phấn khởi,
hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi này Ananda, thanh niên Jotipala nói với thợ
gốm Ghatikara:
"– Này bạn Ghatikara, khi nghe pháp này, v́ sao
bạn không xuất gia" ?
"– Này bạn Jotipala, bạn không biết tôi sao
? Tôi phải nuôi dưỡng cha mẹ già và mù ḷa".
"– Vậy này bạn Ghatikara, tôi sẽ xuất
gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh".
Rồi này Ananda, thợ gốm Ghatikara và thanh niên
Jotipala đi đến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, này Ananda, thợ gốm Ghatikara bạch Thế
Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác:
"– Bạch Thế Tôn, đây là thanh niên Jotipala,
bạn của con, bạn thân t́nh của con. Mong Thế Tôn
xuất gia cho bạn con".
Và này Ananda, thanh niên Jotipala được Thế
Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác cho xuất gia,
cho thọ đại giới. Rồi này Ananda, Thế Tôn
Kassapa bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi thanh niên
Jotipala xuất gia chưa bao lâu, sau nửa tháng, sau khi ở
tại Vebhalinga lâu cho đến khi thấy tự thỏa
măn, liền du hành đi đến Baranasi. Ngài tuần
tự du hành và đến tại Baranasi (Ba-la-nại).
Rồi này Ananda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán,
Chành Đẳng Giác trú tại Baranasi, ở Isipatana,
vườn Lộc Uyển. Này Ananda, Kiki, vua xứ Kasi
được nghe như sau: "Thế Tôn Kassapa, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă đến Baranasi, trú
tại Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi
này Ananda, Kiki, vua nước Kasi cho thắng các cổ xe
tối thù thắng, sau khi tự ḿnh
"– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận
lời con mời ngày mai đến dùng cơm với chúng
Tỷ-kheo".
Và này Ananda,
"– Bạch Thế Tôn giờ đă đến,
cơm đă sẵn sàng".
Rồi này Ananda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác vào buổi sáng đắp y, cầm y
bát, đi đến trú xứ của Kiki, vua xứ Kasi, sau
khi đến, liền ngồi trên chỗ đă soạn
sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi này Ananda, Kiki, vua
xứ Kasi tự tay thân hầu và làm cho thỏa măn chúng
Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm
đầu, các món ăn thượng vị, loại
cứng và loại mềm. Rồi này Ananda, Kiki, vua xứ
Kasi, khi Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
đă ăn xong, tay đă rời khỏi bát, lấy một
ghế thấp rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, này Ananda, Kiki, vua xứ Kasi, bạch
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác:
"– Bạch Thế Tôn, mong
"– Thôi vừa rồi, Đại vương,
Ta đă nhận lời an cư mùa mưa rồi"
Lần thứ hai, này Ananda,... (như trên)...
Lần thứ ba, này Ananda, Kiki, vua xứ Kasi, bạch
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác:
"– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận
lời mời của con, an cư mùa mưa tại Baranasi;
sẽ có sự cúng dường như vậy cho chúng
Tỷ-kheo".
"– Thôi vừa rồi Đại vương,
Ta đă nhận lời an cư trong mùa mưa rồi".
Rồi này Ananda, Kiki, vua xứ Kasi, suy nghĩ
như sau: "
"– Bạch Thế Tôn,
"– Đại vương, có một thị
trấn tên là Vebhalinga. Tại đấy có thợ gốm
tên là Ghatikara. Người ấy là đàn tín hộ tŕ
của Ta, một đàn tín hộ tŕ tối thượng.
Đại vương, Đại vương có nghĩ
như sau: "
"Một thời, này Đại vương, Ta
ở tại thị trấn Vabhalinga. Rồi này Đại
vương, Ta vào buổi sáng đắp y, cầm y bát,
đi đến cha mẹ của thợ gốm Ghatikara,
sau khi đến nói với cha mẹ thợ gốm Ghatikara
như sau:
"– Người thợ làm đồ gốm
đi đâu ?"
"– Bạch Thế Tôn, người đàn tín
hộ tŕ cho
"Rồi ta, này Đại vương, sau khi
lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn
từ nơi chảo, ăn xong từ chỗ ngồi
đứng dậy rồi đi. Rồi này Đại
vương, thợ gốm Ghatikara đi đến cha
mẹ sau khi đến, nói với cha mẹ như sau:
"– Ai đă lấy cháo từ nơi nồi,
lấy đồ ăn từ nơi chảo, ăn xong
từ chỗ ngồi đứng dậy rồi đi
?"
"– Này con, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, sau khi lấy cháo từ nơi nồi,
lấy đồ ăn từ nơi chảo, ăn xong,
từ chỗ ngồi đứng dậy rồi
đi".
"Rồi này Đại vương, thợ
gốm Ghatikara suy nghĩ như sau: "Thật là lợi
ích cho ta, thật là khéo lợi ích cho ta, đă
được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tin tưởng ta như vậy".
Rồi này Đại vương, cho đến nửa
tháng, hỷ lạc không rời khỏi thợ gốm
Ghatikara, hay cho đến một tuần (không rời
khỏi) cha mẹ (người thợ gốm).
"Một thời, này Đại Vương. Ta
trú ở thị trấn Vebhalinga, lúc bấy giờ, các
cốc bị mưa dột, rồi Ta, này Đại
vương, gọi các Tỷ-kheo:
"– Hăy đi, này các Tỷ-kheo, và xem tại nhà
của thợ gốm Ghatikara có cỏ hay không ?
"Khi được nghe nói vậy, này
Đại vương, các Tỷ-kheo bạch với Ta:
"– Bạch Thế Tôn, tại nhà của
thợ gốm Ghatikara không có cỏ, nhưng nhà
người ấy có mái cỏ".
"– Này các Tỷ-kheo, hăy đi và rút cỏ
từ ngôi nhà thợ gốm Ghatikara.
"Rồi này Đại vương, các
Tỷ-kheo ấy rút cỏ từ ngôi nhà thợ gốm
Ghatikara. Này Đại vương, cha mẹ thợ gốm
Ghatikara nói với các Tỷ-kheo ấy:
"– Quư vị là ai lại rút cỏ ngôi nhà ?"
"– Này Đại tỷ, ngôi nhà của
"– Hăy lấy đi, chư Hiền giả ! Hăy
lấy đi chư Hiền giả ! "
"Rồi này Đại vương, thợ
gốm Ghatikara đi đến cha mẹ, sau khi đến
thưa với cha mẹ như sau:
"– Những ai đă rút cỏ khỏi ngôi nhà
?"
"– Này Con, các Tỷ-kheo có nói: Ngôi nhà của
"Rồi này Đại vương, thợ
gốm Ghatikara suy nghĩ như sau: "Thật là lợi
ích cho ta, thật là khéo lợi ích cho ta đă
được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tin tưởng ta như vậy".
"Rồi này Đại vương, cho
đến nửa tháng hỷ lạc không rời khỏi
thợ gốm Ghatikara, hay cho đến một tuần,
(không rời khỏi) cha mẹ thợ gốm. Rồi
suốt cả ba tháng trời, ngôi nhà đứng lấy
bầu trời làm mái, nhưng không có mưa rơi vào. Và
như vậy, này Đại vương, là người
thợ gốm, Ghatikara.
"– Lợi ích thay, bạch Thế Tôn, cho
thợ gốm Ghatikara; thật khéo lợi ích thay, bạch
Thế Tôn cho thợ gốm Ghatikara, đă được
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tin
tưởng ! "
Rồi này Ananda, Kiki, vua xứ Kasi, cho
người đưa đến thợ gốm Ghatikara,
khoảng năm trăm xe gạo có vỏ, gạo vàng khô và
các món đồ ăn. Rồi này Ananda, những
người nhà vua đi đến thợ gốm Ghatikara
và nói:
"– Này Tôn giả, năm trăm xe gạo có
vỏ, gạo vàng khô và các món đồ ăn này, do Kiki, vua
xứ Kasi, gởi đến cho Tôn giả, mong Tôn giả
hăy nhận lấy".
"– Nhà vua rất nhiều phận sự,
rất nhiều việc cần phải làm. Thật là
vừa đủ cho tôi, được nhà vua nghĩ
đến như thế này".
– Này Ananda, rất có thể Ông suy nghĩ như
sau: "Lúc bây giờ, thanh niên Jotipala có thể là một
người khác". Nhưng này Ananda, chớ có nghĩ
như vậy. Lúc bấy giờ, Ta chính là thanh niên Jotipala.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân
chúng Kuru, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi
đến một thị trấn của dân chúng Kuru tên là
Thullakotthita. Các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita
được nghe như sau: "Sa-môn Gotama là Thích tử,
Tôn giả xuất gia từ ḍng họ Sakya, du hành giữa
dân chúng Kuru nay đă đến Thullakotthita với
đại chúng Tỷ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp
sau đây được nói lên về Tôn giả Gotama:
"Đây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài
với thắng trí tự thân chứng ngộ thế
giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và
Người. Khi đă chứng ngộ, Ngài c̣n tuyên bố
sự chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài
thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, văn nghĩa đầy đủ, và giới
thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp
thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như
vậy".
Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita
đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến,
một số người đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Một số
người nói lên những lời chào đón hỏi
thăm với
Lúc bấy giờ, một Thiện nam tử tên là
Ratthapala, con trai một gia đ́nh thượng tộc
ở chính tại Thullakotthita ấy, đang ngồi trong
hội chúng này. Rồi Thiện nam tử Ratthapala suy
nghĩ như sau: "Như ta được hiểu
lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia
đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh
hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như
vỏ ốc. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh". Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita,
sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khích
lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng
về Ngài rồi ra đi. Thiện nam tử Ratthapala sau khi
các Bà-la-môn, gia chủ ra đi không bao lâu, liền đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi
ngồi xuống một bên, Thiện nam tử Ratthapala
bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, như con được
hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống
tại gia đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm
hạnh, hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng
bạch như vỏ ốc. Con muốn, bạch Thế
Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới
sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ
đại giới.
– Nhưng này Ratthapala, Ông có được cha
mẹ bằng ḷng cho Ông xuất gia chưa ?
– Bạch Thế Tôn, con chưa được cha
mẹ bằng ḷng cho con xuất gia.
– Này Ratthapala, Như Lai không có cho ai xuất gia
nếu không được cha mẹ người ấy
bằng ḷng.
– Như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ làm
những ǵ cần thiết để cha mẹ bằng ḷng
cho con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh.
Rồi Thiện nam tử Ratthapala từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi,
đi đến cha mẹ, sau khi đến liền
thưa với cha mẹ:
– Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu
lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia
đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh
hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như
vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Hăy bằng ḷng cho con được xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Khi được nghe nói vậy, cha mẹ Thiên
nam tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con
độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ
thương, được sống trong an lạc, được
nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con
không biết ǵ về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapala
hăy đến ăn, hăy uống và hăy ăn chơi. Ăn,
uống, ăn chơi, Con có thể thụ hưởng các
ái dục và sung sướng làm các phước đức.
Chúng ta không bằng ḷng cho Con được xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Con
có chết, chúng ta c̣n không muốn không có mặt Con,
huống nay Con c̣n sống, chúng ta lại bằng ḷng cho Con
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh !
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ
ba, Thiện nam tử Ratthapala thưa với mẹ cha:
– Thưa Mẹ và Cha, như con được
hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống
tại gia thật không dễ ǵ thực hành Phạm
hạnh, hoàn toàn viên măn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng
bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Hăy bằng ḷng cho con
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh.
Lần thứ ba, cha mẹ Thiện nam tử
Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con
độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ
thương, được sống trong an lạc,
được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu
Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Này con thân
yêu Ratthapala, hăy đến ăn, hăy sống và hăy vui
chơi. Ăn, uống, vui chơi, Con có thể thụ
hưởng các ái dục và sung sướng làm các
phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không
muốn không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng ta
lại bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !
Rồi Thiện nam tử Ratthapala không
được cha mẹ cho xuất gia, liền ngay tại
chỗ ấy nằm xuống trên đất trần và nói:
– Ta sẽ chết ở đây, hay
được xuất gia.
Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala nói
với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con
độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ
thương, được sống trong an lạc,
được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu
Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Hăy
đứng dậy, này con thân yêu Ratthapala, hăy ăn, hăy
uống, hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Con có
thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng
làm các phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con
được xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn
không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng ta lại
bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh !
Khi được nghe nói vậy, Thiện nam
tử Ratthapala giữ im lặng. Lần thứ hai...
(như trên)... Lần thứ ba, cha mẹ Thiện nam
tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con
độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ
thương, sống trong an lạc, được nuôi
dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con không
biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, này
con thân yêu Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi.
Ăn, uống, vui chơi, Con có thể thụ hưởng
cái ái dục và sung sướng làm các phước
đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con được
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn không có
mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng Ta lại
bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh !
Lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapala
giữ im lặng.
Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala
liền đi đến các thân hữu của Thiện nam
tử Ratthapala, và nói:
– Này các Thân hữu, Thiện nam tử Ratthapala
nằm trên đất trần và nói: "Ở đây, ta
sẽ chết, hay được xuất gia". Này các Con
thân mến, hăy đi đến Thiện nam tử Ratthapala,
sau khi đến hăy nói với Thiện nam tử Ratthapala:
"Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc nhất
của cha mẹ, khả ái, dễ thương,
được sống trong an lạc, được nuôi
dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không
biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy
bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn,
uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng
các ái dục và sung sướng làm phước đức,
cha mẹ không bằng ḷng cho Bạn được
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Nếu Bạn có chết đi, cha mẹ c̣n không
muốn không có mặt Bạn, huống nay Bạn c̣n
sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho Bạn
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh ! "
Rồi những người bạn của
Thiện nam tử Ratthapala vâng theo lời cha mẹ của
Thiện nam tử Ratthapala, đi đến chỗ
Thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến liền nói:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc
nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương,
được sống trong an lạc, được nuôi
dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không
biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy,
bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn,
uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng
các ái dục và sung sướng làm các phước
đức. Cha mẹ không bằng ḷng cho phép Bạn
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Nếu Bạn có chết đi, cha
mẹ c̣n không muốn không có mặt Bạn, huống nay
Bạn c̣n sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho
Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh !
Khi được nghe nói vậy, Thiện nam
tử Ratthapala giữ im lặng. Lần thứ hai...
(như trên)... Lần thứ ba, những người
bạn của Thiện nam tử Ratthapala, nói với
Thiện nam tử Ratthapala:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc
nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương,
được sống trong an lạc, được nuôi
dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không
biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy,
bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn
uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng
các ái dục, và sung sướng làm các phước
đức. Cha mẹ không bằng ḷng cho phép Bạn
được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Nếu Bạn chết đi, cha
mẹ c̣n không muốn không có mặt Bạn, huống nay
Bạn c̣n sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho
phép Bạn được xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh !
Lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapala
giữ im lặng.
Rồi các thân hữu của Thiện nam tử
Ratthapala đi đến cha mẹ Thiện nam tử
Ratthapala, sau khi đến liền thưa:
– Thưa Mẹ và Cha, Thiện nam tử Ratthapala
đang nằm xuống trên đất trần kia và nói:
"Ở đây, ta sẽ chết, hay được
xuất gia". Nếu Cha Mẹ không bằng ḷng cho
Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, thời Ratthapala sẽ
chết ở tại chỗ ấy. C̣n nếu Cha Mẹ
bằng ḷng cho Thiện nam tử Ratthapala xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, thời Cha
Mẹ có thể thấy Ratthapala sau khi xuất gia. Nếu
Thiện nam tử Ratthapala không cảm thấy hoan hỷ
trong khi xuất gia tử bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh, thời Ratthapala không c̣n con đường nào
đi khác hơn. Ratthapala sẽ trở lại ở
đây. Hăy bằng ḷng cho phép Thiện nam tử Ratthapala
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh.
– Này các con thân mến, chúng ta bằng ḷng cho phép
Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, nhưng sau khi xuất gia,
cần phải về thăm cha mẹ.
Rồi những thân hữu của Thiện nam
tử Ratthapala, đi đến Thiện nam tử
Ratthapala, sau khi đến, liền nói:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc
nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương,
sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong
an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không biết ǵ về
đau khổ. Hăy đứng dậy, ăn, uống, và vui
chơi. Ăn, uống, vui chơi, Bạn có thể thụ
hưởng các ái dục, và sung sướng làm các
phước đức. Cha mẹ Bạn đă bằng ḷng
cho phép được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh, và sau khi xuất gia, cần phải
về thăm cha mẹ.
Rồi thiện nam tử Ratthapala, sau khi
đứng dậy, sau khi lấy lại sức lực,
liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Thiện nam tử
Ratthapala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con đă được
mẹ cha bằng ḷng cho phép con được xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Thế Tôn
hăy xuất gia cho con.
Và Thiện nam tử Ratthapala được
xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế
Tôn và được thọ đại giới.
Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Ratthapala
thọ đại giới không bao lâu, nửa tháng sau khi
thọ đại giới, sau khi ở tại Thullakotthita
cho đến khi thỏa măn, liền khởi hành đi
đến Savatthi, tuần tự du hành và đến
Savatthi. Ở đấy, Thế Tôn trú tại Savatthi,
Jetavana, tu viện của Anathapindika. Rồi Tôn giả
Ratthapala sống một ḿnh, viễn ly, không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh tấn, không bao lâu đạt
được mục đích mà các Thiện nam tử
chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh hướng đến, tức là tự
chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và
an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh
Phạm hạnh. Vị ấy biết: "Sanh đă
tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm
đă làm, không c̣n phải trở lui ở đời này
nữa". Tôn giả Ratthapala trở thành một vị
A-la-hán nữa.
Rồi Tôn giả Ratthapala đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ratthapala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con muốn đi thăm cha
mẹ, nếu Thế Tôn cho phép con.
Thế Tôn với tâm của ḿnh t́m hiểu tâm
tư Tôn giả Ratthapala. Khi Thế Tôn được
biết Thiện nam tử Ratthapala không thể từ
bỏ tu học, trở lại hoàn tục, liền nói
với Tôn giả Ratthapala:
– Này Ratthapala, nay Ông hăy làm những ǵ Ông nghĩ là
hợp thời.
Rồi Tôn giả Ratthapala từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
hữu hướng về Thế Tôn, sau khi thâu xếp
chỗ ở, cầm y bát và khởi hành đi đến
Thullakotthita, tuần tự du hành và đến Thullakotthita.
Ở đấy, Tôn giả Ratthapala trú tại vườn
Lộc Uyển của vua Koravya. Rồi tôn giả Ratthapala
vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Thullakotthita
để khất thực. Tôn giả đi khất
thực từng nhà một ở Thullakotthita và đến
tại nhà người cha ḿnh. Lúc bấy giờ
người cha của Tôn giả Ratthapala đang chải
tóc ở giữa gian pḥng có cửa. Người cha của
Tôn giả Ratthapala thấy Tôn giả Ratthapala từ xa
đi đến, và nói.
– Chính v́ những Sa-môn đầu trọc này mà
đứa con độc nhất của chúng ta, khả ái,
dễ thương đă xuất gia.
Và Tôn giả Ratthapala từ ngôi nhà của cha ḿnh,
không được bố thí, không nhận được
lời từ chối chỉ nhận được
lời sĩ nhục.
Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân
gia của Tôn giả Ratthapala muốn quăng đổ cháo
ngày hôm qua. Tôn giả Ratthapala nói với người nữ
tỳ ấy:
– Này Chị, nếu cần phải quăng
đổ cháo này, hăy đổ vào bát của tôi ở
đây.
Rồi người nữ tỳ, trong khi
đổ cháo ngày hôm qua ấy vào bát của Tôn giả
Ratthapala, nhận diện được tướng tay,
chân và giọng nói của Tôn giả. Người nữ tỳ
liền đi đến người mẹ của Tôn
giả Ratthapala, sau khi đến nói với người
mẹ của Tôn giả Ratthapala:
– Thưa tôn mẫu, tôn mẫu có biết chăng,
cậu ấm (ayyaputta) Ratthapala đă trở về.
– Nếu Ngươi nói đúng sự thật,
Ngươi sẽ được thoát khỏi phận nô
tỳ.
Rồi mẹ Tôn giả Ratthapala đi đến
cha Tôn giả Ratthapala và nói:
– Thưa Gia chủ, Gia chủ có biết chăng,
Thiện nam tử Ratthapala đă trở về.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Ratthapala đang
ăn cháo ngày hôm qua ấy, ngồi dựa vào một
bức tường. Rồi người cha đến
tại chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến
liền nói với Tôn giả Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, có phải Con đang ăn
cháo ngày hôm qua ? Này con thân yêu Ratthapala, Con phải vào nhà
của Con.
– Thưa Gia chủ, chỗ nào là nhà của chúng
tôi, những người xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh ? Chúng tôi là những
người không gia đ́nh, thưa Gia chủ ! Chúng tôi có
đến nhà của Gia chủ, thưa Gia chủ, nhưng
tại đấy, chúng tôi không nhận được
bố thí, không nhận được lời từ
chối, chỉ nhận được lời sỉ
nhục.
– Hăy đi vào nhà, này con thân yêu Ratthapala.
– Thưa Gia chủ, thôi vừa rồi ! Hôm nay tôi
đă ăn xong.
– Vậy này con thân yêu Ratthapala, hăy nhận lời
mời ngày mai đến dùng cơm.
Tôn giả Ratthapala im lặng nhận lời.
Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala, sau khi
được biết Tôn giả Ratthapala đă nhận
lời liền về đến nhà của ḿnh, cho chất
vàng nén và tiền vàng thành một đống lớn,
lấy màn che lại, và cho gọi các người vợ
cũ của Tôn giả Ratthapala:
– Này các Con dâu, hăy tự trang điểm với
những trang điểm mà xưa kia các Con được
Thiện nam tử Ratthapala ái lạc và ưa thích.
Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala,
sau khi đêm ấy đă măn, sau khi cho sửa soạn trong
nhà của ḿnh, các món ăn thượng vị loại
cứng và loại mềm, liền báo giờ cho Tôn giả
Ratthapala:
– Đă đến giờ, này con thân yêu Ratthapala,
cơm đă sẵn sàng.
Rồi Tôn giả Ratthapala vào buổi sáng
đắp y, cầm bát đi đến ngồi nhà của
người cha ḿnh, sau khi đến ngồi xuống trên
chỗ đă soạn sẵn. Rồi người cha
của Tôn giả Ratthapala cho tŕnh bày ra đống vàng nén và
tiền vàng và nói với Tôn giả Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, đây là tiền tài
của mẹ, kia là tiền tài của cha, kia là tiền tài
của tổ tiên. Này con thân yêu Ratthapala, Con có thể
thụ hưởng tài vật và làm các phước
đức. Này con thân yêu Ratthapala, hăy từ bỏ tu
học, hoàn tục thụ hưởng các tài vật và làm
các phước đức.
– Thưa Gia chủ, nếu Gia chủ làm theo
lời nói của tôi, sau khi chồng chất đống
vàng nén và tiền vàng này vào trong các xe, sau khi cho chở và
hạ xuống giữa sông Hằng, hăy đổ
đống vàng này vào giữa ḍng sông. V́ sao vậy ? Này Gia
chủ, v́ do nhân duyên này, mà sầu, bi, khổ, ưu, năo
sẽ khởi lên cho Gia chủ.
Rồi những người vợ cũ của
Tôn giả Ratthapala ôm mỗi chân (Tôn Giả) và nói:
– Thưa Phu quân (ayyaputtaka) v́ Thiên nữ nào mà Phu
quân sống Phạm hạnh ?
– Các Bà chị, không phải v́ Thiên nữ nào mà
chúng tôi sống Phạm hạnh.
– Phu quân Ratthapala đối với chúng ta gọi
chúng ta là bà chị.
Nói lên như vậy, (các người vợ
cũ) liền ngă xuống đất, bất tỉnh.
Rồi Tôn giả Ratthapala nói với phụ thân:
– Thưa Gia chủ, nếu Gia chủ muốn
bố thí đồ ăn thời hăy bố thí đi,
chớ có phiền nhiễu chúng tôi.
– Hăy ăn, này con thân yêu Ratthapala, cơm đă
sẵn sàng.
Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala
tự tay thân mời và làm cho thỏa măn Tôn giả Ratthapala
với các món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm.
Rồi Tôn giả Ratthapala sau khi ăn xong, tay
đă rời khỏi bát, đứng dậy và nói bài kệ
sau đây:
Hăy nh́n h́nh bóng trang
sức này,
Một nhóm vết
thương được tích tụ,
Bệnh nhiều,
tham tưởng cũng khá nhiều,
Nhưng không ǵ kiên
cố, thường trú.
Hăy nh́n dung mạo
trang sức này,
Với các châu báu,
với ṿng tai,
Một bộ
xương được da bao phủ,
Được y
phục làm cho sáng chói.
Chân
được sơn với son với sáp,
Mặt
được thoa với phấn, với bột,
Vừa đủ
làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô
phương kẻ cầu bờ giác.
Tóc được
uốn bảy ṿng, bảy lớp,
Mắt
được xoa với thuốc, với son,
Vừa đủ
làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô
phương kẻ cầu bờ giác.
Như hộp
thuốc trang hoàng mới mẻ,
Là uế thân
được điểm thời trang,
Vừa đủ
làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô
phương kẻ cầu bờ giác.
Người
thợ săn đặt bày lưới sập,
Loài nai (khôn)
chẳng chạm bén chân,
Ăn lúa xong, chúng
ta lên đường,
Mặc cho kẻ
bắt nai than khóc.
Tôn giả Ratthapala đọc bài kệ xong
đứng dậy, liền đi đến vườn
Lộc Uyển của vua Koravya, sau khi đến liền
ngồi xuống nghỉ trưa dưới một gốc
cây.
Rồi vua Koravya nói với người thợ
săn:
– Này Thợ Săn, hăy dọn dẹp đất
vườn ở Lộc Uyển, ta muốn đi thăm
viếng cảnh đẹp.
– Thưa vâng, Đại vương.
Người thợ săn vâng đáp vua Koravya,
trong khi dọn dẹp vườn Nai, thấy Tôn giả
Ratthapala đang ngồi dưới gốc cây để
nghỉ trưa. Sau khi thấy vậy, người ấy
liền đến vua Koravya, sau khi đến liền tâu
vua Koravya:
– Tâu Đại vương, vườn Nai đă
được dọn dẹp. Và ở đấy có
Thiện nam tử tên là Ratthapala là con một thế gia
ở Thullakotthita mà Đại vương thường hay
tán thán, vị ấy đang ngồi dưới một
gốc cây để nghỉ trưa.
– Này Thợ săn, hôm nay thế là vừa
đủ về vườn cảnh. Nay chúng ta muốn cung
kính cúng dường Tôn giả Ratthapala.
Rồi vua Koravya, sau khi nói: "Ở đây, hăy
đem bố thí tất cả món ăn đă soạn
sẵn, loại cứng và loại mềm", ra lệnh
cho thắng nhiều cỗ xe thù thắng, leo lên một
cỗ xe thù thắng, liền cùng với các cỗ xe đi
ra khỏi Thullakotthita để yết kiến Tôn giả
Ratthapala với đại uy phong của bậc đế
vương. Sau khi cỡi xe cho đến chỗ
đất c̣n có thể cỡi xe được, Ngài
xuống xe, đi bộ, cùng với hàng tùy tùng vương
hầu, đến chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm
với Tôn giả Ratthapala, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng
một bên. Đứng một bên, vua Koravya bạch Tôn
giả Ratthapala:
– Ở đây xin mời Tôn giả Ratthapala
ngồi xuống trên nệm voi.
– Thôi vừa rồi, Đại vương !
Đại vương hăy ngồi. Tôi đă ngồi trên
chỗ ngồi của tôi.
Rồi vua Koravya ngồi trên chỗ ngồi đă
soạn sẵn. Sau khi ngồi, vua Koravya bạch Tôn giả
Ratthapala:
– Bạch Tôn giả Ratthapala, có bốn sự suy
vong này. Chính do thành tựu bốn sự suy vong này mà ở
đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Thế nào là bốn ? Lăo suy vong, bệnh suy vong, tài sản
suy vong, thân tộc suy vong. Này Tôn giả Ratthapala, thế nào
là lăo suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có
người niên cao, lạp lớn, đă đến
tuổi trưởng thượng, đă sống măn
kỳ, đă gần mệnh chung. Vị ấy suy tư
như sau: "Nay ta đă già, niên cao lạp lớn, đă
đến tuổi trưởng thượng, đă
sống măn kỳ, đă gần mệnh chung. Thật không
dễ ǵ cho ta thâu được các tài vật chưa thâu
hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài
vật đă thâu hoạch. Vậy ta hăy cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh". Vị này, do thành tựu lăo suy
vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Như
vậy, thưa Tôn giả Ratthapala được gọi là
lăo suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala nay c̣n trẻ, niên
thiếu, c̣n thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân,
trong sơ kỳ tuổi đời; Tôn giả Ratthapala
đâu có lăo suy vong ? Vậy Tôn giả Ratthapala đă
biết ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?
Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là bệnh
suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala, có
người bị bệnh, khổ đau, mang trọng
bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị
bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh, thật không
dễ ǵ cho ta thâu được các tài vật chưa thâu
hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài
vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do
thành tựu bệnh suy vong nên cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala,
được gọi là bệnh suy vong. Nhưng Tôn giả
Ratthapala nay ít bệnh, ít năo, tiêu hóa được
điều ḥa, không quá lạnh, không quá nóng; Tôn giả
Ratthapala đâu có bệnh suy vong ? Tôn giả Ratthapala đă
biết ǵ, đă thấy ǵ hay đă nghe ǵ mà xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?
Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là tài
sản suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có
người giàu sang, tiền của nhiều, tài vật
nhiều, và những tài vật của vị ấy dần
dần đi đến chỗ suy vong. Vị ấy suy
nghĩ như sau: "Ta trước đây giàu sang,
tiền của nhiều, tài sản nhiều. Những tài
vật ấy của ta dần dần đă đi
đến suy vong. Thật không dễ ǵ cho ta thâu
được những tài vật chưa thâu hoạch
được, hay làm cho tăng trưởng những tài
vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do
thành tựu tài suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala
được gọi là tài suy vong. Nhưng Tôn giả
Ratthapala chính tại Thullakotthita này, là con của một
lương gia đệ nhất; Tôn giả Ratthapala đâu
có tài sản suy vong ? Tôn giả Ratthapala đă biết ǵ,
đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?
Và này Tôn giả Ratthapala, thế nào là thân tộc
suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có
người có nhiều thân hữu quen biết, bà con
huyết thống, những thân hữu quyến thuộc
của người ấy dần dần đi đến
chỗ suy vong. Người ấy suy tư như sau:
"Trước kia, ta có nhiều người thân hữu
quen biết, bà con huyết thống. Những thân hữu
quyến thuộc ấy của ta dần dần đi
đến chỗ suy vong. Thật không dễ ǵ cho ta thâu
được những tài vật chưa thâu hoạch
được, hay làm cho tăng trưởng những tài
vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do
thành tựu thân tộc suy vong nên cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả
Ratthapala, được gọi là thân tộc suy vong.
Nhưng Tôn giả Ratthapala ở chính tại Thullakotthita này,
có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống,
Tôn giả Ratthapala đâu có thân tộc suy vong ? Vậy Tôn
giả Ratthapala đă biết ǵ, đă thấy ǵ hay đă
nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh ?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, đây là bốn
loại suy vong, do thành tựu bốn loại suy vong này mà
ở đây, có người cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh; Tôn giả Ratthapala đâu có
những loại ấy ? Vậy Tôn giả đă biết
ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?
– Thưa Đại vương, có bốn sự
thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe
thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh. Thế nào là bốn ?
"Thế giới là vô thường, đi
đến hủy diệt", thưa Đại
vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ nhất,
do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng. Do tôi
biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi
xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh. "Thế giới là vô hộ, vô chủ",
thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh
pháp thứ hai, do Thế Tôn, bậc Tri Giả. Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết
giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo
ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh. "Thế giới là vô sở hữu, ra
đi cần phải từ bỏ tất cả",
thưa Đại vương đó là thuyết giáo Chánh
pháp thứ ba, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết
giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo
ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống
không gia đ́nh. "Thế giới là thiếu thốn, khao
khát, nô lệ cho tham ái", thưa Đại vương,
đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ tư, do Thế Tôn,
bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi
thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Thưa
Đại vương, đây là bốn sự thuyết
giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe
thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh.
– Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới
là vô thường đi đến hủy diệt, " ư
nghĩa của lời nói này cần phải
được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả
Ratthapala ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Khi Ngài 20 tuổi, hay 25
tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ
về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ
về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế
mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện
nghệ trong nghề đánh giặc?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, khi tôi được
20 hay 25 tuổi, tôi thiện nghệ về voi, tôi thiện
nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện
nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp
vế mạnh, và cánh tay mạnh, có khả năng và
thiện nghệ trong nghề đánh giặc. Có đôi lúc,
thưa Tôn giả Ratthapala, tôi cảm thấy có thần
lực và xem không ai có thể bằng tôi về sức
mạnh.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nay Đại vương
vẫn c̣n bắp vế mạnh, cánh tay mạnh, có khả
năng và thiện nghệ đánh giặc như vậy
không ?
– Không như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala,
nay tôi đă già, niên cao, lạp lớn, đă đến
tuổi trưởng thượng, đă sống măn
kỳ, đă gần mệnh chung, gần 80 tuổi
thọ. Có đôi lúc, thưa Tôn giả Ratthapala, tôi nghĩ:
"Ở đây, ta sẽ bước chân", nhưng tôi
lại bước chân tại chỗ khác.
– Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại
vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói:
"Thế giới là vô thường, đi đến
hủy diệt", và tôi sau khi biết, sau khi thấy và
sau khi nghe như vậy đă xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh.
– Thật vi diệu thay, Tôn Giả Ratthapala !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, Bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói:
"Thế giới là vô thường, đi đến
hủy diệt". Thật vậy, thưa Tôn giả
Ratthapala, thế giới là vô thường, đi
đến hủy diệt. Nhưng thưa Tôn giả
Ratthapala, ở vương quốc này, có đội quân voi,
cũng có đội quân ngựa, cũng có đội quân
xa, cũng có đội quân bộ, nếu chúng tôi gặp
nguy khốn thời các đội quân bảo vệ chúng
tôi. Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là vô
hộ, vô chủ", ư nghĩa của lời nói này,
cần phải được hiểu như thế nào,
thưa Tôn giả Ratthapala ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Đại vương có
mắc chứng bệnh kinh niên nào không ?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi có bệnh phong kinh
niên. Nhiều khi, thân hữu quen biết, bà con huyết
thống đứng xung quanh tôi và nói: "Nay vua Koravya
sẽ mệnh chung, nay vua Koravya sẽ mệnh chung".
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Đại vương có
thể nói chăng, với các thân hữu quen biết, bà con
huyết thống của Đại vương: "Mong
rằng Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết
thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi !
Mong tất cả hăy san sẻ cảm thọ này, để
tôi có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng
hơn"; hay là Đại vương chỉ có thể
thọ lănh cảm thọ ấy một ḿnh ?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi không có thể nói
với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống
của tôi: "Mong rằng các Tôn giả thân hữu quen
biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự
đau khổ của tôi. Mong tất cả hăy san sẻ
cảm thọ này để có thể có một cảm
thọ nhẹ nhàng hơn"; và tôi chỉ có thể
thọ lănh cảm thọ ấy một ḿnh".
– Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại
vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: "Thế
giới là vô hộ, vô chủ", và tôi sau khi biết, sau
khi thấy và sau khi nghe như vậy đă xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này
được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói:
"Thế giới là vô hộ, vô chủ". Thật
vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là vô
hộ, vô chủ. Nhưng thưa Tôn giả Ratthapala, ở
vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền
vàng dưới đất và trên mặt đất". Tôn
giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là vô sở
hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất
cả". Ư nghĩa của lời nói này cần phải
được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả
Ratthapala ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Dầu cho nay Đại
vương sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm
món dục trưởng dưỡng, Đại
vương có thể nói được như sau: "Chính
như vậy, tôi thọ hưởng măn túc, cụ túc
năm món dục trưởng dưỡng này"; hay là
người khác sẽ thọ hưởng tài sản này,
c̣n Đại vương sẽ phải đi theo
nghiệp của ḿnh ?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, dầu cho nay tôi
sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm món
dục trưởng dưỡng. Tôi không có thể nói
được như sau: "Chính như vậy tôi thọ
hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng
này". Chính người khác sẽ thọ hưởng tài
sản này, c̣n tôi phải đi theo nghiệp của tôi.
– Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại
vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói:
"Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra
đi, từ bỏ tất cả". Và tôi sau khi biết,
sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đă xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này
được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói:
"Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra
đi, từ bỏ tất cả". Thật vậy
thưa Tôn giả Ratthapala thế giới là vô sở
hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất
cả. Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là
thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái". Ư nghĩa
của lời nói này cần phải được
hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Có phải Đại
vương trị v́ ở Kuru, một nước phồn
thịnh ?
– Thưa vâng, Tôn giả Ratthapala. Tôi trị v́
ở Kuru, một nước phồn thịnh.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có người
đáng tin cậy, chánh trực đến với
Đại vương từ phương Đông, và sau khi
đến tâu với Đại Vương: "Tâu
Đại vương, Đại vương có biết
chăng ? Tôi từ phương Đông lại. Ở
đấy, tôi có thấy một quốc độ lớn,
phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật.
Tại đấy có nhiều đội voi, đội
ngựa, đội xe, bộ đội. Tại
đấy có nhiều ngà voi, tại đấy có nhiều
vàng nén, tiền vàng chưa làm và đă làm, có nhiều
phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ
ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu
Đại vương, hăy đi chinh phục !"
Đại vương sẽ hành động như thế
nào ?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục,
quốc độ ấy tôi sẽ trị v́.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào? Ở đây có người
đến với Đại vương từ
phương Tây ... (như trên) ... từ phương
Bắc ... (như trên) ... từ phương Nam ... (như
trên) ... từ bờ biển bên kia, người ấy
đáng tin cậy, chánh trực, tâu với Đại
vương: "Tâu Đại vương, Đại
vương có biết chăng? Tôi từ bờ biển bên
kia lại. Ở đây, tôi thấy có một quốc
độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân
cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội
voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội.
Tại đấy có nhiều ngà voi. Tại đấy có
nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đă làm, có
nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc
độ ấy với vũ lực như thế ấy.
Tâu Đại vương , hăy đi chinh phục".
Đại vương sẽ hành động như thế
nào?
– Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục, tôi
sẽ trị v́.
– Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại
vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói:
"Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ
cho tham ái, " và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe
như vậy, đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói:
"Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho
tham ái". Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala,
thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham
ái.
Tôn giả Ratthapala đă giảng như vậy,
sau khi giảng như vậy xong, lại nói thêm như sau:
Ta thấy
người giàu sang ở đời,
Có của v́ si không
bố thí.
V́ tham, họ tích
tụ tài vật,
Và chạy theo
dục vọng càng nhiều.
Dùng bạo
lực, chinh phục quả đất,
Vua trị v́ cho
đến hải biên,
Không thỏa măn
bờ biển bên này,
Và chạy theo
bờ biển bên kia.
Vua cùng rất
nhiều loại người khác,
Ái chưa ly,
mạng chung đă đến,
Bị thiếu
thốn, không bỏ thân họ,
Không thỏa măn
ḷng dục ở đời.
Quyến thuộc
tán loạn, khóc người ấy:
"Than ôi,
người ấy không bất tử ! ".
Mạng thân
người ấy vải bao phủ,
Họ đốt
lửa làm lễ hỏa thiêu.
Bị thọc
với cây, người ấy cháy,
Độc
mảnh vải, bỏ tiền của lại.
Ở đây,
quyến thuộc cùng thân hữu,
Không nơi
nương tựa cho kẻ chết.
Kẻ thừa
tự, nhận mang tài sản,
Riêng con
người, theo nghiệp phải đi,
Tiền của
đâu có theo người chết,
Cả vợ con,
tài sản, quốc độ.
Tài sản không mua
được trường thọ,
Phú quư không tránh
được già suy,
Kẻ trí nói
đời này thật ngắn,
Thật vô
thường, biến đổi luôn luôn.
Kẻ giàu, kẻ
nghèo đều cảm xúc,
Người ngu,
kẻ trí đồng cảm thọ,
Kẻ ngu bị
ngu đánh nằm ngă,
Bậc trí cảm
xúc, không run sợ.
Do vậy, trí
tuệ thắng tài vật,
Nhờ trí, ở
đây được viên thành.
Không thành măn trong
hữu, phi hữu,
Kẻ ngu tạo
tác các ác nghiệp.
Nhập thai thác
sanh thế giới khác,
Người
ấy luân hồi, tiếp tục sanh,
Kẻ thiểu trí
chắc hẳn phải là
Nhập thai và sanh
thế giới khác.
Như kẻ
trộm bị bắt khi trộm,
Ác tánh hại ḿnh
do tự nghiệp,
Chúng sanh cũng
vậy chết đời khác,
Ác tánh hại ḿnh,
do tự lực.
Dục vọng
nhiều loại, ngọt, khả ái,
Nhiễu loạn
tâm dưới nhiều h́nh thức,
Thấy hoạn
nạn trong dục trưởng dưỡng,
Nên tôi xuất gia,
tâu Đại vương !
Như quả
từ đây, người bị rụng,
Cả già lẫn
trẻ, khi thân hoại,
Do thấy chính
vậy, tôi xuất gia,
Hạnh Sa-môn
phải là tối thắng,
Thưa Đại
vương !