Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
83. KINH MAKHADEVA [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Mithila (Di-tát-la), tại rừng Makhadevamba.
– Bạch Thế Tôn, do nhân ǵ, do duyên ǵ Thế Tôn
lại mỉm cười. Không phải không lư do khiến
Thế Tôn mỉm cười.
– Thuở xưa, này Ananda, vị vua chính
nước Mithila này tên là Makhadeva, là vị pháp vương
như pháp, kiên tŕ trên pháp, vị Đại vương
thực hành Chánh pháp, giữa các Bà-la-môn, gia chủ, giữa
thị dân và thôn dân, hành tŕ lễ Uposatha (Bố-tát) vào các
ngày 14, ngày 15 và ngày mồng 8. Rồi này Ananda, vua Makhadeva sau
nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn
năm, bảo người thợ cạo tóc:
"– Này Thợ cạo tóc, khi nào Ông
thấy trên đầu ta, có mọc tóc bạc, hăy báo cho ta
biết".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
Này Ananda, người thợ cạo tóc vâng đáp
vua Makhadeva. Này Ananda, sau nhiều năm, nhiều trăm
năm, nhiều ngàn năm, người thợ cạo tóc
thấy trên đầu vua Makhadeva có sanh tóc bạc, thấy
vậy liền tâu vua Makhadeva:
"–
"– Vậy này Thợ cạo tóc, hăy khéo nhổ
những sợi tóc bạc ấy với cái nhíp, và
đặt chúng trên bàn tay của ta".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
"–
Rồi này Ananda, vua Makhadeva, sau khi cho người
thợ cạo tóc một lương ấp (như là
một ân tứ) sau khi khéo giao quốc gia cho hoàng tử con
đầu, chính tại rừng xoài Makhadeva này, sau khi cạo
bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, vua Makhadeva đă xuất
gia. Vị này an trú, biến măn một phương với
tâm thấm nhuần ḷng từ; cũng vậy phương
thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng
vậy phương thứ tư. Như
vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề
ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú, biến măn với tâm thấm
nhuần ḷng từ, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Với tâm thấm nhuần ḷng bi... với
tâm thấm nhuần ḷng hỷ,... an trú biến măn một
phương với tâm thấm nhuần ḷng xả; cũng
vậy phương thứ hai, cũng vậy phương
thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như
vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề
ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến măn với tâm thấm
nhuần ḷng xả, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Nhưng này Ananda, vua Makhadeva, tám vạn
bốn ngàn năm, đă chơi tṛ chơi của hoàng
tử, tám vạn bốn ngàn năm, đă trị v́ như
một phó vương; tám vạn bốn ngàn năm, đă
chấp chánh như một quốc vương; tám vạn
bốn ngàn năm, chính tại ngôi rừng xoài Makhadeva này,
sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa đă xuất
gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, sống
theo Phạm hạnh. Vị này, sau khi tụ tập bốn
Phạm trú, khi thân hoại mạng
Rồi này Ananda, con vua Makhadeva, sau nhiều năm,
nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi
người thợ cạo tóc:
"– Này thợ cạo tóc, khi nào Ông
thấy trên đầu Ta có mọc tóc bạc, hăy báo cho ta
biết".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
Này Ananda người thợ cạo tóc vâng đáp
con vua Makhadeva. Này Ananda, sau nhiều năm, nhiều trăm
năm, nhiều ngàn năm người thợ cạo tóc
thấy trên đầu con vua Makhadeva có sanh tóc bạc,
thấy vậy liền tâu với con vua Makhadeva:
"–
"– Vậy này Thợ cạo tóc, hăy khéo nhổ
những sợi tóc bạc ấy với cái nhíp, và
đặt chúng trên bàn tay của ta".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
"–
Rồi này Ananda, con vua Makhadeva, sau khi cho
người thợ cạo tóc một lương ấp
(như một ân tứ), sau khi khéo giao quốc gia cho vị
hoàng tử con đầu, chính tại rừng xoài này, con vua
Makhadeva sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, đă
xuất gia, vị này an trú, biến măn một phương
với tâm thấm nhuần ḷng từ; cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy, phương thứ
ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy
cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến măn với tâm thấm
nhuần ḷng từ, quảng đại vô biên, không hận,
không sân. Với tâm thấm nhuần ḷng bi... với tâm
thấm nhuần ḷng hỷ... an trú biến măn một
phương với tâm thấm nhuần ḷng xả; cũng
vậy phương thứ hai, cũng vậy phương
thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm
thấm nhuần ḷng xả, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Nhưng này Ananda, con vua Makhadeva tám
vạn bốn ngàn năm, đă chơi tṛ chơi của
hoàng tử; tám vạn bốn ngàn năm, đă trị v́
như một phó vương; tám vạn bốn ngàn năm,
đă chấp chánh như một quốc vương; tám
vạn bốn ngàn năm, chính tại ngôi rừng xoài này,
con vua Makhadeva sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia
đ́nh, sống theo Phạm hạnh. Vị này, sau khi tu
tập bốn Phạm trú, khi thân hoại mạng
Rồi này Ananda, các tử tôn của vua Makhadeva
truyền nối tiếp tục vua ấy, sau tám vạn
bốn ngàn năm làm vương tộc (Khattiya), chính
tại ngôi rừng xoài Makhadeva này, sau khi cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa đă xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, các vị ấy biến măn
một phương với tâm thấm nhuần ḷng từ
và an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng
vậy phương thứ ba, cũng vậy phương
thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới,
trên dưới bề ngang, hết thảy phương
xứ, cùng khắp biên giới, vị ấy an trú biến
măn với tâm thấm nhuần ḷng từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân, với tâm thấm nhuần
ḷng bi... ... với tâm thấm nhuần ḷng hỷ... ... an
trú, biến măn một phương với tâm thấm
nhuần ḷng xả; cũng vậy phương thứ hai,
cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
những vị ấy an trú biến măn với tâm thấm
nhuần ḷng xả, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Vị ấy tám vạn bốn ngàn năm
đă chơi tṛ chơi của hoàng tử, tám vạn
bốn ngàn năm, đă trị v́ như một phó
vương; tám vạn bốn ngàn năm, đă chấp
chánh như một quốc vương; tám vạn bốn
ngàn năm, chính tại ngôi rừng xoài Makhadeva này, sau khi
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, đă xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, sống
theo Phạm hạnh. Các vị ấy, sau khi tu tập
bốn Phạm trú, khi thân hoại mạng
Nemi là vị cuối cùng của các vị vua
ấy, là vị pháp vương như pháp, kiên tŕ trên pháp,
vị đại vương thực hành Chánh pháp giữa
các Bà-la-môn, gia chủ, giữa thị dân và thôn dân, hành tŕ
lễ Uposatha (Bố-tát) vào các ngày 14, ngày 15 và ngày mồng 8.
Thuở xưa, này Ananda, khi chư Thiên ở
Tavatimsa (Tam thập tam thiên) ngồi hội họp với
nhau tại giảng đường Thiện Pháp (Sudhamma),
cuộc đối thoại sau đây được
khởi lên: "Thật hạnh phúc thay cho dân chúng Videha,
thật tốt đẹp thay cho dân chúng Videha,
được vua Nemi là vị pháp vương như pháp,
kiên tŕ trên pháp, vị Đại vương thực hành Chánh
pháp giữa các Bà-la-môn, gia chủ, giữa thị dân và thôn
dân, hành tŕ lễ Uposatha (Bố-tát) vào các ngày 14, ngày 15 và ngày
mồng 8".
Rồi này Ananda, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba:
"– Chư Khanh, chư Khanh có muốn yết
kiến vua Nemi không ?".
"–
Lúc bấy giờ, vua Nemi trong ngày
rằm lễ Bố-Tát (Uposatha), đă gội đầu,
giữ trai giới đang ngồi trên lầu cung
điện. Rồi này Ananda,
Thiên chủ Sakka, như nhà lực sĩ duỗi bàn tay
đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra;
cũng vậy, Thiên chủ biến mất giữa chư
Thiên cơi trời Ba mươi ba, và hiện ra trước
mặt vua Nemi. Rồi này Ananda, Thiên chủ Sakka nói với
vua Nemi:
"– Tâu Đại vương, thật hạnh
phúc thay cho Đại vương, thật tốt lành thay
cho Đại vương ! Tâu
Đại vương, chư Thiên ở
cơi trời Ba mươi ba đang ngồi tại giảng
đường Thiện Pháp tán thán Đại vương
và nói: "Thật hạnh phúc thay cho dân chúng Videha... (như trên)... và ngày mồng 8". Tâu
Đại vương, chư Thiên ở
cơi trời Ba mươi ba muốn yết kiến
Đại vương. Tâu Đại vương, tôi
sẽ gởi cho Đại vương một cỗ xe có
ngàn ngựa kéo, Đại vương hăy cưỡi thiên
xa ấy, chớ có sợ hăi ! "
Này Ananda, vua Nemi im lặng nhận lời. Rồi
này Ananda, Thiên chủ Sakka, sau khi biết được vua
Nemi đă nhận lời, như nhà lực sĩ... (như trên)... liền biến mất và
hiện ra giữa chư Thiên ở cơi trời Ba
mươi ba.
Rồi này Ananda, Thiên chủ Sakka gọi
người đánh xe Matali và nói:
"–
"– Thưa vâng, Tôn giả".
Người đánh xe Matali vâng
đáp Thiên chủ Sakka, cho thắng cỗ xe có ngàn ngựa
kéo, đi đến vua Nemi và thưa:
"– Tâu Đại vương, đây là cỗ xe có ngàn ngựa kéo do Thiên chủ Sakka gửi
đến cho Đại vương. Đại
vương hăy cưỡi thiên xa, chớ có sợ hăi ! Và tâu Đại vương, con sẽ
dẫn Đại vương đi đường nào ? Con đường do đó các nghiệp
ác đưa đến sự cảm thọ quả báo các
nghiệp ác hay con đường do đó các thiện
nghiệp đưa đến sự cảm thọ
quả báo các thiện nghiệp".
"– Hăy đưa Ta đi, cả
hai con đường".
Và này Ananda, người đánh xe
Matali đưa vua Nemi đến giảng đường
Sudhamma (
"– Hăy đến, tâu Đại
vương; thiện lai, tâu Đại vương. Tâu Đại vương, chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba
ngồi ở giảng đường Sudhamma, tán thán
Đại vương như sau: "Thật là hạnh
phúc... (như trên)... và ngày mồng 8".
Tâu Đại vương, chư Thiên
ở cơi trời Ba mươi ba muốn yết kiến
Đại vương. Tâu Đại vương, hăy hoan
lạc với thiên uy lực giữa chư
Thiên".
"– Thôi vừa rồi, Tôn giả. Hăy đưa tôi về Mithila,
tại đấy tôi sẽ sống theo Chánh pháp giữa các
vị Bà-la-môn, gia chủ, và giữa các thị dân và thôn dân
và thọ tŕ trai giới vào các ngày 14, ngày 15 và ngày mồng
8".
Rồi này Ananda, Thiên chủ Sakka nói với
người đánh xe Matali:
"–
"– Thưa vâng, Tôn giả".
Ở đây, này Ananda, vua Nemi sống như pháp
giữa các Bà-la-môn, gia chủ và giữa thị dân và thôn
dân, thọ tŕ trai giới vào các ngày 14, ngày 15 và ngày mồng
8.
Và này Ananda, sau nhiều năm, nhiều trăm
năm, nhiều ngàn năm; vua Nemi gọi người
thợ cạo tóc:
"– Này Thợ cạo tóc, khi nào Ông
thấy trên đầu ta có mọc tóc bạc, hăy báo cho ta
biết".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
Này Ananda, người thợ cạo tóc vâng đáp
vua Nemi. Này Ananda, sau nhiều năm, nhiều trăm năm,
nhiều ngàn năm, người thợ cạo tóc thấy
trên đầu vua Nemi có mọc tóc bạc, thấy vậy
liền tâu với vua Nemi:
"–
"– Vậy này Thợ cạo tóc, hăy khéo nhổ
những sợi tóc bạc ấy với cái nhíp, và
đặt chúng trên bàn tay của ta".
"– Thưa vâng, tâu Đại
vương".
"–
Rồi này Ananda, vua Nemi, sau khi cho người
thợ cạo tóc một lương ấp (như là
một ân tứ), sau khi khéo giao quốc gia cho vị Hoàng
tử con đầu, chính tại rừng xoài Makhadeva này, sau
khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, đă xuất
gia, vị này an trú, biến măn một phương với tâm
thấm nhuần ḷng từ; cũng vậy phương
thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng
vậy phương thứ tư. Như vậy cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú, biến măn với tâm thấm
nhuần ḷng từ, quảng đại vô biên, không hận,
không sân. Với tâm thấm nhuần ḷng bi...
... Với tâm thấm nhuần ḷng hỷ... ... an trú
biến măn mọt phương với tâm thấm nhuần
ḷng xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng
vậy phương thứ ba, cũng vậy phương
thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
vị ấy an trú biến măn với tâm thấm nhuần
ḷng xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Nhưng này Ananda, vua Nemi, tám vạn bốn ngàn năm, đă
chơi tṛ chơi của hoàng tử; tám vạn bốn ngàn
năm, đă trị v́ như phó vương; tám vạn
bốn ngàn năm, đă chấp chánh như một quốc
vương; tám vạn bốn ngàn năm, chính tại ngôi
rừng xoài Makhadeva này, sau khi cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, đă xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, sống theo Phạm
hạnh. Vị này, sau khi tu tập bốn Phạm trú, khi
thân hoại mạng
Nhưng này Ananda, người con của vua Nemi tên
là Kalarajanaka. Vị này không xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Vị này đă cắt đứt truyền
thống tốt đẹp ấy. Vị
này là người tối hậu của các vị ấy.
Này Ananda, rất có thể Ông nghĩ như sau: "Trong
thời ấy, vua Makhadeva, vị đă thiết lập
truyền thống tốt đẹp ấy là một
vị khác". Nhưng này Ananda, chớ có
hiểu như vậy. Trong thời
ấy, ta là Makhadeva. Ta đă thiết lập truyền
thống tốt đẹp ấy. Dân chúng
đến sau cho rằng truyền thống tốt
đẹp ấy được Ta thiết lập.
Nhưng này Ananda, truyền thống tốt đẹp
ấy không đưa đến yểm ly, ly tham,
đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác
ngộ, Niết-bàn và này Ananda, nay thế nào là truyền
thống tốt đẹp được Ta thiết
lập, và truyền thống ấy đưa đến
yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh,
thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn ? Chính là Thánh
đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư
duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh
tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này Ananda, đây là
truyền thống tốt đẹp được Ta
thiết lập, và truyền thống ấy đưa
đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này Ananda,
về vấn đề này, Ta nói như sau: "Truyền
thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, hăy
tiếp tục duy tŕ.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahakaccana
(Đại Ca-chiên-diên) trú ở Madhura, tại rừng Gunda. Vua Madhura Avantiputta được
nghe như sau: "Sa-môn Mahakaccana trú ở Madhura, tại
rừng Gunda. Tiếng đồn tốt đẹp sau
đây được khởi lên về Tôn giả Kaccana:
"Tôn giả là bậc Hiền giả, bậc Trí giả,
thông minh, đa văn, nói năng lưu loát, nhà biện tài
lăo luyện, bậc trưởng thượng, bậc
A-la-hán. Thật tốt lành thay được
yết kiến một vị A-la-hán như vậy".
Rồi vua
– Thưa Tôn giả Kaccana, các vị Bà-la-môn đă
nói như sau: "Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối
thượng, các chủng tánh khác là hạ liệt; chỉ
có Bà-la-môn là bạch chủng, các chủng tánh khác là hắc
chủng; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các chủng tánh
phi Bà-la-môn không như vậy; các Bà-la-môn là con Phạm thiên.
Các Bà-la-môn là con chính tông của Phạm thiên, sanh ra từ
miệng, sanh ra từ Phạm thiên, tạo tác bởi
Phạm thiên, thừa tự Phạm thiên. Ở đây, Tôn
giả Kaccana đă nói ǵ ?
– Thưa Đại vương, đây chỉ là
một âm thanh ở đời (câu nói): "Chỉ có
Bà-la-môn là chủng tánh tối thượng, chủng tánh
khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là bạch chủng,
các chủng tánh khác là hắc chủng; chỉ có Bà-la-môn là
thanh tịnh, các chủng tánh phi Bà-la-môn không như vậy.
Các Bà-la-môn là con Phạm thiên. Các Bà-la-môn là con chính tông
của Phạm thiên sanh ra từ miệng, sanh ra từ
Phạm thiên, tạo tác bởi Phạm thiên, thừa
tự Phạm thiên". Đây chỉ là
một pháp môn, với pháp môn này cần được
hiểu như là một âm thanh ở đời. (Câu
nói): "Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối
thượng, các chủng tánh khác là hạ liệt... (như trên)... thừa tự Phạm thiên".
Thưa Đại vương, Đại vương
nghĩ thế nào ? Nếu có
người Khattiya (Sát-đế-lỵ) sống sung túc
với tài sản, ngũ cốc, vàng hay bạc,
người ấy có thể có một người Khattiya
khác là người hầu hạ trung thành, dậy sớm,
thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ,
làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái; hay
người ấy có thể có một vị Bà-la-môn, hay
người ấy có thể có một vị Vessa
(Tỳ-xá) hay người ấy có thể có một Sudda
(Thủ-đà) là người hầu hạ trung thành,
dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh
của chủ, làm đẹp ḷng mọi người,
lời nói kính ái ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, nếu có người
Khattiya sống sung túc với tài sản, ngũ cốc, vàng
hay bạc, người ấy có thể có một
người Khattiya khác là người hầu hạ trung
thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh
lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái; người ấy cũng có
thể có một người Bà-la-môn, hay người
ấy có thể có một Vessa, hay người ấy có
thể có một người Sudda là người hầu
hạ trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một Bà-la-môn sống sung túc với tài sản, ngũ
cốc, vàng hay bạc, người ấy có thể có
một người Bà-la-môn khác là người hầu
hạ trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái; hay người ấy có
thể có một vị Khattiya, hay người ấy có
thể có một vị Vessa, hay người ấy có
thể có một người Sudda là người hầu
hạ trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, nếu có người
Bà-la-môn sống sung túc với tài sản, ngũ cốc, vàng
hay bạc, người ấy có thể có một
người Bà-la-môn khác là người hầu hạ trung
thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh
lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái; hay người ấy có
thể có một vị Khattiya, hay người ấy có
thể có một vị Vessa, hay người ấy có
thể có một vị Sudda là người hầu hạ
trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một Vessa sống sung túc với tài sản, ngũ
cốc, vàng hay bạc, người ấy có thể có
một người Vessa khác là người hầu hạ
trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng
người, lời nói kính ái; hay người ấy có
thể có một Khattiya hay người ấy có thể có
một Bà-la-môn, hay người ấy có thể có một
Sudda là người hầu hạ trung thành, dậy sớm,
thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ,
làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, nếu có người
Vessa sống sung túc với tài sản, ngũ cốc, vàng hay
bạc; người ấy có thể có một người
Vessa khác là người hầu hạ trung thành, dậy
sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của
chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói
kính ái; hay người ấy có thể có một
người Khattiya, hay người ấy có thể có
một người Bà-la-môn, hay người ấy có
thể có một người Sudda là người hầu hạ
trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
người Sudda sống sung túc với tài sản, ngũ
cốc, vàng hay bạc, người ấy có thể có
một người Sudda khác, là người hầu hạ
trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái; hay người ấy có
thể có một Khattiya, hay người ấy có thể có
một người Bà-la-môn, hay người ấy có
thể có một người Vessa là người hầu
hạ trung thành, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi
mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi
người, lời nói kính ái ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, nếu có người
Sudda sống sung túc với tài sản, ngũ cốc, vàng hay
bạc, người ấy có thể có một người
Sudda khác là người hầu hạ trung thành, dậy
sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của
chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói
kính ái; hay người ấy có thể có một Khattiya, hay
người ấy có thể có một Bà-la-môn, hay
người ấy có thể có một người Vessa là
người hầu hạ trung thành, dậy sớm,
thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ,
làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái.
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng, hay không đồng đẳng ? Và ở đây Đại
vương có ư nghĩ như thế nào ?
– Thật vậy, thưa Tôn giả Kaccana, nếu
sự t́nh là như vậy thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng. Ở đây, tôi
không thấy có sự sai biệt ǵ.
– Do pháp môn này, thưa Đại vương,
vấn đề này cần phải được
hiểu như âm thanh ở trên đời (câu nói):
"Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối thượng,
các chủng tánh khác là hạ liệt... (như
trên)... thừa tự Phạm thiên. Thưa Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Ở đây, có người Khattiya sát
sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong dâm dục, nói
láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời
phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến, sau khi thân
hoại mạng chung, người ấy có sanh vào cơi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không, hay
không phải thác sanh ? Hay ở đây Đại
vương nghĩ thế nào ?
– Người Khattiya, thưa Tôn giả Kaccana, sát
sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong dâm dục, nói
láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời
phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến, sau khi thân
hoại mạng chung có thể sanh vào cơi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Ở
đây, đối với tôi là vậy, và như vậy là
điều tôi đă nghe từ các vị A-la-hán.
– Lành thay ! lành
thay, thưa Đại vương ! Lành thay Đại vương ! Ở đây,
đối với Đại vương là vậy, và lành
thay như vậy là điều Đại vương
đă được nghe từ các vị A-la-hán.
Thưa Đại vương, Đại vương
nghĩ thế nào ? Ở đây, có
người Bà-la-môn; ở đây, có người Vessa;
ở đây, có người Sudda sát sanh, lấy của không
cho, tà hạnh trong dâm dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói
lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân
hận, tà kiến sau khi thân hoại mạng chung, có sanh vào
cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không,
hay không phải thác sanh ? Hay ở đây,
Đại vương nghĩ thế nào ?
– Người Sudda, thưa Tôn giả Kaccana, sát
sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói
láo, nói hai lưỡi, nói lời ác ngữ, nói lời phù
phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến, sau khi thân
hoại mạng chung có thể sanh vào cơi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Ở
đây, đối với tôi là vậy, và như vậy là
điều tôi đă nghe từ các vị A-la-hán.
– Lành thay, lành thay, thưa Đại vương ! Lành thay, Đại vương ! Ở đây,
đối với Đại vương là vậy, và lành
thay như vậy là điều Đại vương
đă được nghe từ các vị A-la-hán.
Thưa Đại vương, Đại vương
nghĩ thế nào ? Nếu sự t́nh là
như vậy, thời bốn chủng tánh này là
đồng đẳng, hay không đồng đẳng
? Và ở đây, Đại vương có ư nghĩ
như thế nào ?
– Thật vậy, thưa Tôn giả Kaccana, nếu
sự t́nh là như vậy thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng. Ở đây, tôi
không thấy có sự sai biệt ǵ.
– Do pháp môn này, thưa Đại vương,
vấn đề này cần phải được
hiểu như âm thanh ở trên đời, (câu nói):
"Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối thượng,
các chủng tánh khác là hạ liệt... (như
trên)... thừa tự Phạm thiên. Thưa Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Ở đây, có người Khattiya
từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo,
từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời
độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ
bỏ tham dục, từ bỏ sân hận, có chánh kiến,
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy có
thể sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này
không, hay không thể thác sanh? Hay ở đây, Đại
vương nghĩ thế nào ?
– Người Khattiya, thưa Tôn giả Kaccana,
từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo,
từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời
độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ
bỏ tham dục, từ bỏ sân hận, theo chánh
kiến, sau khi thân hoại mang chung, người ấy có
thể sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Ở đây, đối với tôi là vậy và
như vậy là điều tôi đă nghe từ các vị
A-la-hán.
– Lành thay, lành thay, thưa Đại vương ! Lành thay,
Đại vương. Ở đây,
đối với Đại vương là vậy, và lành
thay như vậy là điều Đại vương
đă được nghe từ các vị A-la-hán.
Thưa Đại vương, Đại vương
nghĩ thế nào ? Ở đây, nếu
có vị Bà-la-môn, ở đây nếu có vị Vessa, ở
đây nếu có vị Sudda từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai
lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ
bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục,
từ bỏ sân hận, theo chánh kiến, sau khi thân hoại
mạng chung, người ấy có thể sanh thiện thú,
Thiên giới, cơi đời này hay không, hay không thể thác
sanh ? Hay ở đây, Đại vương nghĩ thế
nào ?
– Người Sudda, thưa Tôn giả Kaccana,
từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo,
từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời
độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ
bỏ tham dục, từ bỏ sân hận, theo chánh kiến,
sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh lên thiện
thú, Thiên giới, cơi đời này. Ở
đây, đối với tôi là vậy; và như vậy là điều
tôi đă nghe các vị A-la-hán.
– Lành thay, lành thay, thưa Đại vương ! Lành thay, Đại vương ! Ở đây,
đối với Đại vương là vậy, và lành
thay như vậy là điều Đại vương
đă được nghe từ các vị A-la-hán.
Thưa Đại vương, Đại vương
nghĩ thế nào ? Nếu sự t́nh là
như vậy, thời bốn chủng tánh này là
đồng đẳng hay không đồng đẳng
? Và ở đây, Đại vương có ư nghĩ
thế nào ?
– Thật vậy thưa Tôn giả Kaccana, nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng. Ở đây, tôi
không thấy có sự sai biệt ǵ.
– Do pháp môn này, thưa Đại vương,
vấn đề này cần phải được
hiểu như âm thanh ở trên đời, (câu nói):
"Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối thượng,
các chủng tánh khác là hạ liệt... (như
trên)... là thừa tự Phạm thiên. Thưa Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Ở đây, vị Khattiya
đột nhập nhà cửa, cướp giật
đồ đạc, hành động như kẻ
cướp, phục kích các đường lớn hay
tư thông vợ người. Và nếu có
người bắt người ấy và dẫn
người ấy đến trước mặt
Đại vương và thưa: "Tâu Đại
vương, đây là kẻ ăn
trộm đă làm hại đến Đại vương.
Nếu Đại vương muốn, hăy h́nh
phạt nó". Hay Đại vương đối
xử người ấy như thế nào ?
–
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Ở
đây, người Bà-la-môn; ở đây, người Vessa;
ở đây, người Sudda đột nhập nhà
cửa, hay cướp giật đồ đạc, hay
hành động kẻ cướp, hay phục kích các
đường lớn, hay tư thông vợ người.
Và nếu có người bắt người ấy, dẫn
người ấy đến trước mặt
Đại vương và thưa: "Tâu Đại
vương, đây là kẻ ăn
trộm đă làm hại đến Đại vương.
Nếu Đại vương muốn hăy h́nh
phạt nó". Hay Đại vương đối
xử với nó như thế nào ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, chúng tôi sẽ chém
giết người ấy hay chúng tôi sẽ tra tấn
người ấy, hay chúng tôi sẽ tẩn xuất
người ấy, hay chúng tôi sẽ áp dụng h́nh phạt
tùy theo tội trạng. V́ sao vậy ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng hay không đồng đẳng
? Và ở đây, Đại vương
có ư nghĩ ǵ?
– Thật vậy, thưa Tôn giả Kaccana, nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng. Ở đây, tôi
không thấy có sự sai biệt ǵ.
– Do pháp môn này, thưa Đại vương,
vấn đề này cần phải được
hiểu như âm thanh ở trên đời, (câu nói):
"Chỉ có Bà-la-môn là chủng tánh tối thượng,
các chủng tánh khác là hạ liệt... (như
trên).... là thừa tự Phạm thiên". Thưa
Đại vương, Đại vương nghĩ
thế nào ? Ở đây, vị Khattiya,
sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ
bỏ nói láo, chỉ ăn một bữa, sống Phạm
hạnh, tŕ giới luật, tŕ thiện pháp; Đại
vương đối xử với vị ấy như
thế nào ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, tôi sẽ đảnh
lễ hay đứng dậy, hay mời chỗ ngồi, hay
cúng dường vị ấy bốn loại đồ dùng
như y phục, ẩm thực, sàng tọa, y dược
trị bệnh, hay chúng tôi sắp đặt sự bảo
vệ hộ tŕ, che chở đúng pháp. V́ sao vậy
?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Ở
đây, người Bà-la-môn, ở đây người Vessa,
ở đây người Sudda sau khi cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh,
sống không gia đ́nh, từ bỏ sát sanh, từ bỏ
lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một
ngày một bữa, sống Phạm hạnh, tŕ giới
luật, tŕ thiện pháp; Đại vương đối
xử với vị ấy như thế nào ?
– Thưa Tôn giả Kaccana, tôi sẽ đảnh
lễ, hay đứng dậy, hay mời chỗ ngồi,
hay cúng dường vị ấy bốn loại đồ
dùng, như y phục, ẩm thực, sàng tọa, y
dược trị bệnh, hay chúng tôi sắp đặt
sự bảo vệ, hộ tŕ, che chở đúng pháp. V́ sao
vậy ?
– Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đổng đẳng hay không đồng đẳng
? Và Đại vương, ở đây, Đại
vương có ư nghĩ thế nào ?
– Thật vậy, thưa Tôn giả Kaccana, nếu
sự t́nh là như vậy, thời bốn chủng tánh này
là đồng đẳng. Ở đây, tôi
không thấy có sự sai biệt ǵ.
– Do pháp môn này, thưa Đại vương,
vấn đề này cần phải hiểu như âm thanh
ở trên đời, (câu nói): "Chỉ có Bà-la-môn là
chủng tánh tối thượng, các chủng tánh khác là hạ
liệt; chỉ có Bà-la-môn là bạch chủng, các chủng
tánh khác là hắc chủng, chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh,
các chủng tánh phi Bà-la-môn không phải như vậy. Các
Bà-la-môn là con Phạm thiên. Các Bà-la-môn là con chính tông của
Phạm thiên, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Phạm
thiên, thừa tự Phạm thiên".
Khi được nói vậy, vua Madhura Avantiputta
thưa với Tôn giả Mahakaccana:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccana
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccana
! Như người dựng đứng lại
những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra
những ǵ bị che kín, chỉ đường cho
những người đi lạc hướng, đem
đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp
đă được Tôn giả Kaccana dùng nhiều
phương tiện tŕnh bày, giải thích. Con xin quy y Tôn
giả Kaccana, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn
giả Kaccana nhận con làm cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.
– Thưa Đại vương, Đại
vương chớ có quy y tôi, Đại vương hăy quy
y Thế Tôn, chính tôi đă quy y Thế Tôn.
–
–
– Thưa Tôn giả Kaccana, nếu chúng tôi
được nghe Thế Tôn ở xa mười yojana (do
tuần), chúng tôi sẽ đi mười yojana để
yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác. Thưa Tôn giả Kaccana, nếu chúng tôi được
nghe Thế Tôn ở xa hai mươi yojana, ba mươi yojana,
bốn mươi yojana, năm mươi yojana, chúng tôi
sẽ đi năm mươi yojana, để yết
kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Thưa Tôn giả Kaccana, v́ rằng Thế Tôn đă nhập
Niết-bàn rồi, chúng tôi xin quy y Thế Tôn đă nhập
Niết-bàn ấy, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn
giả Kaccana nhận con làm Cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống
giữa dân chúng Bhagga, tại Sunsumaragira, rừng Bhesakala,
vườn
– Này Sanjikaputta, hăy đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, hăy nhân danh ta cúi đầu đảnh
lễ chân Thế Tôn, hỏi Thế Tôn có ít bệnh, ít năo,
khinh an, lạc trú, và thưa: "Bạch Thế Tôn,
vương tử Bodhi cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn, hỏi thăm Thế Tôn có ít bệnh, ít năo,
khinh an, lạc trú, và bạch như sau: Bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn nhận lời mời của vương
tử Bodhi, ngày mai dùng cơm cùng với chúng
Tỷ-kheo".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên Sanjikaputta vâng đáp vương tử
Bodhi, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên
với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm. Và sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Thanh niên Sanjikaputta đang ngồi một
bên và bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, vương tử Bodhi
cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama,
hỏi thăm có ít bệnh, ít năo, khinh an, lạc trú và thưa
như sau: "Mong Tôn giả Gotama nhận lời mời
của vương tử Bodhi, ngày mai dùng cơm cùng với
chúng Tỷ-kheo".
– Chúng tôi đă nhân danh Tôn giả, bạch lên
Thế Tôn Gotama như sau: "Thưa Tôn giả Gotama,
vương tử Bodhi cúi đầu đảnh lễ chân
Tôn giả Gotama, hỏi thăm có ít bệnh, ít năo, khinh an,
lạc trú, và thưa như sau: "Mong Tôn giả Gotama
nhận lời mời của vương tử Bodhi, ngày
mai dùng cơm cùng với chúng Tỷ-kheo". Và Sa-môn Gotama đă nhận lời.
Rồi vương tử Bodhi, sau khi đêm
ấy đă măn, tại trú xá của ḿnh cho sửa soạn
các món ăn thượng vị loại cứng và loại
mềm, và cho trải vải trắng lâu đài Kokanada cho
đến tầm cấp thấp nhất (pacchima), rồi
gọi thanh niên Sanjikaputta:
– Này Thanh niên Sanjikaputta, hăy đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, hăy báo giờ cho Thế Tôn
được biết: "Bạch Thế Tôn, đă
đến giờ, cơm đă sẵn sàng".
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y,
cầm y bát đi đến trú xá của vương
tử Bodhi. Lúc bấy giờ, vương
tử Bodhi chờ đón
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy bước lên
trên vải, Thiện Thệ hăy bước lên trên vải,
để con được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Được nghe nói vậy,
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy bước lên
trên vải, Thiện Thệ hăy bước lên trên vải,
để cho con được hạnh phúc, an lạc lâu
dài.
Lần thứ hai,
–
– Thưa vương tử, hăy cho cuộn lại
tấm vải, Thế Tôn không có đi bộ trên vải,
Như Lai c̣n nghĩ đến những người
thấp kém.
Rồi vương tử Bodhi cho
cuộn lại tấm vải, cho sửa soạn các
chỗ ngồi tại tầng trên lầu Kokanada.
– Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau:
"Lạc được chứng đắc không
phải do lạc, lạc được chứng
đắc do khổ".
–
Nhưng này Vương tử, có thí dụ
khởi lên nơi Ta..., (như Tập I, Đại Kinh Saccaka,
từ trang 529 đến trang 543, thay thế "Này
Aggivesana" với "Này Vương tử")...
sống nhiệt tâm, tinh cần".
Rồi này Vương tử, Ta suy nghĩ như
sau: "Pháp này do Ta chứng được thật thâm
sâu... (như Tập I, Kinh Thánh Cầu từ 374 đến
trang 386, thay thế "Này các Tỷ-kheo" với "Này
Vương tử"... Sáu người sống, với
các đồ ăn mà hai
Khi được nói vậy, vương tử
Bodhi bạch Thế Tôn:
– Độ bao lâu, bạch Thế Tôn, một
vị Tỷ-kheo chấp nhận Như Lai là vị lănh
đạo, chứng được mục đích tối
cao... (như trên)... và an trú.
–
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con thiện
xảo trong nghề cưỡi voi và kỹ thuật dùng câu
móc.
–
–
–
–
– Cũng vậy, này Vương tử, có năm
tinh tấn chi này. Thế nào là năm ? Ở đây, này Vương tử, vị
Tỷ-kheo có ḷng tin, tin tưởng sự giác ngộ
của
Khi được nghe nói vậy, Vương
tử Bodhi bạch Thế Tôn:
– Ôi, thật là Phật ! Ôi,
thật là Pháp ! Ôi, thật là khéo
thuyết pháp thay ! Nếu
được giảng dạy buổi chiều thời
chứng được sự thù thắng buổi sáng,
nếu được giảng dạy buổi sáng thời
chứng được sự thù thắng buổi
chiều.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Sanjikaputta thưa
với Vương tử Bodhi:
– Như vậy, Tôn giả Bodhi này đă nói:
"Ôi, thật là Phật ! Ôi, thật là
Pháp ! Ôi, thật là khéo thuyết pháp thay ! " Nhưng
Vương tử không nói thêm: "Tôi quy y Tôn giả Gotama
này, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng".
–
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại
Savatthi, Jetavana, ở tinh xá ông Anthapindika. Lúc bấy giờ, trong lănh thổ
của quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc),
nước Kosala, có tên cướp Angulimala một thợ
săn, tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có ḷng
từ mẫn đối với chúng sanh. V́
nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở
thành không thị trấn, quốc độ trở thành
không quốc độ. Do nó luôn luôn giết
người, nó mang một ṿng hoa làm bằng ngón tay người. Rồi Thế Tôn vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, vào Savatthi để khất
thực. Sau khi khất thực ở Savatthi, ăn xong,
dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, Ngài quay trở
về và đi trên con đường dẫn đến tên
cướp Angulimala. Các người chăn ḅ, các
người chăn thú, các người làm ruộng, các
người bộ hành (padhavino ?)
thấy Thế Tôn đang đi trên con đường
dẫn đến tên cướp Angulimala, thấy vậy
liền bạch
Lần thứ hai, các người chăn ḅ, các
người chăn thú, các người làm ruộng, các
người đi đường bạch Thế Tôn:
"Thưa Sa-môn, chớ có đi con đường
ấy... (như trên)... rơi vào tay
của tên cướp Angulimala". Lần
thứ hai,
Lần thứ ba, các người chăn ḅ, các
người chăn thú, các người làm ruộng, các
người đi đường bạch Thế Tôn:
"Thưa Sa-môn, chớ có đi con đường
ấy... (như trên)... rơi vào tay
của tên cướp Angulimala".
Tên cướp Angulimala thấy
– Hăy đứng lại, Sa-môn !
Hăy đứng lại, Sa-môn !
– Ta đă đứng rồi, này Angulimala
!
Rồi tên cướp Angulimala suy nghĩ:
"Những Sa-môn
– Người
đi lại nói: "Ta đă đứng rồi",
Ta đứng,
Ngươi nói: "Sao ta không đứng
?"
Sa-môn, ta hỏi
về ư nghĩa này,
Sao Ngươi
đứng lại, c̣n ta không đứng ?
– Angulimala, Ta đă
đứng rồi.
Với mọi
chúng sanh, Ta bỏ trượng, kiếm,
C̣n Ngươi
hữu t́nh, không tự kiềm chế,
Do vậy, Ta
đứng, c̣n Ngươi chưa
đứng.
– Đă lâu tôi kính,
bậc Đại Tiên Nhân,
Nay Sa-môn
này bước vào Đại Lâm.
Không lâu, tôi sẽ
đoạn trừ ác pháp,
Sau khi được nghe pháp kệ của Ngài.
Nói xong tên
cướp liền quăng bỏ kiếm,
Quăng bỏ khí
giới xuống vực thâm sâu,
Tên cướp
đảnh lễ dưới chân Thiện Thệ,
Ngay tại chỗ
ấy, xin được xuất gia.
Đức
Phật từ bi, bậc Đại Tiên Nhân,
Đạo Sư
Nhân giới, cùng với Thiên giới,
Ngài đă trả
lời: "Thiện lai Tỷ-kheo".
Uy đức
Tỷ-kheo được Ngài xác chứng.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, với
khoảng năm trăm con ngựa, sáng sớm đi ra
khỏi Savatthi, đi đến tinh xá, đi xe đến
chỗ nào c̣n đi xe được, rồi vua xuống
xe, đi bộ đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi xứ Kosala
đang ngồi một bên:
– Thưa Đại vương, có phải vua
– Bạch Thế Tôn, vua Seniya Bimbisara xứ Magadha
không có tức giận với con, không phải các
người Licchavi ở Vesali, cũng không phải có
địch vương nào khác. Bạch Thế Tôn, trong lănh
thổ của con, có tên cướp tên là Angulimala, một
tên thợ săn, bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn,
không có ḷng từ mẫn đối với chúng sanh. V́ nó, các làng trở thành không làng, các thị
trấn trở thành không thị trấn, các quốc
độ trở thành không quốc độ. Bạch
Thế Tôn, nhưng con không có thể tẩn xuất nó
được (napatisedhissami).
– Thưa Đại vương, nếu
Đại vương được thấy Angulimala
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, từ bỏ sát
sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ nói
láo, ăn một ngày một bữa, sống Phạm
hạnh, giữ giới, hành tŕ thiện pháp. Đại
vương sẽ làm ǵ với Angulimala ?
– Bạch Thế Tôn, con sẽ đảnh lễ,
hay đứng dậy, hay đưa ghế mời
ngồi, hay lo liệu bốn sự cúng dường
Angulimala, tức là y phục, ẩm thực, sàng tọa và
dược phẩm trị bệnh, hay chúng con bảo
vệ, hộ tŕ đúng pháp. Nhưng Bạch Thế Tôn,
từ đâu một người phá giới, làm các ác pháp
lại có thể trở thành giữ giới, biết
chế ngự như vậy ?
Lúc bấy giờ tôn giả Angulimala
ngồi không xa
– Thưa Đại vương, đây là
Angulimala.
– Chớ có sợ hăi, thưa Đại vương ! Chớ có sợ
hăi, thưa Đại vương. Ở
đây, không có ǵ đáng sợ hăi cho Đại
vương.
Rồi sự hoảng sợ,
khiếp sợ, lông tóc dựng ngược của vua
Pasenadi, nước Kosala được tan biến. Rồi vua Pasenadi nước Kosala
đến Gần Tôn giả Angulimala, sau khi đến,
thưa với Tôn giả Angulimala:
–
– Thưa phải, Đại vương.
–
– Thưa Đại vương, phụ thân tôi
thuộc ḍng họ Gagga, mẫu thân thuộc ḍng họ
Mantani.
–
Lúc bấy giờ, Tôn giả Angulimala theo hạnh
ở rừng núi, đi khất thực mà ăn, sống
chỉ với ba y. Rồi Tôn giả Angulimala nói với vua
Pasenadi nước Kosala:
– Thôi vừa rồi, thưa Đại
vương, tôi đă đủ ba y.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala
đi đến gần
– Thật vi diệu thay, bạch
– Thưa Đại vương, nay Đại
vương hăy làm những ǵ Đại vương nghĩ
là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi, nước Kosala,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ
Rồi Tôn giả Angulimala, vào buổi sáng
đắp y, cầm y bát đi vào Savatthi để khất
thực. Trong khi đi khất thực
từng nhà một ở Savatthi, Tôn giả Angulimala thấy
một người đàn bà đang sanh đẻ, rất
là nguy kịch và đau đớn. Thấy vậy, Tôn
giả suy nghĩ: "Thật đau khổ thay các chúng sanh ! Thật đau khổ thay các chúng sanh ! "
– Bạch Thế Tôn, ở đây, con vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, đi vào thành Savatthi
để khất thực. Bạch Thế Tôn, trong khi
đi khất thực từng nhà một ở Savatthi, con thấy một người đàn bà
đang sanh đẻ, rất là nguy kịch, đau
đớn. Thấy vậy, con suy nghĩ: "Thật
đau khổ thay các chúng sanh ! Thật
đau khổ thay các chúng sanh ! "
– Này Angulimala, Ông hăy đi đến Savatthi, sau khi
đến, nói với người đàn bà ấy như
sau: "Này Bà chị, v́ rằng tôi từ khi sanh ra chưa
bao giờ cố ư giết hại mạng sống của
chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được
an toàn, và sanh đẻ được an toàn ! "
– Bạch Thế Tôn, nếu làm vậy, thời
con là cố ư nói láo. Bạch Thế Tôn, con đă cố ư
giết hại mạng sống rất nhiều chúng sanh
rồi.
– Vậy th́, này Angulimala, Ông hăy đi đến
Savatthi, sau khi đến hăy nói với người đàn bà
ấy như sau: "Này Bà chị, v́ rằng tôi từ khi
được Thánh sanh đến này chưa bao giờ
cố ư giết hại mạng sống của chúng sanh,
mong rằng với sự thật ấy, bà được
an toàn và sanh đẻ được an toàn !
"
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Angulimala, sau khi vâng đáp Thế Tôn,
đi đến Savatthi, sau khi đến nói với
người đàn bà ấy như sau: "Thưa Bà
chị, v́ rằng tôi từ khi được Thánh sanh
đến nay chưa bao giờ cố ư giết hại
mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự
thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ
được an toàn ! " Và
người đàn bà được an
toàn, sanh đẻ được an toàn. Rồi Tôn giả
Angulimala, sống một ḿnh, viễn ly, không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần, và không bao lâu sau, tự thân chứng ngộ
với thắng trí, chứng đắc và an trú ngay trong
hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh
mà v́ mục đích này các Thiện nam tử xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành,
những ǵ nên làm đă làm, từ nay không c̣n trở lui
đời này nữa". Vị ấy
biết như vậy. Và như vậy,
Tôn giả Angulimala trở thành một vị A-la-hán nữa.
Rồi Tôn giả Angulimala buổi sáng đắp
y, cầm y bát, đi vào Savatthi để khất thực.
Lúc bấy giờ, một cục đất do một
người ném, rơi trên thân Tôn giả Angulimala, rồi
một cây gậy do một người khác quăng, rơi
trên thân Tôn giả Angulimala, rồi một ḥn sỏi do
một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả
Angulimala.
Rồi Tôn giả Angulimala sống độc
cư, Thiền tịnh, cảm thọ được
giải thoát lạc, và trong lúc ấy nói lên lời cảm
khái sau đây:
"Ai
trước phóng dật, sau không phóng dật,
Sáng chói đời
này, như trăng thoát mây,
Ai làm ác nghiệp,
nhờ thiện chận lại,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây.
Niên thiếu
Tỷ-kheo trung thành Phật giáo,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây.
Mong kẻ
địch ta, nghe giảng Pháp thoại !
Mong kẻ
địch ta, trung thành Phật giáo !
Mong kẻ
địch ta, thọ lănh chánh pháp,
(Thân tâm) an tịnh, san sẻ mọi người.
Mong kẻ
địch ta, từ bậc Thuyết nhẫn,
Từ bậc Tán
thán, vô oán hận tâm.
Thời thời
nghe pháp, y pháp hành tŕ.
Một kẻ
như vậy, không có hại ta,
Cũng không làm hại một người nào khác.
Vị ấy sẽ chứng tối thượng
tịch tịnh.
Hộ tŕ mọi
người, kẻ tham người không,
Như
người dẫn nước, hướng dẫn
nước chảy,
Như kẻ làm
tên uốn cong thân tên,
Như người thợ mộc uốn nắn
cây gỗ.
Kẻ trí tự
ḿnh, tự điều phục ḿnh,
Có kẻ
được điều bởi gậy, roi, móc,
Riêng Ta
được điều không gậy, không kiếm.
(Bởi bậc như vậy).
Ta tên Vô Hại,
trước ta sát hại,
Nay được chánh danh, v́ chẳng hại ai.
Trước ta
được tên Angulimala,
Bị nước thác cuốn, ta quy y Phật.
Trước tay vấy máu, danh xưng (Anguli) mala,
Xem ta quy y,
đoạn dây sanh tử,
Làm nghiệp
như vậy phải sanh ác thú,
Khi lănh nghiệp báo, không nợ ta hưởng.
Kẻ ngu vô trí, đam mê phóng dật,
C̣n người có
trí, giữ không phóng dật,
Như giữ tài
sản, tối thượng, tối quư,
Chớ mê phóng
dật, chớ mê dục lạc.
Giữ không phóng
dật, luôn luôn Thiền định,
Chứng
đắc đại lạc, quảng đại vô
lượng,
Thiện lai, ta
đến, không đi lạc hướng,
Không ai khuyên ta
Giữa các chân lư
(được khéo) giảng dạy,
Chân lư ta theo, chân lư tối thượng,
Thiện lai ta
đến, không đi lạc hướng,
Không ai khuyên ta theo tư tưởng ác,
Ba minh ta chứng,
Phật lư viên thành.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi, Jetavana, tại tinh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ con một của
một gia chủ, khả ái, đáng thương, bị
mệnh
–
–
– Sự thật là như vậy, này Gia chủ, v́
rằng, này Gia chủ, sầu, bi, khổ, ưu năo do ái sanh
ra, hiện hữu từ nơi ái.
– Nhưng đối với ai, bạch
Rồi người gia chủ, không
hoan hỷ lời
Lúc bấy giờ, một số
người đánh bạc đang chơi đổ
nhứt lục không xa
– Này Quư vị, ở đây tôi đi đến
Sa-môn Gotama, sau khi đến, đảnh lễ Sa-môn Gotama
rồi ngồi xuống một bên. Này Quư vị, Sa-môn Gotama
nói với tôi đang ngồi một bên:
– "
– "Bạch Thế Tôn sao các căn của con có
thể đổi khác được. Bạch Thế Tôn,
đứa con một khả ái, đáng thương của
con đă mệnh
– "Sự thật là như
vậy, này Gia chủ. V́ rằng, này Gia chủ, sầu, bi, khổ,
ưu, năo, do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
– "Nhưng đối với ai, bạch
– Sự thật là như vậy, này Gia Chủ ! Sự thật là như vậy này
Gia chủ ! Này Gia chủ, hỷ lạc
do ái sanh, hiện hữu từ nơi ái.
Rồi người gia chủ suy nghĩ: "Có
sự đồng ư giữa ta và những người
đánh bạc, " rồi bỏ đi. Và
cuộc đối thoại ấy dần dần
được truyền đi và truyền đến trong
nội cung. Rồi vua Pasenadi xứ Kosala cho gọi
hoàng hậu Mallika:
– Này Mallika, đây là lời Sa-môn Gotama nói với
các người ấy: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo do
ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
– Tâu Đại vương, nếu Thế Tôn
đă dạy như vậy, th́ sự việc là như
vậy.
– Điều ǵ Sa-môn Gotama nói,
Mallika này cũng nói
Rồi hoàng hậu Mallika cho gọi Bà-la-môn
Nalijangha và nói:
– Này Bà-la-môn, hăy đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn, hỏi có ít bệnh, ít năo, khinh an, khí lực sung
măn, lạc trú, và thưa: "Bạch Thế Tôn, hoàng
hậu Mallika cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn, hỏi thăm Thế Tôn có ít bệnh, ít năo, khinh an, khí
lực sung măn lạc trú không, và thưa như sau:
"Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn đă nói
như sau: Sầu, bi, khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện
hữu từ nơi ái". Và nếu Thế
Tôn trả lời Ông như thế nào, hăy khéo nắm
giữ và nói lại với ta. V́ các
– Thưa vâng, tâu Hoàng hậu.
Bà-la-môn Nalijangha vâng đáp hoàng hậu Mallika,
đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên
những lời chào đón hỏi thăm với Thế
Tôn, Và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm
thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Bà-la-môn Nalijangha Bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, hoàng hậu Mallika cúi
đầu đảnh lễ chân Sa-môn Gotama, hỏi thăm
có ít bệnh, ít năo, khinh an, khí lực sung măn, lạc trú và
thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, có phải Thế
Tôn đă nói như sau: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo do
ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái" ?
– Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn. Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn.
Này Bà-la-môn, sầu, bi, khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện
hữu từ nơi ái.
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này,
cần phải được hiểu là sầu, bi,
khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi
ái. Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Savatthi này, bà
mẹ của một người đàn bà mệnh
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này,
cần phải được hiểu là sầu, bi,
khổ, ưu năo do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi
ái. Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Savatthi này,
người cha của một người đàn bà
mệnh
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này
cần phải được hiểu là sầu, bi,
khổ, năo do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái. Này
Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Savatthi này, người
mẹ của một người đàn ông mệnh
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này
cần phải được hiểu là sầu, bi,
khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi
ái. Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Savatthi này,
người cha của một người đàn ông
mệnh
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này
cần phải được hiểu là sầu, bi,
khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi
ái. Này Bà-la-môn, thuở xưa chính tại thành
Savatthi này, một người đàn bà đi về thăm
gia đ́nh bà con. Những người bà con ấy
của người đàn bà muốn dùng sức mạnh
bắt người đàn bà ấy phải xa chồng và
muốn gả cho một người đàn ông khác. Người đàn bà ấy không chịu.
Rồi người đàn bà ấy nói với chồng ḿnh:
"Này Hiền phu, những người bà con này muốn
dùng sức mạnh bắt tôi phải xa anh và muốn
gả cho một người đàn ông khác. Nhưng
tôi không muốn như vậy". Rồi
người ấy chặt người đàn bà ấy làm
hai, rồi tự vận, nghĩ rằng: "Hai chúng ta
sẽ gặp nhau trong đời sau". Này Bà-la-môn, do pháp
môn này cần phải được hiểu rằng
sầu, bi, khổ, ưu, năo do ái sanh ra, hiện hữu
từ nơi ái.
Rồi Bà-la-môn Nalijangha hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đi đến hoàng hậu Mallika, sau
khi đến, kể lại cho hoàng hậu Mallika toàn
thể cuộc đàm thoại với Thế Tôn. Rồi
hoàng hậu Mallika đi đến vua Pasenadi nước
Kosala, và thưa:
– Tâu Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ?
Đại vương có thương công chúa Vajiri của
thiếp không ?
– Phải, này Mallika, ta thương công chúa Vajiri.
– Tâu đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có một sự biến dịch,
đổi khác xảy đến cho công chúa Vajiri của
Đại vương. Đại vương có
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
–
– Chính liên hệ đến sự t́nh này, tâu
Đại vương mà
–
– Tâu Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một sự biến dịch, đổi khác xảy
đến cho nữ Sát-đế-lỵ Vasabha, Đại
vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
–
– Chính liên hệ đến sự t́nh này, tâu
Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă
nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo khởi lên do ái sanh ra,
hiện hữu từ nơi ái". Tâu Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Tướng quân Vidudabha, Đại
vương có thương quư không ?
–
– Tâu Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một sự biến dịch, đổi khác xảy
đến cho tướng quân Vidudabha, Đại
vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
–
– Chính liên hệ đến sự t́nh này, tâu
Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă
nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo khởi lên do ái sanh ra,
hiện hữu từ nơi ái". Tâu Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Đại vương có yêu thương
thiếp không ?
– Phải, này Mallika, ta có thương yêu Hoàng
hậu.
– Tâu Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một sự biến dịch, đổi khác xảy
đến cho thiếp, Đại vương có khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
–
– Chính liên hệ đến sự t́nh này, tâu
Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă
nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo khởi lên do ái sanh ra,
hiện hữu từ nơi ái". Tâu Đại
vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Đại vương có yêu thương
dân chúng Kasi và Kosala không ?
– Phải, này Mallika, ta thương yêu dân chúng Kasi
và Kosala.
– Tâu Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? Nếu có
một sự biến dịch, đổi khác xảy
đến cho dân chúng Kasi và Kosala, Đại vương có
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
–
– Chính liên hệ đến sự t́nh này, tâu
Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă
nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, năo khởi lên do ái sanh ra,
hiện hữu từ nơi ái".
– Thật vi diệu thay, này Mallika !
Thật hy hữu thay, này Mallika !
Rồi vua Pasenadi nước Kosala từ chỗ
ngồi đứng dậy đắp thượng y vào
một bên vai, chắp tay vái