Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
88. KINH BAHITIKA [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika. Rồi Tôn giả Ananda vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthi để
khất thực. Đi khất thực ở Savatthi xong, sau
bữa ăn, trên con đường khất thực
trở về, Tôn giả đi đến lâu đài Pubbarama
Migaramatu (Đông Viên Lộc Mẫu giảng
đường) để nghỉ trưa. Lúc bấy
giờ, vua Pasenadi nước Kosala cưỡi trên con voi
Ekapundarika và đi ra khỏi thành Savatthi trong buổi sáng
sớm. Vua Pasenadi nước Kosala thấy Tôn giả Ananda
từ xa đi đến, thấy vậy liền nói
với vị đại thần Sirivaddha:
–
– Thưa phải, tâu Đại vương, Tôn
giả ấy là Ananda.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với
một người khác:
– Này Người kia, hăy đi đến Tôn
giả Ananda, sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu
đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, rồi thưa
như sau: "Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda
không có công việc ǵ phải làm gấp, thưa Tôn giả,
mong Tôn giả hăy v́ ḷng từ chờ đợi một
lát".
– Thưa vâng, tâu Đại vương.
Người ấy vâng đáp vua
Pasenadi xứ Kosala, đi đến Tôn giả Ananda, sau khi
đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi
đứng một bên. Đứng một bên, người ấy
thưa với Tôn giả Ananda:
– Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cúi
đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, và thưa
như sau: "Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda
không có công việc ǵ phải làm gấp, thưa Tôn giả,
mong Tôn giả hăy v́ ḷng từ chờ đợi một
lát".
Tôn giả Ananda im lặng nhận
lời.
–
– Thôi vừa rồi, Đại vương,
Đại vương hăy ngồi. Tôi đă
ngồi trên chỗ ngồi của tôi.
–
– Thưa Đại vương, Thế Tôn không
làm các thân hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
– Thưa Tôn giả Ananda, có phải Thế Tôn
không làm các khẩu hành... (như trên)...
không làm các ư hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách
?
– Thưa Đại vương, Thế Tôn không
làm các khẩu hành, ư hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí
quở trách.
– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả
!
– Thưa Đại vương, bất cứ
thân hành ǵ bất thiện.
–
– Thưa Đại vương, bất cứ
thân hành ǵ có tội.
–
– Thưa Đại vương, bất cứ
thân hành ǵ có hại.
–
– Thưa Đại vương, bất cứ
thân hành nào có khổ báo.
–
– Thưa Đại vương, phàm thân hành ǵ
đưa đến tự hại, đưa đến
hại người, đưa đến hại cả
hai, từ nơi thân hành ấy, các bất thiện pháp
tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm. Thưa Đại vương, thân hành như
vậy bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
– Thưa Tôn giả, thế nào là khẩu hành... (như trên)... Thế nào là ư hành bị các
Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách ?
– Thưa Đại vương, bất cứ ư
hành ǵ bất thiện.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành ǵ có
tội.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành ǵ có
hại.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành nào có
khổ báo.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành ǵ
đưa đến tự hại, đưa đến
hại người, đưa đến hại cả
hai, từ nơi ư hành ấy các bất thiện pháp tăng
trưởng, các thiện pháp thối giảm. Thưa Đại vương, ư hành như vậy
bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
–
– Thưa Đại vương, Như Lai đă
đoạn trừ tất cả bất thiện pháp và
thành tựu các thiện pháp.
– Nhưng thưa Tôn giả Ananda, thế nào là thân
hành không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách
?
– Thưa Đại vương, bất cứ
thiện thân hành nào.
–
– Thưa Đại vương, phàm thân hành nào
không có tội.
–
– Thưa Đại vương, phàm thân hành nào
không có hại.
–
– Thưa Đại vương, phàm thân hành nào có
lạc báo.
– Thưa tôn giả, thế nào là thân hành có lạc
báo ?
– Thưa Đại vương, phàm thân hành nào
không đưa đến tự hại, không đưa
đến hại người, không đưa đến
hại cả hai, từ nơi thân hành ấy, các bất
thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng. Thưa Đại vương,
thân hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở
trách.
– Thưa Tôn giả Ananda, thế nào là khẩu
hành... (như trên)... thế nào là ư hành
không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách ?
– Thưa Đại vương, bất cứ
thiện ư hành nào.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành nào không
có tội.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành nào không
có hại.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành nào có
lạc báo.
–
– Thưa Đại vương, phàm ư hành nào không
đưa đến tự hại, không đưa
đến hại người, không đưa đến
hại cả hai, từ nơi ư hành ấy, các bất
thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng. Thưa Đại vương,
ư hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở
trách.
–
– Thưa Đại vương,
– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả
! Thật khéo nói thay việc này, thưa
Tôn giả. Do Tôn giả Ananda mà chúng tôi, thưa Tôn
giả, được hoan hỷ và thỏa măn với
những lời khéo nói của Tôn giả Ananda.
Được hoan hỷ và thỏa măn, thưa Tôn giả,
với những lời khéo nói của Tôn giả Ananda, chúng
tôi vui ḷng tặng một con voi báu cho Tôn giả Ananda,
nếu Tôn giả Ananda được phép nhận con voi
báu. Chúng tôi vui ḷng tặng con ngựa báu cho Tôn giả Ananda,
nếu Tôn giả Ananda được phép nhận con
ngựa báu. Chúng tôi vui ḷng tặng một làng ân
tứ cho Tôn giả Ananda, nếu Tôn giả Ananda
được phép nhận một làng ân tứ. Nhưng
thưa Tôn giả, chúng tôi được biết như
sau: "Việc này Tôn giả Ananda không được
phép".
– Thôi vừa rồi, Đại vương
! Tôi đă đủ ba y.
–
–
– Thưa Đại vương, nay Đại
vương hăy làm ǵ Đại vương nghĩ là
hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala
hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Ananda dạy, từ
chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu
hướng về ngài, rồi ra đi. Tôn giả Ananda, sau khi vua Pasenadi
nước Kosala ra đi không bao lâu, liền đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda
tường thuật lên Thế Tôn tất cả cuộc
đàm thoại với vua Pasenadi nước Kosala rồi
dâng tấm vải ngoại hóa lên
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
– Thật hạnh phúc thay cho vua Pasenadi nước
Kosala ! Thật tốt đẹp thay cho
vua Pasenadi nước Kosala ! Vua đă được yết kiến Tôn giả
Ananda và được cúng dường.
89. KINH PHÁP TRANG NGHIÊM [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
giữa dân chúng Sakka (Thích-ca). Medalumpa là một thị trấn
của dân chúng Sakka. Lúc bấy giờ,
vua Pasenadi nước Kosala đi đến Nangaraka v́ có
một vài công việc. Rồi vua Pasenadi nước
Kosala nói với Digha Karayana:
–
– Thưa vâng, Đại vương.
– Tâu Đại vương, các cỗ xe thù thắng của Đại vương
đă sửa soạn xong, nay Đại vương hăy làm
những ǵ Đại vương nghĩ là hợp
thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một
cỗ xe thù thắng, đi ra khỏi Nangaraka cùng nhiều
cỗ xe thù thắng khác, với tất cả uy vệ
của vua chúa, và đi đến vườn thượng
uyển, đi xe cho đến chỗ c̣n đi xe
được, rồi xuống xe đi bộ, vào
vườn thượng uyển. Trong khi đi qua đi
lại trong vườn (thượng uyển), trong khi
tản bộ thưởng ngoạn, vua Pasenadi nước
Kosala thấy những gốc cây khả ái, đẹp
mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người,
thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông đảo,
thích hợp với trầm tư mặc tưởng.
Thấy vậy, vua liền nghĩ đến Thế Tôn:
"Những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng
tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh
mọi tụ hội đông đảo, thích hợp
với trầm tư mặc tưởng này, chính tại
đây, chúng ta đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác". Rồi vua Pasenadi nước Kosala
nói với Digha Karayana:
– Này Karayana, những gốc cây khả ái... (như trên)... Chánh Đẳng
Giác.
– Tâu Đại vương, có một thị
trấn của dân chúng Sakka tên là Medalumpa. Tại
đấy,
–
– Tâu Đại vương, cách không xa, có ba yojana
(do tuần). Có thể đi đến
chỗ ấy trong ngày.
– Vậy này Karayana, hăy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi yết
kiến
– Thưa vâng, tâu Đại vương.
– Tâu Đại vương các cỗ xe thù thắng đă sửa soạn xong, nay
Đại vương hăy làm những ǵ Đại
vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một
cỗ xe thù thắng, và cùng với các cỗ xe thù thắng
khác, từ Nangaraka đi đến Medulampa, thị trấn
của dân chúng Sakka, đến nơi đó nội trong
ngày, rồi đi đến tịnh xá. Vua đi xe cho đến chỗ nào có thể đi xe
được, rồi xuống xe đi bộ vào tịnh
xá. Lúc bấy giờ một số đông
Tỷ-kheo đang đi kinh hành ngoài trời. Vua Pasenadi
nước Kosala đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau
khi đến, thưa với các Tỷ-kheo ấy:
– Chư Tôn giả, nay
– Thưa Đại vương, Thế Tôn ở
trong ngôi nhà này với các cửa khép kín. Hăy im lặng
đến gần, bước vào hành
Rồi vua Pasenadi nước Kosala,
ngay tại chỗ ấy, trao kiếm và vành khăn cho
– Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước
Kosala. Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala.
– Thưa Đại vương, do thấy nguyên
nhân ǵ, Đại vương lại hạ ḿnh tột
bực như vậy đối với thân này và biểu
lộ t́nh thân ái như vậy ?
– Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền thống
(Dhammanvaya) này đối với Thế Tôn. "
"– V́ sao chư Tôn giả lại gầy ṃn,
khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân
nổi, h́nh như không có ǵ đẹp mắt để
người ta nh́n ?".
Các vị ấy trả lời như sau:
"– Tâu Đại vương,
chúng tôi bị bệnh gia truyền".
C̣n ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các
Tỷ-kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn
thoải mái, không dao động, b́nh tĩnh, sống
dựa vào (sự hỷ cúng) của người khác,
với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn,
con suy nghĩ như sau: "Thật sự các bậc Tôn
giả này ư thức được một sự tối thắng
thù diệu nào trong giáo lư Thế Tôn, một sự thành
đạt tuần tự nên các bậc Tôn giả này hân
hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái,
không dao động, b́nh tĩnh, sống dựa vào (sự
hỷ cúng) của người khác, với tâm tư như
con thú rừng. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống
của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là
bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn
khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế
Tôn khéo tu tập hành tŕ".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là một
vị vua Sát-đế-lỵ, đă làm lễ quán
đảnh, có thể hành quyết những ai đáng
bị hành quyết, gia phạt những ai đáng bị gia
phạt, trục xuất những ai đáng bị trục
xuất. Nhưng bạch
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy
ở đây một số Sát-đế-lỵ bác học,
tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác
như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi
chỗ này, chỗ kia, như muốn
đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ.
Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến
thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp
đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ
hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng
ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời
như thế này, th́ chúng ta sẽ chất vấn như
thế này. Khi bị ta hỏi như vậy, nếu
Sa-môn Gotama trả lời như thế kia,
th́ chúng ta sẽ chất vấn như thế kia".
Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đă đến
thăm ngôi làng hay thị trấn này". Những
vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama
với pháp thoại khai thị cho các vị này, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
Được Sa-môn Gotama, với pháp thoại khai thị,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ
không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đă định
trước), huống nữa là chất vấn
! Trái lại, họ trở thành
đệ tử của Sa-môn Gotama. Bạch Thế
Tôn, như vậy là pháp truyền thống của con
đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh
Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu
tập hành tŕ".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy
ở đây một số Bà-la-môn bác học... (như trên)... Gia chủ bác học, Sa-môn bác
học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện
bác như chia chẻ sợi tóc, những vị này đi
chỗ này chỗ kia như muốn
đả phá các tà kiến... (như
trên)... họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đă
định trước), huống nữa là chất
vấn. Trái lại, họ xin xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Lại nữa, bạch
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
thuộc ḍng Sát-đế-lỵ, con cũng thuộc ḍng
Sát-đế-lỵ.
– Thưa Đại vương, Đại
vương hăy làm những ǵ Đại vương nghĩ
là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ
Khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không bao lâu,
Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, đấy là vua Pasenadi
nước Kosala. Sau khi nói lên những pháp
trang nghiêm, vua đă từ chỗ ngồi đứng
dậy và ra đi. Này các Tỷ-kheo, hăy
học các pháp trang nghiêm. Hăy thấu
triệt các pháp trang nghiêm. Này các
Tỷ-kheo, hăy thọ tŕ các pháp trang nghiêm. Này các
Tỷ-kheo, các pháp trang nghiêm này liên hệ đến mục
tiêu, là căn bản của Phạm hạnh.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại
Ujunna, gần vườn Lộc Uyển ở Kannakatthala. Lúc bấy giờ vua
Pasenadi nước Kosala đi đến Ujunna có công
việc. Rồi vua Pasenadi nước Kosala bảo
một người:
– Đến đây, này Người kia.
Hăy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta,
cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và hỏi
thăm có ít bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh khỏe,
lạc trú và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, vua
Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ
chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít năo, khinh an, có
mạnh khỏe, lạc trú không và thưa như sau:
"Bạch Thế Tôn, hôm nay vua Pasenadi nước Kosala,
sau buổi ăn sáng, sẽ đến yết kiến
Thế Tôn".
– Thưa vâng, tâu Đại vương.
Người ấy vâng đáp vua Pasenadi
nước Kosala, đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
người ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala
cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi
thăm có ít bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh khỏe,
lạc trú không và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn,
hôm nay vua Pasenadi nước Kosala, sau buổi ăn sáng,
sẽ đến yết kiến Thế Tôn".
Hai chị em Soma và Sakula được nghe:
"Hôm nay vua Pasenadi nước Kosala sau buổi ăn sáng,
sẽ đến yết kiến Thế Tôn". Rồi hai
chị em Soma và Sakula đi đến vua Pasenadi nước
Kosala tại pḥng ăn, và thưa như sau:
– Tâu Đại vương, hăy nhân danh chúng
thiếp cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn,
hỏi thăm có được ít bệnh, ít năo, khinh an, có
mạnh khỏe, lạc trú không và thưa giúp: "Bạch
Thế Tôn, chị em Soma và Sakula cúi đầu đảnh
lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có được ít
bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú
không".
Rồi vua Pasenadi nước Kosala sau buổi
ăn sáng đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh
lễ Thế Tôn rồi, ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala
bạch Thế Tôn:
–
– Thưa Đại vương, v́ sao hai chị
em Soma và Sakula lại không có thể nhờ một vị
đưa tin khác ?
– Bạch Thế Tôn, hai chị em Soma và Sakula có
nghe: "Hôm nay vua Pasenadi nước Kosala sau buổi ăn
sáng, sẽ yết kiến Thế Tôn". Rồi hai
chị em Soma và Sakula đi đến con tại pḥng ăn
và thưa như sau: "Tâu Đại vương, hăy nhân
danh chúng thiếp cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn, hỏi thăm có được ít bệnh, ít
năo, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không và thưa:
"Bạch Thế Tôn, hai chị Soma và Sakula cúi đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm (Thế
Tôn), có được ít bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh
khỏe, lạc trú không".
– Thưa Đại vương, mong rằng hai
chị em Soma và Sakula được hạnh phúc
!
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con có nghe như sau: "Sa-môn
Gotama có nói: "Không có một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào toàn
tri, toàn kiến, có thể tự cho là chứng
được tri kiến viên măn; sự t́nh như vậy
không thể xảy ra". Bạch Thế Tôn, những ai
nói như sau: "Sa-môn Gotama có nói: "Không có một Sa-môn
hay Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến có thể cho là chứng
được tri kiến viên măn; sự t́nh như vậy
không thể xảy ra", bạch Thế Tôn, có phải
những vị ấy nói lời Thế Tôn nói, họ không
xuyên tạc Thế Tôn, không đúng như thật; họ
giải thích pháp đúng pháp và những ai nói hợp pháp,
đúng pháp sẽ không có cơ hội để chỉ
trích hay không ?
– Thưa Đại vương, những ai nói
như sau: "Sa-môn Gotama có nói: "Không có một Sa-môn hay
Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến, có thể cho là chứng
được tri kiến viên măn; sự t́nh như vậy
không thể xảy ra", những vị nói như vậy
không nói đúng lời Ta nói, và họ xuyên tạc Ta một
cách hư ngụy, không đúng sự thật.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với
tướng quân Vidudabha:
–
– Tâu Đại vương, Bà-la-môn Sanjaya,
thuộc ḍng họ Akasa.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala cho gọi
một người:
– Đến đây, này Người kia,
hăy nhân danh ta, bảo với Bà-la-môn Sanjaya thuộc ḍng
họ Akasa: "
– Thưa vâng, tâu Đại vương.
Người ấy vâng đáp vua Pasenadi
nước Kosala, đi đến Bà-la-môn Sanjaya thuộc
ḍng họ Akasa, sau khi đến, liền thưa với
Bà-la-môn Sanjaya, thuộc ḍng họ Akasa: "Thưa Tôn
giả, vua Pasenadi nước Kosala cho gọi Tôn
giả".
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế
Tôn:
–
– Thưa Đại vương, Ta tự xem là
đă nói những lời như sau: "Không có một Sa-môn
hay Bà-la-môn nào có thể trong một lúc, biết hoàn toàn và
thấy hoàn toàn, không thể có sự t́nh như
vậy".
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân
duyên (heturupam). Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết liên
hệ đến nhân duyên (saheturupam) và nói như sau:
"Không có một Sa-môn nào hay Bà-la-môn nào có thể trong
một lúc, biết hoàn toàn và thấy hoàn toàn, không thể có
sự t́nh như vậy". Bạch Thế Tôn, có bốn
giai cấp này: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà.
Bạch Thế Tôn, giữa bốn giai cấp này có
những khác biệt nào, sai biệt nào ?
– Thưa Đại vương, có bốn giai
cấp này: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá và
Thủ-đà. Thưa Đại vương, giữa
bốn giai cấp này, hai giai cấp Sát-đế-lỵ và
Bà-la-môn được xem là tối thượng về
xưng hô; hai giai cấp kia từ
chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay và giúp
đỡ họ các công việc.
– Bạch Thế Tôn, con không hỏi về
hiện tại. Bạch Thế Tôn, con hỏi về
tương lai. Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà.
Bạch Thế Tôn, trong bốn giai cấp này, có những
khác biệt nào, sai biệt nào ?
– Thưa Đại vương, có năm tinh
cần chi này. Thế nào là năm ? Ở
đây, thưa Đại vương, Tỷ-kheo có ḷng tin,
tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai:
"Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị
ấy ít bệnh, ít năo, sự tiêu hóa được
điều ḥa, không lạnh quá, không nóng quá, trung b́nh,
hợp với tinh tấn. Vị ấy không gian trá,
không xảo trá, nêu rơ tự ḿnh như chơn đối
với bậc Đạo sư, đối với các
vị sáng suốt hay đối với các đồng
Phạm hạnh. Vị ấy sống siêng
năng, tinh tấn, từ bỏ các ác pháp, thành tựu các
thiện pháp, kiên cố, kiên tŕ, không từ bỏ gánh
nặng đối với thiện pháp. Vị
ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sự sanh
diệt các pháp, với sự thể nhập của các
bậc Thánh, đưa đến chơn chánh đoạn
diệt các khổ đau". Thưa Đại
vương có bốn giai cấp này: Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà. Và nếu các
giai cấp này thành tựu năm tinh cần chi này, như
vậy sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc
lâu dài cho họ.
– Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà.
Nếu những vị này thành tựu năm tinh cần chi
này, bạch
– Thưa Đại vương, ở đây, Ta
nói đến sự sai biệt trong tinh cần. Ví như,
thưa Đại vương, giữa những con voi
đáng được điều phục, hay những con
ngựa đáng được điều phục, hay
những con ḅ đáng được điều phục,
có hai con voi, hai con ngựa, hay hai con ḅ được khéo
điều phục, được khéo huấn luyện,
và có hai con voi, hai con ngựa, hay hai con ḅ không
được khéo điều phục, không
được khéo huấn luyện. Thưa Đại
Vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Hai con voi, hai con ngựa, hay hai con ḅ
được khéo điều phục, được khéo
huấn luyện, có phải chúng được
điều phục, đạt được khả
năng điều phục (dantakaranam), chúng được
điều phục, đạt được vị trí
điều phục (dantabhumi) ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– C̣n hai con voi, hai con ngựa, hay hai con ḅ không
được khéo điều phục kia, không
được khéo huấn luyện kia, không
được điều phục mà chúng đạt
được khả năng điều phục, không
được điều phục mà chúng đạt
được vị trí điều phục như hai con
voi, hai con ngựa, hay hai con ḅ được khéo
điều phục kia, được khéo huấn
luyện kia ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, thưa Đại vương,
những ǵ đạt được do ḷng tin, do ít
bệnh tật, do không gian trá, không dối trá, do tinh cần
tinh tấn, do trí tuệ, cũng sẽ do bất tín, do
nhiều bệnh tật, do xảo trá, do dối trá
đạt được, sự t́nh như vậy không
thể xảy ra.
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân
duyên (heturupam), Thế Tôn thuyết liên hệ đến nhân
duyên. Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà. Và
nếu các vị này thành tựu năm tinh cần chi này,
nếu họ chân chánh tinh cần, th́ bạch Thế Tôn, có
thể có sự khác biệt nào, có thể có sự sai biệt
nào giữa các vị này không ?
– Thưa Đại vương, ta nói không có
sự khác biệt ǵ về phương diện giải
thoát đối với giải thoát. Ví như,
thưa Đại vương, một người đem
củi khô từ cây sala lại và nhen lửa, lửa sẽ
hiện ra. Và một người khác
đem củi khô từ cây sala lại và nhen lửa, lửa
sẽ hiện ra. Rồi có một
người khác đem củi khô từ cây xoài lại và
nhen lửa, lửa sẽ hiện ra. Rồi có một
người khác đem củi khô từ cây udumbara (cây sung ?) lại và nhen lửa, lửa sẽ
hiện ra. Thưa Đại vương, Đại
vương nghĩ thế nào ? V́
rằng các loại củi dùng để nhen lửa sai khác,
vậy có những sai khác ǵ, giữa ngọn lửa với
ngọn lửa, giữa màu sắc với màu sắc,
giữa ánh sáng với ánh sáng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, thưa Đại vương,
với sức nóng do tinh tấn tạo nên, do tinh cần
nhen nhúm lên, ở đây, Ta nói không có một sự sai
biệt ǵ về giải thoát đối với giải
thoát.
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân
duyên, Thế Tôn thuyết liên hệ đến nhân duyên.
Bạch Thế Tôn, nhưng có chư Thiên không
?
– Thưa Đại vương, sao Đại
vương có thể nói: "Bạch Thế Tôn, nhưng có
chư Thiên không ?"
–
– Thưa Đại vương, chư
Thiên nào có năo hại tâm, sanh lại tại đây; chư
Thiên nào không có năo hại tâm, không sanh lại tại đây.
Khi được nghe nói vậy, tướng quân
Vidudabha bạch Thế Tôn:
–
Tôn giả Ananda khởi lên ư nghĩ như sau:
"Tướng quân Vidudabha này là con vua Pasenadi nước
Kosala, ta là con Thế Tôn. Nay đă đến thời
người con nói chuyện với người con".
Rồi Tôn giả Ananda nói với tướng quân Vidudabha:
–
– Thưa Tôn giả, xa rộng cho đến lănh
thổ của vua Pasenadi nước Kosala và chỗ nào vua
Pasenadi nước Kosala ngự trị, trị v́; tại
chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala có thể đánh
đuổi hay trục xuất vị Sa-môn hay Bà-la-môn có công
đức tu hành, hay không có công đức tu hành, có sống
Phạm hạnh hay không sống Phạm hạnh ra khỏi
chỗ ấy.
–
– Thưa Tôn giả, xa rộng ra ngoài lănh thổ
của vua Pasenadi nước Kosala, và tại chỗ của
vua Pasenadi nước Kosala không ngự trị, không trị
v́; tại chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala không có
thể đánh đuổi... (như
trên)... ra khỏi chỗ ấy.
–
– Thưa vâng, Tôn giả. Chúng tôi có nghe nói
đến chư Thiên ở cơi trời
Ba mươi ba. Và ở đây, vua Pasenadi nước Kosala
cũng nghe có nói đến chư Thiên
ở cơi trời Ba mươi ba.
–
–
– Cũng vậy, này Tướng quân, chư Thiên
có năo hại tâm, sanh lại tại đây, không có thể
thấy được chư Thiên không có năo hại tâm,
không sanh lại tại đây, làm sao lại có thể
đánh đuổi hay tẩn xuất chư Thiên không có năo
hại tâm, không sanh lại tại đây ra khỏi chỗ
ấy được?
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế
Tôn:
–
– Thưa Đại vương, tên là Ananda !
– Thật hân hoan thay ! Thật
hoan hỷ thay ! Tôn giả
Ananda thuyết có nhân duyên, Ananda thuyết liên hệ
đến nhân duyên. Bạch Thế Tôn, có Phạm thiên
không ?
– Thưa Đại vương, sao Đại
vương có thể nói như vậy: "Bạch Thế
Tôn, có Phạm thiên không ?".
–
– Thưa Đại vương, nếu Phạm
thiên có năo hại tâm th́ Phạm thiên ấy có sanh lại
tại đây. Nếu không có năo hại tâm,
thời Phạm thiên ấy không sanh lại tại đây.
Rồi một người khác tâu với vua
Pasenadi nước Kosala:
– Tâu Đại vương, Bà-la-môn Sanjaya,
thuộc ḍng họ Akasa đă đến.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với
Bà-la-môn Sanjaya, thuộc ḍng họ Akasa:
– Này Bà-la-môn, ai phổ biến câu chuyện này
trong nội cung ?
– Tâu Đại vương, tướng quân
Vidudabha.
Tướng quân Vidudabha lại nói:
– Tâu Đại vương, chính Bà-la-môn Sanjaya,
thuộc ḍng họ Akasa.
Rồi có một người tâu với vua Pasenadi
nước Kosala:
– Tâu Đại vương, nay đă đến
thời dùng xe.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, chúng con đă hỏi Thế
Tôn về nhất thiết trí.
– Đại vương hăy làm
những ǵ Đại vương nghĩ là hợp
thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín
thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng
với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm
vị. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithila
(Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đă
đến tuổi trưởng thượng, đă
gần măn cuộc đời, tuổi đă đến
một trăm hai mươi, một vị đọc
tụng Thánh điển, chấp tŕ chú thuật, tinh thông ba
tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên
và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ
ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế
luận và Đại nhân tướng. Bà-la-môn Brahmayu có nghe:
"Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ ḍng họ
Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm
vị". Tiếng đồn tốt đẹp sau
đây được truyền đi về Tôn giả
Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ
thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên
giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài
Người. Khi đă chứng ngộ,
Ngài c̣n tuyên thuyết điều Ngài đă chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy
đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ, trong sạch. Tốt đẹp
thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy ! ".
Lúc bấy giờ đệ tử của Bà-la-môn
Brahmayu là thanh niên Uttara... một vị tinh thông ba tập
Veda... (như trên)... và Đại nhân
tướng. Rồi Bà-la-môn Brahmayu bảo thanh niên Uttara:
– Này Uttara thân mến, Sa-môn Gotama này là Thích
tử... Chánh Đẳng Giác... (như
trên)... Thật tốt đẹp thay
được yết kiến một vị A-la-hán như
vậy. Uttara thân mến, hăy đi đến Sa-môn
Gotama, sau khi đến hăy t́m hiểu Sa-môn Gotama, có phải
là Tôn giả Gotama như tiếng đă đồn, hay là
không phải, hay là Tôn giả Gotama như thế này, hay là
không phải như thế này. Chính nhờ Ông
mà chúng ta biết về Tôn giả Gotama. Ta cũng
vậy, tùy theo điều Ông nói, ta sẽ biết Tôn
giả Gotama có phải là Tôn giả Gotama như tiếng
đă đồn, hay là không phải, hay là Tôn giả Gotama
như thế này, hay là không phải như thế này. Này
Uttara thân mến, theo Thánh điển của chúng ta
được truyền lại về ba mươi hai
Đại nhân tướng, những ai có ba mươi hai
tướng ấy sẽ chọn một trong hai con
đường, không có con đường nào khác: nếu
là tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh
vương chinh phục mọi quốc độ,
đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu này là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc
nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng
quân báu. Và vị này có hơn một ngàn con trai, là những
vị anh hùng, oai phong lẫm liệt, chiến thắng
ngoại quân. Vị này sống thống lănh
quả đất cùng tận cho đến đại
dương, và trị v́ với Chánh pháp, không dùng gậy,
không dùng đao. Nếu vị này xuất
gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, vị
này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Đẳng Giác quét
sạch mê lầm ở đời. Này Uttara thân
mến, ta đă cho con chú thuật, Ông đă nhận
những chú thuật ấy.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên Uttara vâng đáp Bà-la-môn Brahmayu, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Bà-la-môn Brahmayu, giữ thân hướng về phía hữu,
rồi ra đi du hành đến Thế Tôn ở Videha,
tuần tự du hành đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm
với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Uttara
t́m xem ba mươi hai Đại nhân tướng trên thân
Rồi thanh niên Uttara suy nghĩ: "Sa-môn Gotama có
đầy đủ ba mươi hai Đại nhân
tướng. Vậy ta hăy
– Này Uttara thân mến, có phải tiếng
đồn về Tôn giả Gotama là đúng như vậy,
không phải khác, có phải Tôn giả Gotama là như
vậy, không phải khác ?
– Tiếng đồn về Tôn giả Gotama là
đúng như vậy, không phải khác, Tôn giả Gotama là
như vậy, không phải khác.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Brahmayu từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào
một bên vai, chắp tay hướng đến
– Đảnh lễ
Rồi Thế Tôn, tuần tự du hành ở
Videha và đi đến Mithila. Ở
đấy,
Bà-la-môn Brahmayu nghe như sau: "Sa-môn Gotama là Thích
tử, xuất gia từ ḍng họ Thích-ca, đă
đến Mithila và trú ở Mithila tại rừng xoài
Makhadeva". Rồi Bà-la-môn Brahmayu đi
đến rừng xoài Makhadeva cùng với một số
đông thanh niên Bà-la-môn. Khi đến không xa rừng
xoài bao nhiêu, Bà-la-môn Brahmayu khởi lên ư nghĩ: "Thật
không thích đáng cho ta đến yết kiến Sa-môn Gotama
mà không báo trước". Rồi Bà-la-môn Brahmayu bảo
một người thanh niên:
– Này Thanh niên, hăy đi đến Sa-môn Gotama, sau
khi đến hăy nhân danh ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có ít
bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú:
"Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmayu hỏi thăm
Tôn giả Gotama có ít bệnh, ít năo, khinh an, có mạnh
khỏe, lạc trú và thưa như sau: "Thưa Tôn
giả Gotama, Bà-la-môn Brahmayu già yếu, niên cao, lạp
lớn, đă đến tuổi trưởng
thượng, đă gần măn cuộc đời, tuổi
đă đến một trăm hai mươi, một
vị đọc tụng Thánh điển, chấp tŕ chú
thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng,
lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ
truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm
hiểu Thuận thế luận và Đại nhân
tướng. Thưa Tôn giả, đối với các
Bà-la-môn, Gia chủ sống tại Mithila, Bà-la-môn Brahmayu
được xem là tối thượng về
phương diện tài sản, Bà-la-môn Brahmayu
được xem là tối thượng về
phương diện chú thuật (manta), Bà-la-môn Brahmayu
được xem là tối thượng về
phương diện tuổi tác và danh vọng. Vị ấy muốn yết kiến Tôn giả
Gotama".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên ấy vâng đáp Bà-la-môn Brahmayu, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những
lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn, sau khi nói lên
những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền đứng một bên. Đứng một bên, thanh
niên ấy bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmayu hỏi
thăm Tôn giả Gotama có ít bệnh, ít năo, khinh an, có
mạnh khỏe, lạc trú: "Thưa Tôn giả Gotama,
Bà-la-môn Brahmayu già yếu... (như trên)...
và Đại nhân tướng. Thưa Tôn giả,
đối với các Bà-la-môn, Gia chủ sống ở
Mithila, Bà-la-môn Brahmayu được xem là tối
thượng về phương diện tài sản, Bà-la-môn
Brahmayu được xem là tối thượng về
phương diện chú thuật (manta), Bà-la-môn Brahmayu
được xem là tối thượng về
phương diện tuổi tác và danh vọng. Vị ấy muốn yết kiến Tôn giả
Gotama".
–
Rồi vị thanh niên ấy đi đến
Bà-la-môn Brahmayu, sau khi đến, liền thưa với
Bà-la-môn Brahmayu:
– Tôn giả đă được Sa-môn Gotama
chấp nhận. Nay Tôn giả hăy làm những
ǵ Tôn giả nghĩ là hợp thời.
Rồi Bà-la-môn Brahmayu đi
đến
– Thôi vừa rồi, các Tôn giả, hăy ngồi trên
chỗ ngồi của ḿnh. Ở đây, tôi
sẽ ngồi gần Sa-môn Gotama.
Rồi Bà-la-môn Brahmayu đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi
thăm Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Brahmayu
t́m xem ba mươi hai Đại nhân tướng trên thân
Tôn giả Gotama !
Ba hai Đại
nhân tướng,
Con được
nghe nói đến,
Hai tướng con
không thấy
Trên thân của Tôn
giả,
Tôn giả, mă âm
tàng,
Bậc tối
thượng loài Người,
Ngài có hay không có ?
Hay là tướng
nữ nhân ?
Hay lưỡi Ngài
quá ngắn ?
Hay lưỡi Ngài
rộng dài ?
Để con
như thật biết.
Hăy đưa
lưỡi Ngài ra,
Mong bậc
Đại Tiên Nhân,
Trừ nghi cho chúng
con,
V́ an lạc
hiện tại,
V́ hạnh phúc
tương lai,
Chúng con xin
được phép,
Hỏi
điều muốn được biết.
Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Bà-la-môn Brahmayu
này thấy trên thân Ta phần lớn ba mươi hai
Đại nhân tướng, trừ hai tướng,
đối với hai Đại nhân tướng ấy,
nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được
thỏa măn, chưa được hài ḷng, tức là mă
tướng âm tàng và tướng lưỡi rộng
dài". Thế Tôn liền dùng thần thông khiến Bà-la-môn
Brahmayu thấy được tướng mă âm tàng của
Thế Tôn, và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến,
liếm đến hai lỗ tai; rờ đến liếm
đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi che khắp
cả vùng trán.
Rồi Thế Tôn trả lời Bà-la-môn Brahmayu
với bài kệ:
Ba hai Đại
nhân tướng,
Ông đă
được nghe đến,
Đều có trên
thân Ta,
Hiền giả,
chớ có nghi !
Điều
cần biết, đă biết,
Điều
cần tu, đă tu,
Điều
cần trừ, đă trừ,
Do vậy, Ta là
Phật.
(Này Bà-la-môn ! )
V́ an lạc
hiện tại,
V́ hạnh phúc
tương lai,
Ông được
phép vấn hỏi,
Những điều
Ông muốn biết.
Rồi Bà-la-môn Brahmayu suy nghĩ như sau: "Nay
Sa-môn Gotama đă cho phép ta. Vậy ta nên
hỏi Sa-môn Gotama về mục đích hiện tại hay
tương lai". Rồi Bà-la-môn Brahmayu suy nghĩ: "Ta
đă thiện xảo về mục đích hiện tại
và các người khác hỏi ta về mục đích
hiện tại. Vậy ta hăy hỏi Sa-môn
Gotama về mục đích tương lai". Rồi
Bà-la-môn Brahmayu dùng bài kệ thưa Thế Tôn:
Thế nào (là)
Bà-la-môn ?
Thế nào thông
Vệ-đà ?
Thế nào là ba minh ?
Thế nào gọi
cát tường ?
Thế nào là
ứng cúng ?
Thế nào bậc
Viên măn ?
Thế nào bậc
Mâu-ni ?
Thế nào gọi
Phật-đà ?
Rồi Thế Tôn dùng bài kệ trả lời
Bà-la-môn Brahmayu:
Ai biết
được đời trước,
Thấy thiện
thú, ác thú,
Đoạn
tận được tái sanh,
Thắng trí
được viên thành,
Vị ấy gọi Mâu-ni.
Ai biết tâm thanh
tịnh,
Giải thoát
gọi tham dục,
Sanh tử
đều đoạn tận,
Phạm hạnh
được viên thành,
Thông đạt
nhứt thiết pháp,
Vị ấy
xưng Phật-đà.
Khi được nghe vậy, Bà-la-môn Brahmayu
từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp
thượng y vào một bên vai, cúi đầu xuống
dưới chân Thế Tôn, dùng miệng hôn xung quanh chân
Thế Tôn, lấy tay rờ xung quanh và tự xưng danh:
–
Và hội chúng ấy tâm tư trở thành kinh
dị, vi diệu: "Thật vi diệu thay
! Thật hy hữu thay, đại uy lực,
đại thần lực của vị Sa-môn đă
khiến cho Bà-la-môn Brahmayu này, với danh tiếng, danh
vọng như vậy, lại hạ ḿnh tối đa
như vậy". Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn
Brahmayu:
– Thôi vừa rồi, Bà-la-môn, hăy đứng
dậy. Ông hăy ngồi trên ghế của Ông v́
tâm của Ông đă hoan hỷ đối với Ta.
Rồi Bà-la-môn Brahmayu, sau khi
đứng dậy, liền ngồi trên ghế của ḿnh. Rồi Thế Tôn thứ lớp
thuyết pháp cho Bà-la-môn Brahmayu, thuyết về bố thí,
thuyết về tŕ giới, thuyết về các cơi Trời,
tŕnh bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự
nhiễm ô của dục lạc và sự lợi ích của
xuất ly. Khi Thế Tôn biết tâm của Bà-la-môn Brahmayu
đă sẵn sàng, đă nhu thuận, không c̣n chướng
ngại, được phấn khởi, được
tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đă
đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Cũng như tấm vải thuần bạch,
được gột rửa các vết đen, sẽ
rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy, chính
tại chỗ ngồi này, pháp nhăn xa trần ly cấu
khởi lên trong tâm Bà-la-môn Brahmayu: "Phàm pháp ǵ
được tập khởi lên đều bị tiêu
diệt". Bà-la-môn Brahmayu thấy pháp, chứng pháp,
ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ,
do dự diệt tận, chứng được tự
tin, không y cứ nơi người khác đối với
đạo pháp của đức Bổn sư. Bà-la-môn
Brahmayu liền bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Như người dựng đứng lại
những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra
những ǵ bị che kín, chỉ đường cho
người bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đă
được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương
tiện tŕnh bày, giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp
và quy y chúng Tỷ-kheo.
Bà-la-môn Brahmayu sau khi đêm ấy đă măn, sau khi
đă sửa soạn tại trú xá của ḿnh các món ăn
thượng vị, loại cứng và loại mềm,
liền báo th́ giờ cho Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, nay
đă đến giờ, cơm đă sẵn sàng".
Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, lấy y bát,
đi đến trú xá của Bà-la-môn Brahmayu, sau khi
đến liền ngồi trên chỗ đă soạn
sẵn với chúng Tỷ-kheo. Bà-la-môn Brahmayu tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức
Phật là vị cầm đầu, thỏa măn bằng
những món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm.
Sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, Bà-la-môn Brahmayu
mệnh
–
– Này các Tỷ-kheo, Bà-la-môn Brahmayu là bậc
hiền triết. Vị ấy