96.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (
–
– Nhưng này các Bà-la-môn, có phải tất cả
mọi người ở đời đồng ư với
các Bà-la-môn khi họ chủ trương bốn loại
phụng sự này ?
– Không có vậy, thưa Tôn giả Gotama.
– Này Bà-la-môn, ví như một người nghèo nàn,
không có sở hữu, khốn khổ, dầu cho
người không muốn, bị bắt nuốt miếng
thịt: "Này người kia, Ông phải ăn miếng
thịt này và Ông phải trả một số tiền".
Cũng vậy, này Bà-la-môn, dầu không được các
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chấp nhận, các Bà-la-môn chủ
trương bốn loại phụng sự này. Này Bà-la-môn,
Ta không nói rằng, tất cả cần phải phụng
sự. Nhưng này Bà-la-môn, Ta cũng không nói rằng,
tất cả không cần phải phụng sự. V́
rằng, này Bà-la-môn, nếu có ai trong khi phụng sự,
trở thành xấu hơn, không trở thành tốt hơn,
Ta không nói rằng, người đó cần phải
phụng sự. Nhưng này Bà-la-môn , nếu có ai trong khi
phụng sự, trở thành tốt hơn, không trở thành
xấu hơn. Ta nói rằng, người đó cần
phải phụng sự. Và nếu này Bà-la-môn, có
người hỏi vị Khattiya như sau:
"Người phụng sự cho Ông, do nguyên nhân phụng
sự này trở thành xấu hơn, không trở thành
tốt hơn; hay người phụng sự cho Ông, do
nguyên nhân phụng sự này trở thành tốt hơn, không
trở thành xấu hơn ? Và như vậy ông ở đây
cần phải được phụng sự bởi
người nào ?"
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Esukari bạch
– Thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ
trương bốn loại tài sản, chủ trương
tài sản của người Bà-la-môn, chủ trương
tài sản của người Khattiya, chủ trương
tài sản của người Vessa, chủ trương tài
sản của người Sudda. Ở đây, thưa Tôn
giả Gotama, các Bà-la-môn chủ trương tài sản
của Bà-la-môn là khất thực. Nhưng khi người
Bà-la-môn khinh thường tài sản khất thực,
người ấy không làm bổn phận của ḿnh và
giống như người chăn ḅ lấy của không
cho. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn
chủ trương tài sản của Bà-la-môn. Ở đây,
thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ trương tài
sản của Khattiya là cung và tên. Nhưng khi người
Khattiya khinh thường tài sản cung và tên, người
ấy không làm bổn phận của ḿnh, và giống như
người chăn ḅ lấy của không cho. Như
vậy, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ
trương tài sản của Khattiya. Ở đây, thưa
Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ trương tài sản
của Vessa là canh nông và nuôi ḅ. Nhưng khi người Vessa
khinh thường tài sản canh nông và nuôi ḅ, người
ấy không làm bổn phận của ḿnh, và giống như
người chăn ḅ lấy của không cho. Như
vậy, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ
trương tài sản của Vessa. Ở đây, thưa Tôn
giả Gotama, các Bà-la-môn chủ trương tài sản
của Sudda là lưỡi liềm và đ̣n gánh. Nhưng khi
người Sudda khinh thường tài sản lưỡi
liềm và đ̣n gánh, người ấy không làm bổn
phận của ḿnh và giống như người chăn ḅ
lấy của không cho. Như vậy, thưa Tôn giả
Gotama, các Bà-la-môn, chủ trương tài sản của
người Sudda. Các Bà-la-môn, thưa Tôn giả Gotama,
chủ trương bốn loại tài sản này. Ở
đây, Tôn giả Gotama nói ǵ về vấn đề này ?
– Này Bà-la-môn, có phải tất cả mọi
người ở đây đông ư với các Bà-la-môn khi
họ chủ trương bốn loại tài sản này ?
– Không có vậy, thưa Tôn giả Gotama.
– Này Bà-la-môn, ví như một người nghèo nàn,
không có sở hữu, khốn khổ, dầu cho
người đó không muốn, bị bắt nuốt
miếng thịt: "Này người kia, Ông phải ăn
miếng thịt này và Ông phải trả một số
tiền". Cũng vậy, này Bà-la-môn, dầu không
được các Bà-la-môn, Sa-môn ấy chấp nhận, các
Bà-la-môn vẫn chủ trương bốn loại tài
sản này. Này Bà-la-môn, Ta chủ trương tài sản cho
con người là Thánh pháp vô thượng. Trong khi nhớ
đến gia hệ thuở xưa của ḿnh về phía
cha và mẹ, chỗ nào một tự thể sanh ra, thời
sẽ được chấp nhận tùy thuộc chỗ
ấy. Nếu tự thể được sanh ra trong
một gia đ́nh Khattiya, thời được chấp
nhận là Khattiya. Nếu tự thể được sanh
ra trong một gia đ́nh Bà-la-môn , thời được
chấp nhận là Bà-la-môn. Nếu tự thể
được sanh ra trong một gia đ́nh Vessa, thời
được chấp nhận là Vessa. Nếu tự
thể được sanh ra trong một gia đ́nh Sudda,
thời được chấp nhận là Sudda. Này Bà-la-môn,
như tùy thuộc duyên ǵ một ngọn lửa
được đốt lên, thời ngọn lửa
được chấp nhận
– Thưa không phải vậy, Tôn giả Gotama.
– Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu một
người từ gia đ́nh Khattiya, xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, người
ấy nhờ pháp và luật do
– Thưa không phải vậy, Tôn giả Gotama.
Người Khattiya, thưa Tôn giả Gotama, cũng có
thể lấy cào lưng và bột tắm, đi
đến sông và tắꭠrửa cho sạch đất
và bụi, người Bà-la-môn cũng vậy, thưa Tôn
giả Gotama; người Vessa cũng vậy, thưa Tôn giả
Gotama; người Sudda cũng vậy, thưa Tôn giả
Gotama. Tất cả bốn giai cấp, thưa Tôn giả
Gotama, đều có thể lấy cào lưng và bột
tắm đi đến sông và tắm rửa cho sạch
đất và bụi.
– Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu từ một
gia đ́nh Khattiya, có người xuất gia, từ bỏ
gia đ́nh, sống không gia đ́nh, người này nhờ
pháp và luật do
– Không phải vậy, thưa Tôn giả Gotama.
Ngọn lửa được nhen lên, sức nóng
được tạo ra, thưa Tôn giả Gotama, từ
người thuộc gia đ́nh Khattiya, thuộc gia đ́nh
Bà-la-môn, sanh từ hoàng tộc, sau khi đem đến
bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng
cây saka hay cây sala, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen,
ngọn lửa ấy có ngọn, có màu sắc, có ánh sáng,
ngọn lửa ấy dùng được vào các công việc
do lửa đem lại; c̣n ngọn lửa được
nhen lên, và sức nóng tạo ra từ người thuộc
gia đ́nh hạ tiện, thuộc gia đ́nh săn
bắn, thuộc gia đ́nh làm đồ tre, thuộc gia
đ́nh làm xe cộ, thuộc gia đ́nh đổ phân, sau
khi đem đến bộ phận trên của đồ
quay lửa, làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn,
hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y-lan,
lửa ấy cũng có ngọn, cũng có màu sắc,
cũng có ánh sáng, và ngọn lửa ấy có thể dùng
được vào các công việc do lửa đem lại.
– Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu có
người từ gia đ́nh Khattiya xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, nhờ pháp và
luật do Như Lai tuyên thuyết, người ấy
từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, người ấy
được xem là thành tựu chánh đạo, thiện
pháp. Nếu có người từ gia đ́nh Bà-la-môn...
Nếu có người từ gia đ́nh Vessa... Nếu có
người từ gia đ́nh Sudda, xuất gia, từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, nhờ pháp và
luật do Như Lai tuyên thuyết, người ấy
từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, người ấy
được xem là thành tựu chánh đạo, thiện
pháp.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Esukari bạch
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật
vi diệu thay Tôn giả Gotama ! ...
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha
(Vương Xá), Veluvana (
–
–
–
–
– Ở đây, này Hiền giả, có Bà-la-môn tên là
Dhananjani ở tại Tandulapala.
–
–
–
–
– Hăy uống sữa này và chờ cho đến
giờ ăn cơm.
– Thôi vừa rồi, Bà-la-môn. Hôm nay ta đă ăn
xong. Ta sẽ ngồi nghĩ trưa ở một góc cây. Ông
có thể đến đó.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp Tôn giả Sariputta.
Rồi Bà-la-môn Dhananjani sau khi ăn sáng xong, liền đi
đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến nói lên
với Tôn giả Sariputta những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Tôn
giả Sariputta nói với Bà-la-môn Dhananjani đang ngồi
một bên:
–
– Thưa Tôn giả Sariputta, làm sao chúng tôi có
thể không phóng dật được, khi chúng tôi c̣n cha
mẹ phải phụng dưỡng, c̣n vợ con phải
nuôi dưỡng, c̣n đầy tớ, lao công phải nuôi
dưỡng, c̣n có những trách nhiệm bạn bè thân
hữu phải làm đối với bạn bè thân hữu,
c̣n có những trách nhiệm bà con huyết thống phải
làm đối với bà con huyết thống, c̣n có những
trách nhiệm tân khách phải làm đối với tân khách,
c̣n có những trách nhiệm tổ tiên phải làm
đối với tổ tiên, c̣n có những trách nhiệm
Thiên thần phải làm đối với Thiên thần, c̣n
có những trách nhiệm vua chúa phải làm đối
với vua chúa, lại c̣n thân này cần phải làm cho
thỏa măn và trưởng dưỡng !
–
– Thưa không được, Tôn giả Sariputta.
Các địa ngục quân vẫn quăng người
ấy xuống địa ngục, dầu người
ấy có khóc than.
–
– Thưa không được, Tôn giả Sariputta.
Các địa ngục quân vẫn quăng người
ấy xuống địa ngục, dầu người
ấy có khóc than.
–
– Thưa không được, Tôn giả Sariputta.
Các địa ngục quân vẫn quăng người
ấy xuống địa ngục, dầu người
ấy có khóc than.
–
– Thưa không được, Tôn giả Sariputta.
Các địa ngục quân vẫn quăng người
ấy xuống địa ngục, dầu người
ấy có khóc than.
–
–
–
–
–
–
– Này Dhananjani, có những hành động khác có
nhân, đúng pháp, với những hành động này có
thể nuôi dưỡng đầy tớ lao công, không làm các
điều ác, làm được các thiện hành.
–
–
–
–
–
– Này Dhananjani, có những hành động khác có
nhân, đúng pháp, với những hành động này có
thể làm các bổn phận tân khách đối với tân
khách, không làm các điều ác, làm được các
thiện hành.
–
– Này Dhananjani, có những hành động khác có
nhân, đúng pháp, với những hành động này có
thể làm được những trách nhiệm tổ tiên
phải làm đối với các tổ tiên, không làm các
điều ác, làm được các thiện hành.
–
–
–
– Này Dhananjani, có những hành động khác có
nhân, đúng pháp, có thể làm các trách nhiệm vua chúa
phải làm đối với vua chúa, không làm các điều
ác, làm được các thiện hành.
–
–
Bà-la-môn Dhananjani hoan hỷ tín thọ lời Tôn
giả Sariputta dạy, từ chỗ ngồi đứng
dậy và ra đi.
Bà-la-môn Dhananjani sau một thời gian bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi
Bà-la-môn Dhananjani cho gọi một người khác:
– Ông hăy đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, hăy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ
chân thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn
Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị bạo
bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Thế
Tôn".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người ấy vâng
– Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhananjani bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Rồi đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi
đến đảnh lễ Tôn giả Sariputta rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
người ấy thưa với Tôn giả Sariputta:
– Thưa Tôn giả, Bà-la-môn Dhananjani bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi
đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa:
"Thưa tôn giả, lành thay nếu Tôn giả Sariputta v́
ḷng từ bi thương xót, đi đến trú xá của
Bà-la-môn Dhananjani".
Tôn giả Sariputta im lặng nhận lời.
– Ta mong, này Dhananjani, Ông có thể kham nhẫn; ta
mong Ông có thể chịu đựng; ta mong khổ thọ
được giảm thiểu, không có gia tăng, và
sự giảm thiểu được rơ rệt, không có gia
tăng !
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
–
– Tôn giả Sariputta đă nói: "Phạm thiên
giới". Tôn giả Sariputta đă nói: "Phạm thiên
giới".
–
– Thưa vâng.
Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn
giả Sariputta thuyết như sau:
–
– Vậy thưa Tôn giả Sariputta, hăy nhân danh tôi
cúi đầu đảnh lễ
Rồi Tôn giả Sariputta, dầu cho có những
cảnh giới cao thượng hơn cần phải
chứng, sau khi an trú Bà-la-môn vào Phạm thiên giới
thấp kém, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi. Và Bà-la-môn Dhananjani, sau khi Tôn giả Sariputta ra đi
không bao lâu, liền mệnh
– Này các Tỷ-kheo, dầu cho có những cảnh
giới cao thượng hơn cần phải chứng,
Sariputta sau khi an trú Bà-la-môn Dhananjani vào Phạm thiên giới
thấp kém, đă từ chỗ ngồi đứng dậy
và ra đi.
– Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhananjani bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
– Này Sariputta, v́ sao, dầu cho có những cảnh
giới cao thượng hơn cần phải chứng, Ông
sau khi an trú Bà-la-môn Dhananjani vào Phạm thiên giới thấp
kém, đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi ?
–
– Và này Sariputta,
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala
(Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. Lúc bấy
giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú
tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn
Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều
Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên
Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu
chuyện sau đây được khởi lên: "Thế
nào là một vị Bà-la-môn ?"
Thanh niên Bharadvaja nói như sau:
– Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến
bảy đời tổ phụ, không bị một vết
nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn
đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm
một vị Bà-la-môn.
Thanh niên Vasettha nói như sau:
– Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các
cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.
Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết
phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha
không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh
niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja:
– Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất
gia từ ḍng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala,
tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt
đẹp sau đây được truyền đi về
Tôn giả Gotama: "Đây là
– Thưa vâng.
Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha.
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với
Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi
nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ
bạch
Chúng con cả hai
người,
Được tôn
xưng, tự nhận,
Là những bậc
thông thái
Cả ba tập
Vệ-đà.
Con là đệ
tử Ngài,
Pokkharasati,
C̣n vị thanh niên
này,
Đệ tử
Tarukkha.
Chúng con đều
thông đạt,
Văn cú và văn
phạm,
Chúng con đều
thấu hiểu,
Thuyết giảng
và giải thích,
Thật giống
bậc Đạo sư.
Tôn giả Gotama,
Giữa hai
người chúng con
Có sự tranh
luận này,
Về huyết
thống thọ sanh.
Bharadvaja nói:
"Chính do sự
thọ sanh".
Con nói: "Do hành
động,
Mới thành
Bà-la-môn".
Mong bậc có Pháp
nhăn,
Hiểu cho là
như vậy.
Cả hai
người chúng con,
Không thể
thuyết phục nhau.
Chúng con đến
hỏi Ngài,
Như trăng
được tṛn đầy,
Quần chúng
đến chấp tay,
Đảnh lễ
và chiêm ngưỡng.
Cũng vậy,
ở trong đời,
Quần chúng
đến đảnh lễ,
Chúng con đến
hỏi Ngài,
Bậc Pháp nhăn
thế gian,
Bà-la-môn do sanh,
Hay chính do hành
động ?
Chúng con không
được biết,
Hăy nói chúng con
biết.
Đức
Ta trả lời
cho Ông,
Thuận thứ và
như thật,
Sự phân loại
do sanh,
Của các loại
hữu t́nh,
Chính do sự sanh
đẻ,
Do sanh, có dị
loại.
Hăy xem cỏ và cây,
Dầu chúng không
nhận thức,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị
loại.
Hăy xem loại côn
trùng,
Bướm
đêm, các loại kiến,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị
loại.
Hăy xem loại
bốn chân,
Loại nhỏ và
loại lớn,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị
loại.
Hăy xem loài ḅ sát,
Loại rắn,
loại lưng dài,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị
loại.
Hăy xem các loại
cá,
Loại sinh
sống trong nước,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Da sanh, có dị
loại.
Hăy xem các loại
chim,
Loại có cánh trên
trời,
Chúng có
tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị
loại.
Tùy theo sự
thọ sanh,
Chúng có
tướng tùy sanh.
Trong thế
giới loài Người,
Tướng sanh
không có nhiều,
Không ở
đầu mái tóc,
Không ở tai,
ở mắt,
Không ở
miệng, ở mũi,
Không ở môi,
ở mày,
Không ở cổ,
ở nách,
Không ở
bụng, ở lưng,
Không ở
ngực, ở vú,
Không âm hộ, hành
dâm.
Không ở tay,
ở chân,
Không ở ngón,
ở móng,
Không ở cổ
chân, vế,
Không ở sắc,
ở tiếng.
Không tướng,
do tùy sanh,
Tùy sanh, loại sai
khác.
Trên tự thân con
người,
Không có ǵ
đặc biệt.
Chỉ tùy theo danh
xưng,
Loài Người
được kêu gọi,
Đối
người tự sinh sống.
Chăn ḅ, lo
ruộng đất,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là
nông phu,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là
công thợ,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống nghề
buôn bán,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là
thương nhân,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống hầu
hạ người,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là nô
bộc,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống lấy
của người,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là
kẻ trộm,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống nghề
cung tên,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là nhà
binh,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống nghề
tế tự,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là
tế quan,
Không phải
Bà-la-môn.
Ai sống giữa
loài Người,
Thọ
hưởng làng, quốc độ,
Vasettha hăy biết,
Kẻ ấy là vua
chúa,
Không phải
Bà-la-môn.
Và Ta không có
gọi,
Kẻ ấy
Bà-la-môn.
Chỉ v́ do
thọ sanh,
Dầu vị
ấy cao sang,
Dầu vị
ấy giàu có,
Nhưng c̣n ham
thế lợi.
Không tham lam thế
lợi,
Không chấp
thủ sở hữu,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Vị đoạn
tận kiết sử,
Không ai không sợ
hăi,
Siêu việt
mọi chấp trước,
Thoát ly các hệ
phược,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Cắt dây
thừng, dây ách,
Dây cương,
cùng dây trói,
Quăng đi cây
chắn ngang,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Bậc sáng
suốt, giác ngộ,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai không lỗi,
chịu đựng,
Nhiếc mắng
cùng đánh trói,
Trang bị với
nhẫn lực,
Kẻ ấy Ta mới
gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Không phẫn
nộ, giữ luật,
Có giới hạnh
không kiêu,
Nhiếp phục,
thân tối hậu,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Như nước
trên lá sen,
Hột cải trên
đỉnh nhọn,
Không tham luyến
dục vọng,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai biết ngay
đời này
Khổ v́ ngă
đoạn tận,
Gánh nặng
được đặt xuống,
Xa ĺa các hệ
phược,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Tuệ thâm sâu, có
trí
Thiện xảo
đạo phi đạo,
Đích tối
thượng đạt được,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai không c̣n liên
hệ,
Cả tại gia,
xuất gia,
Không nhà trú,
thiểu dục,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Bỏ gậy
đối chúng sanh,
Kẻ yếu cùng
kẻ mạnh,
Không giết, không
hại ai,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Giữa kẻ thù,
không thù,
Giữa hung
bạo, an tịnh,
Giữa chấp
thủ, không chấp,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Dối, tham, sân,
mạn, phú,
Ai bỏ rơi
được chúng,
Như hột
cải rơi khỏi.
Đầu
nhọn của mũi kim,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai dạy thật
nhỏ nhẹ,
Nói lên lời
chơn thực,
Không xúc chạm
một ai,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Dài ngắn hay
lớn nhỏ,
Thanh tịnh hay
bất tịnh,
Ở đời
vật dài ngắn,
Lớn, nhỏ,
tịnh, bất tịnh,
Không lấy
vật không cho,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Với ai không tham
cầu,
Đời này và
đời sau,
Từ bỏ
mọi tham cầu,
Đoạn
rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai không có chấp
tàng,
Với trí
đoạn nghi hoặc,
Đạt
nhập đáy bất tử.
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ở đời
ai vượt khỏi,
Mọi buộc
ràng thiện ác,
Không sầu, không
bụi uế,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai không uế, thanh
tịnh,
Không gợn, sáng
như trăng,
Hỷ, hữu
được đoạn trừ,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai vượt qua
hiểm lộ,
Ác lộ, luân
hồi, si,
Vượt
khỏi, đến bờ kia,
Thiền tư,
không dao động,
Đoạn
trừ mọi nghi hoặc,
An tịnh, không
chấp trước,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ở đời,
bỏ dục vọng,
Không nhà, sống
xuất gia,
Đoạn
trừ dục và hữu,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chanh danh Bà-la-môn.
Ở đời,
bỏ tham ác,
Không nhà, sống
xuất gia,
Đoạn
trừ ác và hữu,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai từ bỏ
nhân ách,
Vượt qua
cả thiên ách,
Đoạn
trừ mọi ách nạn,
Thoát ly mọi
hệ phược,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Từ bỏ
lạc, bất lạc,
Thanh lương,
không y trú,
Chiến thắng
mọi thế giới,
Bậc anh hùng
dũng mănh,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai biết thật
hoàn toàn,
Sự sanh diệt
chúng sanh,
Không tham
trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ,
đạt chánh giác,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Không biết
chỗ sở thủ,
Thiên, Nhân,
Càn-thát-bà,
Lậu hoặc
được đoạn trừ,
Bậc Ứng
Cúng, La-Hán,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai không có chấp
trước,
Đời
trước, sau, đời này,
Không chấp, không
sở hữu,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ngưu
vương, bậc Tối thắng,
Anh hùng, bậc
Đại sĩ,
Bậc Chinh
phục, Bất động,
Tắm sạch,
bậc Giác Ngộ,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Ai biết
được đời trước,
Thấy
được thiện, ác thú,
Đạt
được sanh diệt đoạn,
Kẻ ấy Ta
mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Điều
thế giới cho gọi,
Là "tên" và
"gia tộc",
Chỉ tục
danh, thông danh,
Danh từ khởi
nhiều chỗ.
Đă lâu
đời chấp trước,
Tà kiến của
kẻ ngu,
Kẻ ngu tự
tuyên bố,
Bà-la-môn do sanh.
Không phải do sanh
đẻ,
Được
gọi Bà-la-môn,
Không phải do sanh
đẻ,
Gọi phi Bà-la-môn.
Chính do sự hành
động
Được
gọi Bà-la-môn,
Chính do sự hành
động
Gọi phi Bà-la-môn.
Hành động làm
nông phu,
Hành động làm
công thợ,
Hành động làm
lái buôn,
Hành động làm
nô bộc.
Hành động làm
ăn trộm,
Hành động làm
nhà binh.
Hành động làm
tế quan,
Hành động làm
vua chúa,
Kẻ trí thấy
hành động,
Như thật là
như vậy.
Thấy rơ lư duyên
khởi,
Biết rơ
nghiệp dị thục,
Do nghiệp,
đời luân chuyển
Do nghiệp,
người luân hồi.
Nghiệp trói
buộc chúng sanh,
Như trục xe
quay bánh.
Do khổ hạnh,
Phạm hạnh,
Tiết chế và
chế ngự,
Tác thành Bà-la-môn.
Bà-la-môn như
vậy,
Mới thật là
tối thượng,
An tịnh, tái sanh
đoạn,
Vesettha nên biết,
Kẻ ấy
được Phạm thiên,
Được
Thiên chủ Sakka,
Biết
đến thật tường tận.
Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên
Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch
– Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! ... chúng con xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama
nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến
mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana,
tại tinh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, thanh niên
Bà-la-môn Subha todeyyaputta trú ở Savatthi, tại nhà một gia
chủ v́ một vài công vụ. Thanh niên Bà-la-môn
–
–
Rồi thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta vâng theo
lời gia chủ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến nói lên với Thế Tôn những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn
–
– Này thanh niên Bà-la-môn, ở đây, Ta chủ
trương phân tích; ở đây, Ta không chủ
trương nói một chiều.
– Thưa Tôn giả Gotama, do dịch vụ
nhiều, công tác nhiều, tổ chức nhiều, lao
lực nhiều, nên nghiệp sự của kẻ tại
gia có quả báo lớn; do dịch vụ ít, công tác ít,
tổ chức ít, lao lực ít nên nghiệp sự của
kẻ xuất gia không có quả lớn. Ở đây, Tôn
giả Gotama, có nói ǵ ?
–
–
– Này Thanh niên Bà-la-môn, năm pháp được các
Bà-la-môn chủ trương tác phước, đắc
thiện, nếu Ông không thấy nặng nhọc, lành thay.
Ông hăy nói về năm pháp ấy trong hội chúng này.
–
– Vậy này Thanh niên Bà-la-môn, hăy nói đi.
– Chân thực, thưa Tôn giả Gotama, là pháp
thứ nhất, các Bà-la-môn chủ trương pháp này tác
phước, đắc thiện. Khổ hạnh, thưa
Tôn giả Gotama, là pháp thứ hai, các Bà-la-môn chủ
trương pháp này tác phước, đắc thiện.
Phạm hạnh, thưa Tôn giả Gotama là pháp thứ ba, các
Bà-la-môn chủ trương pháp này tác phước,
đắc thiện. Tụng đọc, thưa Tôn giả
Gotama, là pháp thứ tư, các Bà-la-môn chủ trương
pháp này tác phước, đắc thiện. Thí xả,
thưa Tôn giả Gotama, là pháp thứ năm, các Bà-la-môn
chủ trương pháp này tác phước, đắc
thiện.
– Thế nào, này Thanh niên Bà-la-môn ? Có một Bà-la-môn
nào trong những Bà-la-môn đă nói như sau: "Sau khi
chứng tri với thượng trí, tôi tuyên thuyết
quả dị thục của năm pháp này ?"
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Thế nào, này Thanh niên Bà-la-môn ? Có một
Đạo sư nào trong những Bà-la-môn, một
Đại tôn sư, cho đến bảy đời Tôn
sư, Đại tôn sư, vị ấy đă nói: "Sau
khi tự ḿnh chứng tri với thượng trí, tôi tuyên
thuyết quả dị thục của năm pháp này". ?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Thế nào, này Thanh niên Bà-la-môn ? Những vị
tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn, những vị sáng
tác các thần chú, những vị tŕ tụng thần chú mà
xưa kia những thần chú được hát lên,
được tŕ tụng, được ngâm vịnh, và
ngày nay những vị Ba La Môn cũng hát lên, tŕ tụng và giảng
dạy như các vị Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vessamita,
Yamataggi, Angirasa, Bharadvaja, Vesettha, Kassapa, Bhagu, những vị
ấy đă nói như sau: "Sau khi tự chứng tri
với thượng trí, chúng tôi tuyên thuyết kết
quả dị thục của năm pháp này". ?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Như vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, không có một
vị Bà-la-môn nào trong các vị Bà-la-môn đă nói như sau:
"Sau khi tự chứng tri với thượng trí, tôi
tuyên thuyết kết quả dị thục của năm
pháp này". Không có một Đạo sư nào trong các
Bà-la-môn, một Đại tôn sư, cho đến bảy
đời Tôn sư, Đại tôn sư nào nói như sau:
"Sau khi tự chứng tri với thượng trí, chúng
tôi tuyên thuyết kết quả dị thục của
năm pháp này". Những vị tu sĩ thời cổ
trong các vị Bà-la-môn, những vị sáng tác các thần
chú... không có một vị nào đă nói như sau: "Sau khi
tự chứng tri với thượng trí, chúng tôi tuyên
thuyết kết quả dị thục của năm pháp
này". Ví như, này Thanh niên Bà-la-môn, một chuỗi
người mù ôm lưng nhau, người trước không
thấy, người giữa cũng không thấy,
người cuối cùng cũng không thấy; cũng
vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, chúng tôi nghĩ lời nói
của những Bà-la-môn trở thành giống như một
chuỗi người mù, người đầu không
thấy, người giữa không thấy, người
cuối cùng cũng không thấy.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta
phẫn nộ, không hoan hỷ v́ bị Thế Tôn dùng ví
dụ một chuỗi người mù, liền mạ
lỵ Thế Tôn, hủy báng Thế Tôn và nói về Thế
Tôn:
–
Rồi nói với
– Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pokkharasati thuộc ḍng
họ Upamanna trú ở rừng Subhaga đă nói: "Cũng
vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn tự cho đă
chứng được các pháp thượng nhân, tri
kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh này".
Lời nói này của vị ấy thật sự đáng chê
cười, thật sự chỉ là lời nói suông,
thật sự chỉ là trống không, thật sự
chỉ là trống rỗng. Làm sao c̣n là người c̣n
lại có thể biết được, hay thấy
được, hay chứng được các pháp
thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng
bậc Thánh ? Sự kiện như vậy không thể
xảy ra.
– Thế nào, này Thanh niên Bà-la-môn ? Bà-la- môn
Pokkharasati thuộc ḍng họ Upamanna, trú tại rừng
Subhaga có thể biết tâm tư cả Sa-môn, Bà-la-môn
với tâm tư của ḿnh ?
– Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pokkharasati
thuộc ḍng họ Upamanna, trú ở rừng Subhaga, với
tâm tư của ḿnh không thể biết được tâm
tư của Punnika, người đầy tớ gái
của ḿnh, làm sao lại có thể biết được
tâm tư tất cả Sa-môn, Bà-la-môn với tâm tư
của ḿnh ?
– Ví như, này Thanh niên Bà-la-môn một người
sanh ra đă mù không thể thấy các sắc màu đen, màu
trắng, không thể thấy các sắc màu xanh, không thể
thấy các sắc màu vàng, không thể thấy các sắc màu
đỏ, không thể thấy các sắc màu đỏ tía,
không thể thấy những ǵ bằng phẳng, không
bằng phẳng, không thể thấy các v́ sao, không thể
thấy mặt trăng, mặt trời, người
ấy nói như sau: "Không có các sắc màu đen, màu
trắng, không có người thấy các sắc màu đen,
màu trắng; không có các sắc màu xanh, không có người
thấy các sắc màu xanh; không có các sắc màu vàng, không có
người thấy các sắc màu vàng; không có các sắc màu
đỏ, không có người thấy các sắc màu
đỏ; không có các sắc màu đỏ tía, không có
người thấy các sắc màu đỏ tía; không có những
ǵ bằng phẳng, không bằng phẳng, không có
người thấy cái ǵ bằng phẳng, không bằng
phẳng; không có các v́ sao, không có người thấy các v́
sao; không có mặt trăng, mặt trời, không có
người thấy mặt trăng, mặt trời. Tôi
không biết như vậy; tôi không thấy như vậy,
do vậy nên không có".
– Thưa không vậy, Tôn giả Gotama. Có các
sắc màu đen trắng, có người thấy các
sắc màu đen trắng; có các sắc màu xanh, có
người thấy các sắc màu xanh;... (như trên)... có
mặt trăng, mặt trời, có người thấy
mặt trăng, mặt trời".Tôi không biết như
vậy; tôi không thấy như vậy. Do vậy, không
có".
– Cũng vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, Bà-la-môn
Pokkharasati thuộc ḍng họ Upamanna, trú ở rừng Subhaga
là người mù, không có mắt. Vị ấy có thể
biết được, hay thấy được, hay
chứng được các pháp thượng nhân, tri
kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh; sự kiện
như vậy không xảy ra.
– Được thế tục chấp nhận,
thưa Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ tốt hơn cho họ, lời họ nói
lên cần phải được suy tư hay không suy tư
?
– Cần phải được suy tư, thưa
Tôn giả Gotama.
– Cái ǵ tốt hơn cho họ, lời họ nói
lên cần phải được phân tích, cân nhắc hay
không cần phải phân tích, cân nhắc ?
– Cần phải phân tích, cân nhắc, thưa Tôn
giả Gotama.
– Cái ǵ tốt hơn cho họ, lời họ nói
lên cần phải liên hệ đến mục đích, hay
không cần phải liên hệ đến mục đích ?
– Cần phải liên hệ đến mục
đích, thưa Tôn giả Gotama.
–
– Không được thế tục chấp
nhận, thưa Tôn giả Gotama.
– Lời nói được nói lên là có suy tư,
hay không suy tư ?
– Không suy tư, thưa Tôn giả Gotama.
– Lời nói được nói lên có phân tích, cân
nhắc, hay không phân tích cân nhắc ?
– Không phân tích, cân nhắc, thưa Tôn giả Gotama.
– Lời nói được nói lên liên hệ
đến mục đích, hay không liên hệ đến mục
đích ?
– Không liên hệ đến mục đích,
thưa Tôn giả Gotama.
–
–
–
–
–
–
– Sự kiện là như vậy, này Thanh niên
Bà-la-môn, thời đây có phải là tác phước sự
thứ sáu, nghĩa là ḷng ái mẫn ?
– Sự kiện là như vậy, thưa Tôn
giả Gotama, thời đây là tác phước sự
thứ sáu, nghĩa là ḷng ái mẫn.
–
– Thưa Tôn giả Gotama, những vị Bà-la-môn
chủ trương năm pháp tác phước, đắc
thiện này, tôi nhận thấy năm pháp này có nhiều
ở những người xuất gia, có ít ở những
người tại gia. Người tại gia, thưa Tôn
giả Gotama, dịch vụ lớn, công tác lớn, tổ
chức lớn, lao lực lớn không có thường
hằng, liên tục, không nói lời chân thật.
Người xuất gia, thưa Tôn giả Gotama , dịch
vụ nhỏ, công tác nhỏ, tổ chức nhỏ, lao
lực nhỏ, nhưng thường hằng liên tục,
nói lời chân thật. Người tại gia, thưa Tôn giả
Gotama, dịch vụ lớn, công tác lớn, tổ chức
lớn, lao lực lớn không có thường hằng liên
tục sống khổ hạnh, sống Phạm hạnh,
đọc tụng nhiều, thí xả nhiều.
Người xuất gia, thưa Tôn giả Gotama, dịch
vụ nhỏ, công tác nhỏ, tổ chức nhỏ, lao
lực nhỏ, nhưng thường hằng liên tục
sống khổ hạnh, sống Phạm hạnh,
đọc tụng nhiều, thí xả nhiều.
– Này Thanh niên Bà-la-môn, năm pháp tác phước,
đắc thiện này được các vị Bà-la-môn
chủ trương, Ta nói những pháp này là những tư
cụ của tâm, nghĩa là để tâm tu tập không
hận, không sân. Ở đây, này Thanh niên Bà-la-môn, vị
Tỷ-kheo nói lời chân thật, vị ấy nghĩ:
"Ta nói lời chân thật", chứng được
nghĩa tín thọ (atthavedam), chứng được pháp
tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ
đến pháp. Ta nói sự hân hoan liên hệ đến
thiện này là tư cụ của tâm, nghĩa là để
tâm của vị ấy tu tập không hận, không sân.
Ở đây, này Thanh niên Bà-la-môn vị Tỷ-kheo sống
khổ hạnh, sống Phạm hạnh, đọc
tụng nhiều, thí xả nhiều vị ấy nghĩ
rằng: "Ta thí xả nhiều", chứng
được nghĩa tín thọ, chứng được
pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ
đến pháp, Ta nói rằng sự hân hoan liên hệ đến
thiện này là tư cụ của tâm, nghĩa là để
tâm của vị ấy tu tập không hận, không sân. Này
Thanh niên Bà-la-môn những vị Bà-la-môn chủ trương
năm pháp tác phước, đắc thiện này, Ta nói các
pháp ấy là tư cụ của tâm, nghĩa là để
tâm của vị ấy tu tập không hận, không sân.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta
thưa với Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, tôi nghe như sau:
"Sa-môn Gotama biết con đường đưa
đến cọng trú với Phạm thiên".
– Này Thanh niên Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào ? Làng
Nalakara có gần đây không ? Có phải làng Nalakara không xa
ở đây ?
– Thưa vâng, Tôn giả, làng Nalakara ở gần
đây. Làng Nalakara không xa ở đây.
– Này Thanh niên Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào ? Ở
đây, có người sanh trưởng tại làng Nalakara,
chưa rời khỏi làng Nalakara, và có người tới
hỏi người ấy con đường đưa
đến làng Nalakara. Này Thanh niên Bà-la-môn, người sanh
trưởng tại làng Nalakara ấy phân vân hay ngập
ngừng khi được hỏi về con
đường đến làng Nalakara ?
– Thưa không, Tôn giả Gotama. V́ sao vậy ?
Thưa Tôn giả Gotama, v́ người ấy sanh
trưởng tại làng Nalakara. Người ấy biết
rơ tất cả con đường đưa đến
làng Nalakara.
– Tuy vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, rất có thể
người sanh trưởng tại làng Nalakara này khi
được hỏi con đường đưa
đến làng Nalakara c̣n có thể phân vân hay ngập
ngừng. Nhưng Như Lai th́ không vậy, khi
được hỏi về Phạm thiên giới, hay
về con đường đưa đến Phạm
thiên giới, Như Lai không phân vân hay ngập ngừng. Và
này Thanh niên Bà-la-môn, Ta biết Phạm thiên giới và con
đường đưa đến Phạm thiên giới,
và Ta cũng biết phải thành tựu như thế nào
để được sanh vào Phạm thiên giới.
– Thưa Tôn giả Gotama, con có nghe như sau:
"Sa-môn Gotama thuyết dạy con đường
đưa đến cọng trú với Phạm thiên".
Tốt lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết giảng
cho con, con đường đưa đến cọng trú
với Phạm thiên.
– Vậy này Thanh niên Bà-la-môn, hăy nghe và khéo tác ư Ta
sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Và này Thanh niên Bà-la-môn, thế nào là con đường
đưa đến cọng trú với Phạm thiên ?
Ở đây, này Thanh niên Bà-la-môn, Tỷ-kheo an trú biến măn
một phương với tâm câu hữu với từ,
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương
xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú
biến măn với tâm câu hữu với từ, quảng
đại vô biên, không hận, không sân. Này Thanh niên Bà-la-môn, khi
từ tâm giải thoát được tu tập như
vậy, th́ hành động được làm có tánh cách
hạn lượng như vậy, không có trú ở nơi
đây, không có dừng lại ở nơi đây. Ví như,
này Thanh niên Bà-la-môn, một người lực sĩ
thổi tù và làm cho bốn phương nghe được,
không ǵ khó khăn; cũng vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, khi
từ tâm giải thoát được tu tập như
vậy, th́ hành động được làm có tánh cách
hạn lượng, không có trú ở nơi đây, không có
dừng lại ở nơi đây. Này Thanh niên Bà-la-môn,
đây là con đường đưa đến cọng
trú với Phạm thiên. Lại nữa, này Thanh niên Bà-la-môn,
vị Tỷ-kheo biến măn một phương với tâm
câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu hữu
với hỷ... (như trên)... với tâm câu hữu với
xă, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương
xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến
măn với tâm câu hữu với xả, quảng đại,
vô biên, không hận, không sân. Này Thanh niên Bà-la-môn, khi xả tâm
giải thoát được tu tập như vậy, th́ hành
động được làm có tánh cách hạn
lượng như vậy, không có trú ở nơi đây,
không có dừng lại ở nơi đây. Ví như, này Thanh
niên Bà-la-môn, một người lực sĩ thổi tù và
làm cho bốn phương nghe được, không ǵ khó
khăn; cũng vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, khi xả tâm
giải thoát được tu tập như vậy, th́ hành
động được làm có tánh cách hạn
lượng như vậy, không có trú ở nơi đây,
không có dừng lại ở nơi đây. Này Thanh niên
Bà-la-môn, đây là con đường đưa đến
cọng trú với Phạm thiên.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta
bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng
đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống,
phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp
đă được Thế Tôn dùng nhiều phương
tiện tŕnh bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con
xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong
Tôn giả Gotama nhận con làm cư sĩ, từ này cho
đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng. Thưa Tôn giả Gotama, nay chúng con xin đi,
chúng con có nhiều công việc phải làm.
– Này Thanh niên Bà-la-môn, nay Ông hăy làm những ǵ Ông
nghĩ là hợp thời.
Rồi thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với cỗ xe
do toàn ngựa cái trắng kéo, đi ra khỏi Savatthi
để nghỉ trưa. Bà-la-môn Janussoni thấy thanh niên
Bà-la-môn Subha Todeyyaputta từ xa đi lại, sau khi thấy,
liền nói với thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta:
– Tôn giả Bharadvaja đi từ đâu lại,
quá sớm như vậy ?
– Thưa Tôn giả, tôi vừa từ Sa-môn Gotama
lại.
– Này Tôn giả Bharadvaja, Tôn giả nghĩ thế
nào ? Tôn giả có nghĩ Sa-môn Gotama là bậc có trí, có trí
tuệ sáng suốt (pannaveyyattiyam) không ?
– Thưa Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết
được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama ?
Chỉ có vị nào như Ngài mới có thể biết
được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama.
– Tôn giả Bharadvaja thật đă tán thán Sa-môn
Gotama với sự tán thán tối thượng.
– Nhưng tôi là ai mà tôi lại tán thán Sa-môn Gotama ?
Tán thán bởi những người được tán thán
là Sa-môn Gotama, là bậc tối thượng giữa các hàng
Thiên Nhân. Thưa Tôn giả, các vị Bà-la-môn chủ
trương năm pháp tác phước, đắc thiện
này, Sa-môn Gotama nói rằng năm pháp ấy là tư cụ
cho tâm, nghĩa là để tu tập, trở thành không
hận, không sân.
Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn, Janussoni
bước xuống cỗ xe do toàn ngựa cái trắng kéo,
đắp áo vào một phía bên vai, chắp tay hướng
đến Thế Tôn và thốt ra lời cảm hứng
như sau: "Lợi ích thay cho vua Pasenadi nước Kosala
! Tốt đẹp, lợi ích thay cho vua Pasenadi nước
Kosala được Như Lai bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác trú ở trong nước !
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành trong nước
Kosala với đại chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ,
một nữ Bà-la-môn tên Dhananjani (Đa-na-xa-ni) trú ở
Candalakappa (Đan-đạt-la-kiếp-ba) có ḷng tín thành
Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ Bà-la-môn Dhananjani sau khi
bị trợt chân, thốt lên ba lần cảm hứng
ngữ: "Đảnh lễ đức Thế Tôn
ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ! Đảnh
lễ đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán Chánh
Đẳng Giác ! Đảnh lễ đức Thế Tôn
ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ! " Lúc bấy
giờ một thanh niên Bà-la-môn tên Sangarava trú ở Candalakappa,
tinh thông ba tập Veda, với tự vững, lễ nghi,
ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông
hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu
Thuận thế luận và Đại nhân tướng. Thanh
niên Bà-la-môn Sangarava nghe nữ Bà-la-môn Dhananjani nói như
vậy, sau khi nghe, liền nói với nữ Bà-la-môn Dhanajani:
– Nữ Bà-la-môn Dhananjani này thật là hạ
liệt ! Nữ Bà-la-môn Dhananjani này thật là suy
đồi, v́ rằng trong khi các Bà-la-môn đang c̣n sống
lại nói lời ta thán Sa-môn trọc đầu ấy.
– Này Hiền giả thân mến, có phải Hiền
giả chưa biết đến giới đức và
tuệ đức của Như Lai ? Này Hiền giả thân
mến, nếu Hiền giả biết đến giới
đức và tuệ đức của Như Lai, tôi
nghĩ rằng, này Hiền giả thân mến, Hiền
giả sẽ không nghĩ rằng Thế Tôn đáng bị
mạ lỵ, đáng bị mắng nhiếc.
– Vậy thưa Bà, khi nào Sa-môn Gotama đến
tại Candalakappa, Bà hăy báo tin cho tôi biết.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Nữ Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp thanh niên Bà-la-môn
Sangarava.
Rồi Thế Tôn tiếp tục du hành trong
nước Kosala và đến Candalakappa. Tại đây,
Thế Tôn trú tại Candalakappa trong rừng xoài của các
Bà-la-môn sống ở Tudi. Nữ Bà-la-môn Dhananjani
được nghe: "Thế Tôn đă đến
Candalakappa, trú tại Candalakappa trong rừng xoài của các
Bà-la-môn sống ở Tudi". Rồi nữ Bà-la-môn
Dhananjani đi đến thanh niên Bà-la-môn Sangarava, sau khi
đến, nói với thanh niên Bà-la-môn Sangarava:
– Này Hiền giả thân mến, bậc Thế Tôn
ấy đă đến Candalakappa trú tại Candalakappa trong
rừng xoài của các vị Bà-la-môn sống ở Tudi. Này
Hiền giả thân mến, nay Hiền giả làm những
ǵ mà Hiền giả nghĩ là hợp thời.
– Thưa Bà, vâng.
Thanh niên Bà-la-môn Sangarava, vâng đáp nữ Bà-la-môn
Dhananjani, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói
lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Sangarava bạch Thế
Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn,
Bà-la-môn tự nhận rằng về căn bản Phạm
hạnh, họ đă chứng đạt được
ngay hiện tại thông trí và cứu cánh bỉ ngạn
nhờ thượng trí (abinnavesanaparamipatta). Tôn giả Gotama
là thế nào đối với các vị ấy ?
– Này Bharadvaja, Ta nói rằng, có sự sai khác
giữa những vị tự nhận rằng về
căn bản Phạm hạnh, họ đă chứng
đạt được ngay trong hiện tại thông trí
và cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí. Này
Bharadvaja, có một số Sa-môn, Bà-la-môn theo tin đồn
(hay truyền thống), do tin đồn (hay truyền
thống), họ tự nhận rằng về căn
bản Phạm hạnh, họ đă chứng đạt
được ngay hiện tại thông trí với cứu
cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí, như các
Bà-la-môn thông hiểu ba tập Veda. Nhưng này Bharadvaja, có
một số Sa-môn Bà-la-môn hoàn toàn chỉ do ḷng tin, tự
nhận rằng về căn bản Phạm hạnh,
họ đă chứng đạt ngay trong hiện tại
thông trí và cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng
trí, như các nhà lư luận (các nhà suy tư). Này Bharadvaja, có
một số Sa-môn, Bà-la-môn đối với các pháp từ
trước chưa từng được nghe, tự ḿnh
chứng tri hoàn toàn pháp ấy, tự nhận rằng
về căn bản Phạm hạnh, do đă chứng
đạt ngay trong hiện tại thông trí và cứu cánh
bỉ ngạn nhờ thượng trí. Ở đây, này
Bharadvaja, các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy đối với
các pháp từ trước chưa từng được
nghe, tự ḿnh chứng tri hoàn toàn pháp ấy, tự
nhận rằng về căn bản Phạm hạnh, họ
đă chứng đạt ngay trong hiện tại thông trí và
cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí. Ta là
một trong những vị ấy. Này Bharadvaja, Ông cần
phải hiểu theo nghĩa như vậy. Các vị Sa-môn,
Bà-la-môn ấy đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, tự ḿnh chứng tri
hoàn toàn pháp ấy, tự nhận rằng, về căn
bản Phạm hạnh, họ đă chứng đạt
ngay trong hiện tại thông trí và cứu cánh bỉ ngạn
nhờ thượng trí, Ta là một trong những vị
ấy. Ở đây, này Bharadvaja, thuở xưa, khi Ta
chưa thành bậc Chánh Đẳng Giác, c̣n là Bồ-tát, Ta
suy nghĩ như sau: "Đời sống tại gia
chật hẹp, nhiễm đầy bụi đời;
đời sống xuất gia phóng khoáng như ngoài
trời. Thật không dễ ǵ sống tại gia, có thể
sống đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên măn,
hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Vậy Ta hăy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Này
Bharadvaja, và Ta, sau một thời gian, khi Ta c̣n trẻ, niên
thiếu, tóc đen nhánh (... xem Kinh Trung Bộ tập I, Kinh
Thánh Cầu từ trang 367, đến trang 373 thay chữ
Bharadvaja vào chữ các Tỷ-kheo)... Ta ngồi xuống
tại chỗ ấy và nghĩ: "Thật là vừa
đủ để tinh tấn".
Rồi này Bharadvaja, ba ví dụ khởi lên nơi
Ta (... xem Kinh Trung Bộ Tập I, Đại Kinh Saccaka,
từ trang 528 đến trang 540..., nhưng bỏ câu:
"Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi
lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi
phối tâm Ta – trang 533 – từ bỏ tinh tấn, trở lui
đời sống sung túc").
Rồi này Bharadvaja, sau khi ăn thô thực và
được sức lực trở lại, Ta ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh
nhất tâm... ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và an trú vào Thiền
thứ ba.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc b́nh tĩnh như vậy...
(Kinh Trung Bộ Tập I, trang 541 đến trang 544 bỏ
câu: "Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh
nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi
phối tâm Ta" – trang 544 – Ta sống không phóng dật,
nhất tâm tinh cần.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn San-garava bạch
thế tôn:
– Thật sự, sự tinh cần của tôn
giả Gotama là trung kiên (atthita). Thật sự, sự tinh
cần của tôn giả Gotama là sự tinh cần của
các bậc Chân nhân (Sappurisa), một bậc như là A-la-han,
Chánh Đẳng Giác. Thưa Tôn giả Gotama, có các chư
Thiên không ?
– Này Bharadvaja, Ta được biết một
cách chắc chắn có chư Thiên.
– Nhưng v́ sao, thưa Tôn giả Gotama, khi
được hỏi có các chư Thiên không, lại
hỏi: "Này Bharadvaja, Ta được biết một
cách chắc chắn có chư Thiên". Sự việc là
như vậy, thưa Tôn giả Gotama, th́ có phải là
hư ngôn, vọng ngữ không ?
– Này Bharavaja, nếu khi được hỏi:
"Có chư Thiên không?"; cần phải đáp: "Có
chư Thiên".; nhưng lại đáp: "Chắc
chắn Ta được biết có chư Thiên". Như
vậy, một người có trí đi đến kết
luận không có ǵ nghi ngờ nữa, là có chư Thiên.
– Nhưng v́ sao Tôn giả Gotama không giải thích
như vậy cho con từ khi bắt đầu ?
– Này Bharadvaja, như vậy đă được
lớn tiếng chấp nhận ở đời tức là
có chư Thiên.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Sangarava bạch
Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Tôn giả Gotama, như
người dựng đứng lại những ǵ bị
quăng ngă xuống, phơi bày ra những ǵ bị che kín,
chỉ đường cho kẻ lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mắt có thể thấy sắc; cũng vậy chánh pháp
đă được Thế Tôn dùng nhiều phương
diện tŕnh bày. Và nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp,
quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.