Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
(101) Kinh Devadaha
(102) Kinh Năm và Ba
(103) Kinh Nghĩ như thế nào?
(104) Kinh Làng Sama
101. KINH DEVADAHA [^]
(Devadahasuttam)
Như vầy tôi nghe :
Một thời Thế Tôn trú ở giữa các
Sakka (Thích ca). Devadaha là một thị trấn các Sakka.
Tại đấy,
"–Thưa vâng, bạch
– Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn
có lư thuyết như sau, có tri kiến như sau : "Phàm
cảm giác ǵ con người này lănh thọ, lạc thọ,
khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ,
tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ;
với sự đốt cháy, đoạn diệt các
nghiệp quá khứ, với sự không tạo tác các
nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến
tương lai. Do không có diễn tiến đến
tương lai, nghiệp đoạn diệt; do nghiệp
đoạn diệt, khổ được đoạn
diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ
được đoạn diệt; do cảm thọ
được đoạn diệt, tất cả khổ
sẽ diệt tận".
Nầy các Tỷ-kheo, lư thuyết các Nigantha (Ni
kiền tử) là vậy. Nầy các Tỷ-kheo, Ta nói như
vậy, Ta đi đến các Nigantha và nói như sau :
"– Chư Hiền Nigantha, có đúng sự
thật chăng, các Ông có lư thuyết như sau, có tri
kiến như sau: "Phàm cảm giác ǵ con người này
lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất
khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy,
đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự
không tạo tác các nghiệp mới, sẽ không có diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn tiến
đến tương lai, nghiệp được
đoạn diệt, do nghiệp đoạn diệt
khổ được đoạn diệt; do khổ
đoạn diệt, cảm thọ được
đoạn diệt; do cảm thọ được
đoạn diệt, tất cả khổ sẽ
được diệt tận ?"
Này các Tỷ-kheo, nếu các Nigantha ấy, khi
được Ta hỏi, tự nhận có nói như
vậy, Ta liền nói như sau :
"– Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết :
"Trong quá khứ, chúng tôi có hiện hữu, chúng tôi không hiện
hữu ?"
"–
"– Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết:
"Trong quá khứ, chúng tôi có tạo ác nghiệp, chúng tôi
không tạo ác nghiệp ?"
"–
"– Chư Hiền Nigantha, các ông có biết:
"Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế này hay
như thế kia ?"
"-
"- Chư Hiền Nigantha, các ông có biết:
"Khổ mức độ như thế này đă
được diệt tận hay khổ mức độ
như thế này cần phải được diệt
tận, hay với sự diệt tận khổ mức
độ như thế này, tất cả khổ sẽ
được diệt tận ?"
"-
"- Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết:
"Sự đoạn tận các bất thiện pháp ngay
trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện pháp
?"
"-
"- Chư Hiền Nigantha, như các Ông đă
nói, các Ông không biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông không
biết : "Trong quá khứ, chúng tôi có tạo ác nghiệp,
chúng tôi không tạo ác nghiệp"; các Ông không biết:
"Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế này, hay
như thế kia"; các Ông không biết : "Khổ
mức độ như thế này đă được
diệt tận, khổ mức độ như thế này
cần phải được diệt tận, hay với
sự diệt tận khổ mức độ như
thế này, tất cả khổ sẽ được
diệt tận"; các Ông không biết: "Sự đoạn
tận các bất thiện pháp ngay trong hiện tại hay
sự thành tựu các thiện pháp"; sự t́nh là như
vậy, thời có hợp lư chăng, khi các Tôn giả
Nigantha lại trả lời : "Phàm cảm giác ǵ con người
này lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất
khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các nghiệp quá khứ, với sự đốt cháy,
đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự
không tạo các nghiệp mới, sẽ không có diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn
tiến đến tương lai, nghiệp
được đoạn diệt; do nghiệp
được đoạn diệt, khổ được
đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm
thọ được đoạn diệt; do cảm
thọ được đoạn diệt tất cả
khổ thọ sẽ được diệt tận ?".
"- Chư Hiền Nigantha, nếu các Ông
được biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông
được biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp"; các
Ông được biết: "Chúng tôi có tạo ác
nghiệp như thế này, hay như thế kia"; các Ông
được biết: "Khổ mức độ
như thế này đă được diệt tận, hay
khổ mức độ như thế này cần phải
được diệt tận, hay với sự diệt
tận khổ mức độ như thế này, tất
cả khổ sẽ được diệt tận";
các Ông được biết: "Sự đoạn
tận các bất thiện pháp ngay trong hiện tại hay
sự thành tựu các thiện pháp"; sự t́nh là như
vậy, thời thật là hợp lư khi các Tôn giả Nigantha
trả lời : "Phàm cảm giác ǵ con người này
lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất
khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các nghiệp quá khứ với sự đốt cháy,
đoạn diệt các nghiệp quá khứ; với sự
không tạo các nghiệp mới, sẽ không có diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn
tiến đến tương lai nghiệp được
đoạn diệt; do nghiệp đoạn diệt,
khổ được đoạn diệt; do khổ
đoạn diệt, cảm thọ được
đoạn diệt, do cảm thọ được
đoạn diệt, tất cả khổ sẽ
được diệt tận".
"– Chư Hiền Nigantha, ví như một
người bị mũi tên bắn, mũi tên
được tẩm thuốc độc rất dày.
Người ấy do nhân cảm xúc mũi tên, thọ lănh
các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống
khổ. Bạn bè, bà con huyết thống của
người ấy mời một y sĩ giải phẫu
đến. Vị y sĩ giải phẫu lấy dao
cắt rộng miệng vết thương. Người
ấy do nhân dao cắt miệng vết thương,
thọ lănh các cảm giác đau đớn, cực khổ,
thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu ấy ḍ t́m
mũi tên với vật dụng ḍ t́m. Người ấy
do nhân bị ḍ t́m mũi tên với vật dụng ḍ t́m,
thọ lănh các cảm giác đau đớn, cực khổ,
thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu rút mũi
tên ra khỏi người ấy. Người ấy do nhân
được rút mũi tên, thọ lănh các cảm giác
đau đớn, cực khổ, thống khổ. Vị y
sĩ giải phẫu ấy cho đốt miệng vết
thương với than đỏ (hay đắp miệng
vết thương với vải nóng như than
đỏ). Người ấy do nhân miệng vết
thương bị than đỏ đốt, thọ lănh các
cảm giác đau đớn, cực khổ, thống
khổ. Sau một thời gian, khi da đă bắt
đầu lành trên miệng vết thương,
người ấy không bệnh, an lạc, tự do, tự
tại, và đi vào chỗ nào người ấy muốn.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Trước
kia ta bị mũi tên bắn, mũi tên được
tẩm thuốc độc rất dày. Do nhân cảm xúc
mũi tên, ta thọ lănh các cảm giác đau đớn,
cực khổ, thống khổ. Bạn bè bà con huyết
thống của ta có mời một y sĩ giải phẩu
đến. Vị y sĩ giải phẫu ấy lấy dao
cắt rộng miệng vết thương. Ta do nhân dao
cắt rộng miệng vết thương thọ lănh các
cảm giác đau đớn, cực khổ, thống
khổ. Vị y sĩ giải phẩu ấy ḍ t́m mũi
tên với vật dụng ḍ t́m. Do nhân bị ḍ t́m mũi tên
với vật dụng ḍ t́m ta thọ lănh các cảm giác
đau đớn, cực khổ, thống khổ. Vị y
sĩ giải phẫu ấy rút mũi tên ra khỏi ta. Do
nhân được rút mũi tên, ta thọ lănh các cảm
giác đau đớn, cực khổ, thống khổ.
Vị y sĩ giải phẫu ấy cho đốt
miệng vết thương với than đỏ (hay
đắp miệng vết thương với vải nóng
như than đỏ ?). Do nhân miệng vết thương
bị than đỏ đốt, ta thọ lănh các cảm
giác đau đớn, cực khổ, thống khổ. Nay
da đă bắt đầu lành trên miệng vết
thương, ta không bệnh, an lạc, tự do, tự
tại, và đi chỗ nào ta muốn".
"Như vậy, này chư Hiền Nigantha,
nếu các Ông được biết : "Trong quá khứ,
chúng tôi hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các
Ông được biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp", các
Ông được biết : "Chúng tôi có tạo ác
nghiệp, như thế này hay như thế kia", các Ông
được biết : "Khổ mức độ
như thế này đă được diệt tận, hay
khổ mức độ như thế này cần phải
được diệt tận; hay với sự diệt
tận khổ mức độ như thế này, tất
cả khổ sẽ được diệt tận";
các Ông được biết : "Sự đoạn
tận các bất thiện pháp ngay trong hiện tại hay
sự thành tựu các thiện pháp"; sự t́nh là như
vậy, thời thật là hợp lư khi các Tôn giả Nigantha
trả lời : "Phàm cảm giác ǵ con người này
lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy,
đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự
không tạo tác các nghiệp mới, sẽ không có diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn
tiến đến tương lai, nghiệp
được đoạn diệt; do nghiệp
đoạn diệt, khổ được đoạn
diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ
được đoạn diệt; do cảm thọ
được đoạn diệt, tất cả khổ
sẽ được diệt tận".
"Chư Hiền Nigantha, và v́ rằng các Ông không
được biết : "Trong quá khứ, chúng tôi có
hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông không
được biết : "Chúng tôi có tạo ác nghiệp,
chúng tôi không tạo ác nghiệp"; các Ông không được
biết : "Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế
này, hay như thế kia"; các Ông không được
biết : "Khổ mức độ như thế này
đă được diệt tận, hay khổ mức
độ như thế này cần phải được
diệt tận, hay với sự diệt tận khổ
mức độ như thế này, tất cả khổ
sẽ được diệt tận"; các Ông không
được biết: "Sự đoạn tận các bất
thiện pháp ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các
thiện pháp"; thời thật là không hợp lư khi các Tôn
giả Nigantha trả lời : "Phàm cảm giác ǵ con
người lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay
bất khổ bất lạc thọ, tất cả
đều do nhân các nghiệp quá khứ; với sự
đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ;
với sự không tạo các nghiệp mới, sẽ không
có diễn tiến đến tương lai. Do không có
diễn tiến đến tương lai, nghiệp
được đoạn diệt; do nghiệp
đoạn diệt, khổ được đoạn
diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ
được đoạn diệt; do cảm thọ
được đoạn diệt, tất cả khổ
sẽ được diệt tận".
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, các
Nigantha ấy nói với Ta :
"-
Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta
nói với các vị Nigantha ấy :
"– Chư Hiền Nigantha, có năm pháp này, ngay
trong hiện tại có hai quả báo. Thế nào là năm ?
Tín, hỹ, tùy văn, thẩm định lư do
(akaraparivitakka), kham nhẫn bất thọ (tà) kiến. Này
chư Hiền Nigantha, năm pháp này ngay trong hiện tại
có hai quả báo. Ở đây, thế nào là ḷng tin các Tôn
giả Nigantha ấy đối với bậc Đạo
sư trong quá khứ ? Thế nào là sự hoan hỷ,
thế nào là sự tùy văn, thế nào là thẩm
định lư do, thế nào là kham nhẫn chấp thọ
(tà) kiến các vị ấy ?"
Này các Tỷ-kheo, nói như vậy, Ta không thấy
một câu trả lời hợp pháp nào giữa các vị
Nigantha. Và lại nữa này các Tỷ-kheo, Ta nói với các
vị Nigantha ấy như sau :
"– Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế
nào ? Khi các Ông tha thiết tinh tấn, tha thiết tinh
cần, trong khi ấy có phải các Ông thọ lănh những
cảm giác thống khổ, đột khởi, đau
đớn, cực khổ, thống khổ ? C̣n trong khi các
Ông không tha thiết tinh tấn, không tha thiết tinh cần,
trong khi ấy có phải các Ông không thọ lănh những
cảm giác thống khổ, đột khởi, đau
đớn, cực khổ, thống khổ ?
"- Thưa Hiền giả Gotama, khi chúng tôi tha
thiết tinh tấn, tha thiết tinh cần, trong khi ấy
chúng tôi thọ lănh những cảm giác thống khổ,
đột khởi, đau đớn, cực khổ,
thống khổ. C̣n trong khi chúng tôi không tha thiết tinh
tấn, không tha thiết tinh cần, trong khi ấy chúng tôi
không thọ lănh những cảm giác thống khổ,
đột khởi, đau đớn, cực khổ,
thống khổ.
"- Như vậy, này chư Hiền Nigantha, khi
các Ông tha thiết tinh tấn, tha thiết tinh cần, trong
khi ấy các Ông thọ lănh những cảm giác thống
khổ, đột khởi, đau đớn, cực
khổ, thống khổ. C̣n trong khi ấy các Ông không tha
thiết tinh tấn, không tha thiết tinh cần, trong khi các
Ông không thọ lănh những cảm giác thống khổ,
đột khởi, đau đớn, cực khổ,
thống khổ. Sự t́nh là như vậy, thời
thật là hợp lư khi các Tôn giả Nigantha trả lời :
"Phàm cảm giác ǵ con người này lănh thọ, lạc
thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc
thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá
khứ; với sự đốt cháy, đoạn diệt
các nghiệp quá khứ với sự không tạo các
nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến
tương lai. Do không có diễn tiến đến
tương lai, nghiệp được đoạn
diệt; do nghiệp được đoạn diệt,
khổ được đoạn diệt; do khổ
đoạn diệt, cảm thọ được
đoạn diệt; do cảm thọ được
đoạn diệt, tất cả khổ sẽ
được diệt tận".
"Này chư Hiền Nigantha, nếu trong khi các
Ông tha thiết tinh tấn, tha thiết tinh cần, trong khi
ấy các cảm giác thống khổ, đột khởi,
đau đớn, cực khổ, thống khổ
được tồn tại. C̣n trong khi các Ông không tha
thiết tinh tấn, không tha thiết tinh cần, trong khi
ấy các cảm giác thống khổ, đột khởi,
đau đớn, cực khổ, thống khổ cũng
được tồn tại. Sự t́nh là như vậy,
thời thật là hợp lư khi các Tôn giả Nigantha trả
lời: "Phàm cảm giác ǵ con người này lănh
thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp
quá khứ, với sự đốt cháy, đoạn
diệt các nghiệp quá khứ... (như trên)... tất
cả khổ được diệt tận". Và v́
rằng, chư Hiền Nigantha, trong khi ấy các Ông tha
thiết tinh tấn, tha thiết tinh cần, trong khi ấy
các Ông lănh thọ những cảm giác thống khổ,
đột khởi, đau đớn, cực khổ
thống khổ, c̣n trong khi các Ông không tha thiết tinh
tấn, không tha thiết tinh cần trong khi ấy các Ông
không lănh thọ những cảm giác thống khổ,
đột khởi, đau đớn, cực khổ,
thống khổ. Như vậy, thật chính các Ông trong khi
lănh thọ những cảm giác thống khổ, đột
khởi, đau đớn, cực khổ, thống
khổ, tự bị lừa dối bởi vô minh, vô trí, ngu
muội, khi các Ông nói : "Phàm cảm giác ǵ con người
này lănh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy,
đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự
không tạo tác các nghiệp mới, sẽ không có diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn
tiến đến tương lai, nghiệp
được đoạn diệt; do nghiệp
được đoạn diệt, khổ được
đoạn diệt; do khổ được đoạn
diệt; cảm thọ được đoạn
diệt; do cảm thọ được đoạn
diệt, tất cả khổ sẽ được
diệt tận".
Này các Tỷ-kheo, nói như vậy, Ta không thấy
một câu trả lời hợp pháp nào giữa các vị
Nigantha. Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, Ta nói với các
vị Nigantha ấy như sau :
"- Chư Hiền Nigantha, các ông nghĩ thế
nào ? Có thể được chăng : "Mong rằng
nghiệp được thọ quả hiện tại này,
do tinh tấn, hay do tinh cần có thể khiến
được thọ quả tương lai ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Có thể được chăng : "Mong
rằng nghiệp được thọ quả
tương lai này do tinh tấn hay do tinh cần có thể
khiến được thọ quả hiện tại
?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế
nào ? Có thể được chăng : "Mong rằng
nghiệp được lănh lạc thọ này, do tinh
tấn hay tinh cần có thể được lănh khổ
thọ ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Có thể được chăng : "Mong
rằng nghiệp được lănh khổ thọ này, do
tinh tấn hay tinh cần có thể được lănh
lạc thọ ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế
nào ? Có thể được chăng : "Mong rằng
nghiệp mà quả lănh thọ đă được
thuần thục này do tinh tấn hay tinh cần, có thể
trở thành không thuần thục ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Có thể được chăng : "Mong
rằng nghiệp mà quả lănh thọ chưa
được thuần thục này, do tinh tấn hay tinh
cần, có thể trở thành thuần thục ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế
nào ? Có thể được chăng : "Mong rằng
nghiệp đa sở thọ này do tinh tấn hay tinh
cần trở thành thiểu sở thọ ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Có thể nói được chăng :
"Mong rằng nghiệp thiểu sở thọ này do tinh
tấn hay do tinh cần trở thành đă sở thọ
?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế
nào ? Có thể được chăng : "Mong rằng
nghiệp có sở thọ này do tinh tấn hay tinh cần
trở thành nghiệp không có sở thọ ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Có thể được chăng : "Mong
rằng nghiệp không có sở thọ này, do tinh tấn hay
tinh cần trở thành nghiệp có sở thọ ?"
"- Thưa không vậy, Hiền giả.
"- Như vậy, này chư
Này các Tỷ-kheo, các Nigantha nói như vậy. Này
các Tỷ-kheo, mười thuyết tùy thuyết (Tùy
thuận thuyết Vadanuvada) hợp pháp do các Nigantha đă nói
như vậy đưa đến sự chỉ trích.
Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân các
việc làm quá khứ, lănh thọ lạc khổ, thời
này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự đă làm những
ác hạnh trong thời quá khứ, nên nay họ phải lănh
thọ những cảm giác đau đớn, cực
khổ, thống khổ như vậy. Này các Tỷ-kheo,
nếu các hữu t́nh do nhân một vị Tạo hóa tạo
ra lănh thọ những cảm giác lạc khổ, thời
này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự được
tạo ra bởi một vị Tạo hóa ác độc, v́
rằng nay họ lănh thọ những cảm giác đau
đớn, cực khổ, thống khổ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân kết hợp
các điều kiện (sangatibhava), thọ lănh lạc
khổ, thời này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự
bị ác kết hợp, v́ rằng nay họ lănh thọ
những cảm giác đau đớn, cực khổ,
thống khổ như vậy. Này các Tỷ-kheo, nếu các
loài hữu t́nh do nhân sanh loại (ahbijati) lănh thọ
những cảm giác khổ thọ, thời này các
Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự bị ác sinh loại, v́
rằng nay họ lănh thọ những cảm giác đau
đớn, cực khổ, thống khổ như vậy.
Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân tinh tấn
hiện tại, thọ lănh lạc khổ, thời này các
Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự đă tạo ác tinh
tấn hiện tại, v́ rằng nay họ lănh thọ
những cảm giác đau đớn, cực khổ,
thống khổ. Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do
nhân việc làm quá khứ thọ lănh lạc khổ, các
Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu t́nh không
do nhân việc làm quá khứ thọ lănh lạc khổ, các
Nigantha đáng bị chỉ trích. Này các Tỷ-kheo, nếu
các hữu t́nh do nhân được một vị Tạo
hóa tạo ra thọ lănh lạc khổ, các Nigantha đáng
bị chỉ trích. Nếu các hữu t́nh không do nhân
được một vị Tạo hóa tạo ra thọ
lănh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích. Này
các Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân kết hợp các
điều kiện thọ lănh lạc khổ, các Nigantha
đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu t́nh không do nhân
kết hợp các điều kiện thọ lănh lạc
khổ các Nigantha đáng bị chỉ trích. Này các
Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân sanh loại thọ
lănh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích.
Nếu các hữu t́nh không do nhân sanh loại thọ lănh
lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích . Này các
Tỷ-kheo, nếu các hữu t́nh do nhân tinh cần hiện
tại thọ lănh lạc khổ, các Nigantha đáng bị
chỉ trích. Nếu các hữu t́nh không do nhân tinh cần
hiện tại thọ lănh lạc khổ, các Nigantha đáng
bị chỉ trích. Này các Tỷ-kheo, các Nigantha nói như
vậy. Này các Tỷ-kheo, mười thuyết tùy thuyết
hợp pháp các Nigantha đă nói như vậy đưa
đến sự chỉ trích. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, sự tinh tấn của các Nigantha là không có
kết quả, sự tinh cần của họ là không có
kết quả.
– Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự tinh
tấn có kết quả ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo không để cho tự ngă chưa bị
nhiếp phục, bị đau khổ nhiếp phục và
không từ bỏ lạc thọ hợp pháp, và không
để lạc thọ ấy bị chi phối. Vị
ấy biết như sau: "Trong khi ta tinh cần chống
lại nguyên nhân đau khổ này, do chống lại nguyên
nhân đau khổ, ta không có tham dục. Nhưng trong khi ta
xả đối với nguyên nhân đau khổ này, trong khi
tu tập xả, ta không có tham dục". Khi (vị
Tỷ-kheo) tinh cần chống lại nguyên nhân đau
khổ, do tinh cần chống lại nguyên nhân đau
khổ, vị ấy không có tham dục. Do vậy, ở
đây, vị ấy tinh cần chống lại (nguyên nhân
đau khổ). Nhưng trong khi vị ấy xả
đối với nguyên nhân đau khổ, trong khi tu tập
xả, vị ấy không có tham dục. Do vậy, ở
đây, vị ấy tu tập xả. Trong khi vị ấy
tinh cần chống lại nguyên nhân đau khổ ấy,
do tinh cần chống lại nguyên nhân, vị ấy không có
tham dục. Như vậy sự đau khổ ấy
đối với vị ấy được diệt
tận. Trong khi vị ấy xả đối với nguyên
nhân đau khổ ấy, trong khi tu tập xả, vị
ấy không có tham dục. Như vậy sự đau
khổ ấy đối với vị ấy
được diệt tân.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người
luyến ái một nữ nhân, tâm tư say đắm,
nhiệt t́nh ái mộ, nhiệt t́nh luyến mộ.
Người ấy thấy nữ nhân này đứng
với một người đàn ông khác, nói chuyện,
đùa giỡn và cười cợt. Này các Tỷ-kheo, các
Ông nghĩ thế nào ? Người ấy, khi thấy
nữ nhân này đứng với một người đàn
ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt,
có sanh sầu, bi, khổ, ưu, năo không ?
– Thưa có vậy, bạch Thế Tôn. V́ sao
vậy ? V́ rằng người ấy luyến ái nữ
nhân kia, tâm tư say đắm, nhiệt t́nh ái mộ,
nhiệt t́nh luyến mộ. Do vậy, người ấy
khi thấy nữ nhân kia đứng với một
người đàn ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và
cười cợt, nên sanh sầu, bi, khổ, ưu, năo.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, người ấy có
thể suy nghĩ như sau : "Ta luyến ái nữ nhân
này, tâm tư say đắm, nhiệt t́nh ái mộ, nhiệt
t́nh luyến mộ. Khi ta thấy nữ nhân này đứng
với một người đàn ông khác, nói chuyện
đùa giỡn và cười cợt, ta sanh sầu, bi, khổ,
ưu, năo. Vậy ta hăy bỏ ḷng tham luyến đối
với nữ nhân này". Rồi người ấy bỏ
ḷng tham luyến đối với nữ nhân kia. Sau một
thời gian, người ấy thấy nữ nhân kia
đứng với một người đàn ông khác, nói
chuyện, đùa giỡn và cười cợt. Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy khi
thấy nữ nhân kia đứng với một
người đàn ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và
cười cợt, có sanh sầu, bi, khổ, ưu năo, không
?
Bạch Thế Tôn không. V́ sao vậy ? Bạch
Thế Tôn v́ rằng, người này đối với
nữ nhân kia không c̣n tham luyến. Do vậy, khi thấy
nữ nhân kia đứng với một người đàn
ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt,
người ấy không sanh sầu bi, khổ, ưu, năo.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, (một
người) không để cho tự ngă chưa bị
nhiếp phục, bị đau khổ nhiếp phục và
không từ bỏ lạc thọ hợp pháp, và không
để lạc thọ ấy bị chi phối. Vị
ấy biết như sau : "Trong khi ta tinh cần
chống lại nguyên nhân đau khổ này, do chống
lại nguyên nhân đau khổ, ta không có tham dục.
Nhưng trong khi ta xả đối với nguyên nhân đau
khổ này, trong khi tu tập xả, ta không có tham
dục". Khi (vị ấy) tinh cần chống lại
nguyên nhân đau khổ, do tinh cần chống lại nguyên
nhân đau khổ, vị ấy không có tham dục. Do
vậy, ở đây, vị ấy tinh cần chống
lại (nguyên nhân đau khổ). Nhưng trong khi vị
ấy xả đối với nguyên nhân đau khổ,
trong khi tu tập xả, vị ấy không có tham dục. Do
vậy, ở đây, vị ấy tu tập xả. Trong khi
vị ấy tinh cần chống lại nguyên nhân đau
khổ ấy, do tinh cần chống lại nguyên nhân,
vị ấy không có tham dục. Như vậy, sự
đau khổ đối với vị ấy
được diệt tận. Trong khi vị ấy xả
đối với nguyên nhân đau khổ ấy, trong khi tu
tập xả, vị ấy không có tham dục. Như
vậy, sự đau khổ đối với vị
ấy được diệt tận. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, sự tinh
cần có kết quả.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
lại suy nghĩ như sau : "Khi ta trú vào lạc,
bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp
giảm thiểu. Nhưng khi ta tinh cần dùng đau
khổ chống với tự ngă, các bất thiện pháp
giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng.
Vậy ta hăy tinh cần dùng đau khổ chống với tự
ngă". Vị ấy tinh cần dùng đau khổ chống
với tự ngă. Do tinh cần dùng đau khổ chống
với tự ngă, các bất thiện pháp giảm thiểu,
các thiện pháp tăng trưởng. Vị ấy sau
một thời gian, không tinh cần dùng đau khổ
chống với tự ngă. V́ sao vậy ? V́ mục đích
vị Tỷ-kheo ấy tinh cần dùng đau khổ
chống với tự ngă đă thành tựu. Do vậy, sau
một thời gian vị ấy không tinh cần dùng đau
khổ chống với tự ngă. Ví như, này các
Tỷ-kheo, một người làm tên, hơ nóng và
đốt nóng thân tên giữa hai ngọn lửa, khiến
thân tên được thẳng và dễ uốn nắn.
Nhưng này các Tỷ-kheo, khi thân tên của người làm
tên, đă được hơ nóng và đốt nóng
giữa hai ngọn lửa trở thành thẳng và dễ
uốn nắn, người ấy sau một thời gian
không c̣n hơ nóng và đốt nóng thân tên giữa hai
ngọn lửa, khiến thân tên được thẳng và
dễ uốn nắn. V́ sao vậy ? V́ mục đích
người làm tên ấy hơ nóng và đốt nóng thân tên
giữa hai ngọn lửa, khiến thân tên được
thẳng và dễ uốn nắn đă được thành
tựu. Do vậy, sau một thời gian, người
ấy không c̣n hơ nóng, đốt nóng thân tên giữa hai
ngọn lửa để trở thành thẳng và dễ
uốn nắn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau : "Khi ta trú vào
lạc, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp giảm thiểu. Nhưng khi ta tinh cần dùng đau
khổ chống với tự ngă", các bất thiện
pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng.
Vậy ta hăy tinh cần dùng đau khổ chống với
tự ngă". Vị ấy tinh cần dùng đau khổ
chống với tự ngă. Do tinh cần dùng đau khổ
chống với tự ngă, các bất thiện pháp giảm
thiểu, các thiện pháp tăng trưởng. Vị
ấy sau một thời gian, không tinh cần dùng đau
khổ chống với tự ngă. V́ sao vậy ? V́ mục
đích vị Tỷ-kheo ấy tinh cần dùng đau
khổ chống với tự ngă đă thành tựu. Do vậy,
sau một thời gian, vị ấy không tinh cần dùng
đau khổ chống với tự ngă. Như vậy, này
các Tỷ-kheo là sự tinh cần có kết quả.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây,
Như Lai sanh ra ở đời, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải.. (xem tập I,
Vị ấy, từ bỏ năm triền cái làm
cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược này, ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, là sự
tinh cần có kết quả.
Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhứt tâm.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có
kết quả, là sự tinh cần có kết quả.
Và lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có
kết quả, là sự tinh cần có kết quả.
Và lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ
ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả
niệm thanh tịnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
sự tinh tấn có kết quả, là sự tinh cần có
kết quả.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh
như vậy... (xem tập I, trang 404 đến 405)....
như vậy vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, là sự
tinh cần có kết quả.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh
như vậy... (xem tập I, trang 405 đến trang 406)...
đều do hạnh nghiệp của họ. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết
quả, là sự tinh cần có kết quả.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh...
(xem tập I, Đại
Này các Tỷ-kheo,
102. KINH NĂM BA [^]
(Pancattayasutam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana
(Kỳ-đà-lâm), tại tu viện ông Anathapindika. Ở
đây,
– Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn
luận bàn về tương lai, thảo luận về
tương lai, y cứ vào tương lai, tuyên bố
nhiều quan điểm sai khác. Ở đây, một số
tuyên bố : "Sau khi chết, tự ngă không bệnh, có
tưởng". Ở đây, một số tuyên bố :
"Sau khi chết, tự ngă không bệnh, không
tưởng". Ở đây một số tuyên bố :
"Sau khi chết, tự ngă không bệnh, phi tưởng
và phi phi tưởng". Hay họ chủ trương
đoạn diệt hủy hoại, tiêu diệt của loài
hữu t́nh hiện đang sanh tồn. Hay một số
lại tuyên bố về hiện tại Niết-bàn. Như
vậy, họ chủ trương sau khi chết, tự ngă
tồn tại không bệnh. Hay họ chủ trương
đoạn diệt, hủy hoại, tiêu diệt của
loài hữu t́nh hiện đang sanh tồn. Hay một số
lại tuyên bố hiện tại Niết-bàn. Như
vậy, những chủ thuyết này, sau khi thành năm
trở lại thành ba, sau khi thành ba, trở lại thành
năm. Đây là sự tổng thuyết năm ba.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự
ngă có tưởng, không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy hoặc chủ trương sau khi chết tự ngă
có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă
hoặc không có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngă hoặc có sắc và không sắc, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
không sắc và không không sắc, có tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương tự ngă hoặc nhất tưởng, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
dị tưởng, có tưởng, không bệnh; các Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương tự ngă
sau khi chết hoặc thiểu tưởng, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
vô lượng tưởng, có tưởng, không bệnh.
Nhưng có một số tuyên bố thức biến này
(vinnanakasina) khi vượt qua khỏi (upativa-ttatam ?) trở
thành vô lượng, bất động. Về vấn
đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau
: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương sau khi chết, tự ngă có tưởng, không
bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc có sắc, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
không có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết
tự ngă hoặc có sắc và không sắc, có tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết tự ngă hoặc không sắc và
không không sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngă hoặc nhứt tưởng, có tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc di
tưởng, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngă hoặc thiểu tưởng, có tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc vô
lượng tưởng, có tưởng, không bệnh. Hay
(Như Lai biết) loại tưởng nào trong các loại
tưởng ấy được xưng là thanh tịnh,
tối thắng, đệ nhất, vô thượng, tức
là sắc tưởng, tức là vô sắc tưởng,
tức là nhứt tưởng, tức là dị
tưởng. Nói rằng: "vô sở hữu", một
số tuyên bố Vô sở hữu xứ là vô lượng,
bất động. Biết rằng cái này thuộc hữu
vi, là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành,
biết được có (sự đoạn diệt) này,
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị
Sa-môn, Bà- la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự
ngă không tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă
hoặc có sắc không tưởng, không bệnh; các Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngă hoặc không sắc, không tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc có sắc không
sắc, không tưởng, không bệnh.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngă có
tưởng, vô bệnh, một số phỉ báng các vị
ấy. V́ sao vậy ? Họ nói rằng : "Tưởng
là bệnh hoạn, tưởng là mụt nhọt,
tưởng là mũi tên; đây là tịch tịnh, thù
diệu tức là vô tưởng". Về vấn
đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau
: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương sau khi chết, tự ngă là không tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc có sắc,
không tưởng, không bệnh; Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
không sắc không tưởng không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngă hoặc có sắc và không sắc, không
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
không có sắc, không không sắc, không tưởng, không
bệnh". Này các Tỷ-kheo, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói
như sau : "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng,
ngoài hành, ngoài thức, ta sẽ chủ trương sự
lai, văng, tử, sanh, tăng trưởng, tăng thịnh,
hay tăng đại"; sự t́nh không có như vậy.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng
có sự đoạn diệt các hành, biết
được có (sự đoạn diệt) này,
Ở đây, này các Tỷ-kheo những Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết tự
ngă là Phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngă hoặc có sắc, phi tưởng phi phi
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc có sắc và
không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă hoặc không sắc,
không không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không
bệnh. Ở đây này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn, Bà-la-môn
nào chủ trương sau khi chết, tự ngă có
tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các
vị ấy; các Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngă không tưởng, không bệnh, một
số phỉ báng các vị ấy. V́ sao vậy ? (Họ nói
rằng) : "Tưởng là bệnh hoạn, tưởng
là mụt nhọt, tưởng là mũi tên, không
tưởng là si ám. Đây là tịch tịnh, thù diệu,
tức là phi tưởng phi phi tưởng". Về
vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết
như sau : "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương sau khi chết, tự ngă là phi tưởng phi
phi tưởng, không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
có sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngă hoặc không sắc, phi tưởng phi
phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngă hoặc
có sắc và không sắc, phi tưởng phi phi tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngă là không có sắc, không
không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không
bệnh".
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương sự thành tựu của xứ này (ayatana)
chỉ nhờ những hành có thể thấy
được, nghe được, tư duy
được, ư thức được; đây
được xưng, này các Tỷ-kheo, là tổn hại
cho sự thành tựu xứ (ayatana) này. V́ rằng, này các
Tỷ-kheo, xứ này không được xưng là có
thể đạt thành nhờ sự thành tựu hữu
hành (sasankhara), mà này các Tỷ-kheo, xứ này được
xưng là có thể đạt thành nhờ sự thành
tựu không có hành nào c̣n lại. Biết rằng cái này
thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn
diệt các hành, biết được có (sự
đoạn diệt này),
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương đoạn diệt,
hủy hoại, diệt tận của loại hữu t́nh
hiện đang sinh tồn. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngă có tưởng, không bệnh, một
số phỉ báng các vị ấy. C̣n những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngă không
tưởng không bệnh, một số phỉ báng các
vị ấy. C̣n những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương sau khi chết, tự ngă phi tưởng phi phi
tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các
vị ấy. V́ sao vậy ? Tất cả những Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn này hướng thượng tuyên
bố có chấp trước : "Đời sau chúng ta
sẽ hiện hữu, đời sau chúng ta sẽ hiện
hữu". Ví như một người lái buôn đi buôn
bán nghĩ rằng : "Từ đây ta sẽ có vật
này, ta sẽ được vật này từ cái này".
Cũng vậy, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, chúng ta
nghĩ rằng, cũng giống như những
người lái buôn khi các vị này nói : "Đời sau
chúng ta sẽ hiện hữu, đời sau chúng ta sẽ
hiện hữu". Về vấn đề này, này các
Tỷ-kheo,
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào
luận bàn về tương lai, thảo luận về
tương lai, y cứ vào tương lai tuyên bố
nhiều quan điểm sai khác, tất cả đều
tuyên bố năm xứ này hay một trong chúng. Này các
Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về
quá khứ, thảo luận về quá khứ, y cứ vào quá
khứ, tuyên bố nhiều quan điểm sai khác :
"Tự ngă và thế giới là thường c̣n; chỉ
như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới là vô thường;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy : "Tự ngă và thế giới là thường c̣n
là vô thường; chỉ như vậy là chân thật, ngoài
ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên
bố như vậy. "Tự ngă và thế giới là
không phải thường c̣n, không phải vô thường;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới là hữu biên;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới là vô biên; chỉ
như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới là hữu biên và vô
biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới không phải
hữu biên, không phải vô biên; chỉ như vậy là
chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây,
một số tuyên bố như vậy. "Tự ngă và
thế giới là nhứt tưởng; chỉ như
vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng".
Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
"Tự ngă và thế giới là dị tưởng;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngă và thế giới là thiểu
tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài
ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên
bố như vậy. "Tự ngă và thế giới là vô
lượng tưởng; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một
số tuyên bố như vậy. "Tự ngă và thế
giới là nhứt hướng lạc; chỉ như
vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng".
Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
"Tự ngă và thế giới là nhứt hướng
khổ; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là
hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố
như vậy. "Tự ngă và thế giới là lạc và
khổ; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là
hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố
như vậy. "Tự ngă và thế giới là không
khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một
số tuyên bố như vậy. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có chủ thuyết như
sau, có quan điểm như sau : "Tự ngă và thế
giới là thường c̣n, chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ngoài tín, ngoài hỷ,
ngoài tùy văn, ngoài thẩm định lư do, ngoài kham
nhẫn chấp thọ (tà) kiến, trí tự ḿnh sẽ trở
thành thanh tịnh, trong sạch; sự t́nh như vậy
không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, nếu trí tự ḿnh không trở
thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho đến
chỉ một phần nhỏ của trí, mà những Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm cho trong sạch chính như
vậy cũng được xưng là chấp
trước đối với những vị Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Biết rằng cái này thuộc hữu
vi là thô pháp, không có sự đoạn diệt các hành,
biết được có (sự đoạn diệt này),
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào có lư thuyết như sau, có quan điểm
như sau : "Tự ngă và thế giới là vô
thường... (như trên)... tự ngă và thế giới là
thường c̣n và vô thường... (như trên)... tự
ngă và thế giới không thường c̣n và không vô
thường... (như trên)... tự ngă và thế giới là
vô biên... (như trên)... tự ngă và thế giới là hữu
biên và vô biên... (như trên)... tự ngă và thế giới là
không hữu biên, không vô biên... (như trên)... tự ngă và
thế giới là nhứt tưởng... (như trên)...
tự ngă và thế giới là dị tưởng... (như
trên)... tự ngă và thế giới là thiểu
tưởng... (như trên)... tự ngă và thế giới là
vô lượng tưởng... (như trên)... tự ngă và
thế giới là nhứt hướng lạc... (như
trên)... tự ngă và thế giới là nhứt hướng khổ...
(như trên)... tự ngă và thế giới là lạc và
khổ.. (như trên)... Tự ngă và thế giới là không
khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng. Ngoài ḷng tin, ngoài hỷ,
ngoài tùy văn, ngoài thẩm định lư do, ngoài sự kham
nhẫn chấp thọ (tà) kiến, trí tự ḿnh sẽ trở
thành thanh tịnh, trong sạch, sự t́nh như vậy
không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, nếu trí tự ḿnh không
trở thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho
đến chỉ một phần nhỏ của trí, mà
những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm cho trong sạch,
chính như vậy cũng được xưng là chấp
trước đối với những Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy. Biết rằng cái này thuộc hữu vi là
thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành,
biết được có (sự đoạn diệt này),
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay
Bà-la-môn do từ bỏ những quan điểm về quá
khứ, và từ bỏ những quan điểm về
tương lai, do không hoàn toàn chú tâm đến những
dục kiết sử, đạt được viễn
ly hỷ và an trú. Vị ấy nghĩ: "Đây là sự
thật, đây là thù diệu, tức là đạt
được viễn ly hỷ, ta an trú". Nhưng
nếu viễn ly hỷ ấy của vị này bị
đoạn diệt, do viễn ly hỷ bị đoạn
diệt, ưu tư sanh khởi. Do ưu tư
được đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh
khởi. Ví như, này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ
bỏ, chỗ ấy sức nóng (mặt trời) lan
rộng, chỗ nào sức nóng (mặt trời) từ
bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng; cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, do viễn ly hỷ bị đoạn
diệt, ưu tư sanh khởi. Do ưu tư
được đoạn diệt nên viễn ly hỷ sanh
khởi. Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như
Lai biết như sau: Vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này,
do từ bỏ những quan điểm về quá khứ,
và do từ bỏ những quan điểm về
tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục
kiết sử, sau khi đạt được viễn ly
hỷ, liền an trú : "Đây là sự thật, đây
là thù diệu, tức là đạt được viễn
ly hỷ, ta an trú". Viễn ly ấy của vị này
bị đoạn diệt. Do viễn ly hỷ bị
đoạn diệt, ưu tư sanh khởi; do ưu tư
được đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh
khởi. Biết rằng cái này thuộc hữu vi pháp là thô
pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết
được có (sự đoạn diệt này),
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị
Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về
quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về
tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục
kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, sau khi
đạt được phi vật chất lạc
liền an trú: "Đây là sự thật, đây là thù
diệu tức là đạt được phi vật
chất lạc, ta an trú". Phi vật chất lạc
của vị ấy bị đoạn diệt; do phi
vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn
ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn
diệt, phi vật chất lạc sanh khởi. Ví như,
này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ
ấy sức nóng (mặt trời) lan rộng, chỗ nào
sức nóng (mặt trời) từ bỏ, chỗ ấy
bóng mát lan rộng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do phi
vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn
ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn
diệt, phi vật chất lạc sanh khởi. Về
vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết
như sau : Vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ
bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ
các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú
tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua
viễn ly hỷ, đạt được phi vật
chất lạc và an trú : "Đây là sự thật,
đây là thù diệu, tức là đạt được
phi vật chất lạc, ta an trú". Phi vật chất
lạc ấy của vị này bị đoạn diệt.
Do phi vật chất lạc bị đoạn diệt,
viễn ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị
đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng
có sự đoạn diệt các hành; biết
được có (sự đoạn diệt) này,
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn,
do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do
từ bỏ các quan điểm về tương lai, do
hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do
vượt qua viễn ly hỷ, do vượt qua phi
vật chất lạc, sau khi đạt được vô
khổ vô lạc thọ, liền an trú : "Đây là
sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt
được vô khổ vô lạc thọ, ta an trú". Vô
khổ vô lạc thọ ấy của vị này bị
đoạn diệt. Do vô khổ vô lạc thọ bị
đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi;
do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, vô
khổ vô lạc thọ sanh khởi. Ví như này các
Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy
sức nóng (mặt trời) lan rộng, chỗ nào sức
nóng từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng; cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, do vô khổ vô lạc thọ
bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh
khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn
diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi. Về
vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết
như sau: vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ
bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ
các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú
tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua
viễn ly hỷ, do vượt qua phi vật chất
lạc, sau khi đạt được vô khổ vô
lạc thọ, liền an trú: "Đây là sự thật,
đây là thù diệu, tức là đạt được vô
khổ vô lạc thọ, ta an trú". Vô khổ vô lạc
thọ ấy của vị này bị đoạn diệt.
Do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn diệt, phi
vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất
lạc bị đoạn diệt, vô khổ vô lạc
thọ sanh khởi. Biết rằng cái này thuộc hữu
vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, sau
khi biết được: "Đây có sự đoạn
diệt (các hành này),
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị
Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về
quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về
tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục
kiết sử, do vượt khỏi viễn ly hỷ, do
vượt khỏi phi vật chất lạc, do
vượt khỏi vô khổ vô lạc thọ, vị
ấy quán : "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt,
ta là không chấp thủ". Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả
Sa-môn, Bà la môn này... (như trên)... "... ta là không chấp
thủ". Chắc chắn vị Đại đức
này tuyên bố con đường thích hợp (đưa
đến) Niết-bàn. Nhưng vị Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn này khởi lên chấp thủ, hoặc chấp
thủ quan điểm về quá khứ, chấp thủ
hoặc chấp thủ quan điểm về tương
lai, chấp thủ hoặc chấp thủ dục kiết
sử, chấp thủ hoặc chấp thủ viễn ly
hỷ, chấp thủ hoặc chấp thủ phi vật
chất lạc, chấp thủ hoặc chấp thủ vô
khổ vô lạc thọ. Dầu cho vị Đại
đức này quán : "Ta là tịch tịnh, ta là tịch
diệt, ta không có chấp trước", nhưng vị
này vẫn được xem là có chấp trước
về điểm ấy. Biết rằng cái này thuộc
hữu vi pháp là thô pháp, nhưng có đoạn diệt các
hành, sau khi biết được có (sự đoạn
diệt các hành) này, Như Lai thấy được sự
giải thoát khỏi (hữu vi pháp) và đă vượt
khỏi (hữu vi pháp).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, vô
thượng tịch tịnh, tối thắng đạo
được Như Lai chánh đẳng giác, nghĩa là sau
khi như thật biết sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt và sự nguy hiểm
của sáu xúc xứ, có sự giải thoát không chấp
thủ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vô thượng tịch
tịnh tối thắng đạo này được
Như Lai chánh đẳng giác, nghĩa là sau khi như
thật biết sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc
xứ, có sự giải thoát không chấp thủ.
103.
KINH NHƯ THẾ NÀO [^]
(Kintisutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Kusinara, tại
khu rừng Baliharana. Ở đây, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo", – "Thưa vâng,
bạch Thế Tôn".
– Này các Tỷ-kheo, đối với Ta, các Ông
nghĩ như thế nào ? Có phải v́ nhân y áo, Sa-môn Gotama
thuyết pháp ? Hay có phải v́ nhân đồ ăn khất
thực, Sa-môn Gotama thuyết pháp ? Hay có phải v́ nhân sàng
tọa, Sa-môn Gotama thuyết pháp ? Hay có phải v́ nhân thành
bại, Sa-môn Gotama thuyết pháp ?
– Thưa không phải vậy, bạch
Chúng con không nghĩ rằng : "V́ nhân y áo, Sa-môn
Gotama thuyết pháp.. (như trên)... V́ nhân thành bại, Sa-môn
Gotama thuyết pháp".
– Và như vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với Ta, các Ông không nghĩ như sau: "V́ nhân y áo, Sa-môn
Gotama thuyết pháp... (như trên)... V́ nhân thành bại, Sa-môn
Gotama thuyết pháp". Vậy này các Tỷ-kheo, đối
với ta, các Ông nghĩ như thế nào ?"
– Như thế này, bạch Thế Tôn, đối
với Thế Tôn, chúng con nghĩ như sau: "Với
từ tâm, v́ lợi tha và do ḷng từ Thế Tôn thuyết
pháp".
– Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với Ta, các Ông nghĩ như sau: "Với từ tâm, v́
lợi tha và do ḷng từ Thế Tôn thuyết pháp".
Do vậy, này các Tỷ-kheo, những pháp Ta
giảng cho các Ông với thượng trí, như là Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ư túc,
Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề
phần, Thánh đạo tám ngành. Ở đây, các ông
phải học tập tất cả, trong tinh thần ḥa
đồng, hoan hỷ, không căi lộn với nhau. Và này các
Tỷ-kheo, khi các Ông học tập trong các pháp ấy, trong
tinh thần ḥa đồng, hoan hỷ, không căi lộn
với nhau, có thể có hai vị Tỷ-kheo nói khác nhau
về Abhidhamma (Thắng pháp). Ở đây, nếu các Ông
nghĩ như sau: "Giữa các vị Tôn giả này, có
sự sai khác về nghĩa, có sự sai khác về
văn"; ở đây, Tỷ-kheo nào các Ông nghĩ là nhu
thuận dễ nói hơn, hăy đến vị ấy nói
như sau: "Giữa các Tôn giả có sự sai khác về
nghĩa, có sự sai khác về văn. Về vấn
đề này các Tôn giả phải biết có sự sai khác
về nghĩa, có sự sai khác về văn như thế
này.
Rồi một Tỷ-kheo nào của phe bên kia mà các
Ông nghĩ là nhu thuận dễ nói hơn, hăy đến
vị ấy và nói như sau: "Giữa các Tôn giả có
sự sai khác về nghĩa, có sự đồng nhất
về văn. Về vấn đề này, các Tôn giả
phải biết có sự sai khác về nghĩa, có sự
đồng nhất về văn như thế này.
Và này các Tỷ-kheo, khi các Ông học tập các pháp
ấy trong tinh thần ḥa đồng, hoan hỷ, không căi
lộn với nhau, có thể có một Tỷ-kheo khác
phạm giới, phạm luật. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, chớ có khiển trách hấp tấp, cá nhân
người kia cần phải giác sát. (
Và này các Tỷ-kheo, khi các Ông học tập các pháp
ấy trong tinh thần ḥa đồng, hoan hỷ, không căi
lộn với nhau, có thể khởi lên giữa các Ông,
một khẩu hành, một ư kiến ngoan cố, một tâm
hiềm hận, ưu năo, phẫn nộ. Ở đây,
một Tỷ-kheo nào của phe bên kia mà các Ông nghĩ là nhu
thuận dễ nói hơn, hăy đến vị ấy và nói
như sau : "Này Hiền giả, dầu chúng tôi học
tập các pháp ấy trong tinh thần ḥa đồng, hoan
hỷ, không căi lộn nhau, có khởi lên một khẩu
hành, một ư kiến ngoan cố, một tâm hiềm
hận, ưu năo, phẫn nộ. Nếu biết
được như thế, vị Sa-môn sẽ quở
trách". Trả lời một cách chơn chánh, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải trả lời như sau :
""Này Hiền giả, dầu cho, chúng tôi học
tập các pháp ấy trong tinh thần ḥa đồng, hoan hỷ,
không căi lộn nhau... (như trên)... vị Sa-môn sẽ
quở trách. Nhưng này Hiền giả, nếu không từ
bỏ điều kiện ấy, Niết-bàn có thể
chứng được chăng ?" Nếu trả
lời một cách chơn chánh, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phải trả lời như sau: "Này Hiền giả,
nếu không từ bỏ điều kiện ấy,
Niết-bàn không có thể chứng được".
Rồi một Tỷ-kheo nào của phe bên kia mà các Ông
nghĩ là nhu thuận dễ nói hơn hăy đến vị
ấy và nói như sau : "Này Hiền giả, dầu chúng
tôi học tập các pháp ấy... (như trên).. vị Sa-môn
sẽ quở trách". Trả lời một cách chơn
chánh, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải trả lời
như sau: "Này Hiền giả, dầu cho chúng tôi ...
(như trên)... Sa-môn sẽ quở trách. Nhưng này Hiền
giả, nếu không từ bỏ điều kiện
ấy, Niết-bàn có thể chứng được
chăng ?" Nếu trả lời một cách chơn
chánh, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải trả lời
như sau: "Này Hiền giả, nếu không từ bỏ
điều kiện ấy, Niết-bàn không có thể
chứng được".
Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu các Ông khác hỏi
Tỷ-kheo ấy, nói rằng: "Các Tỷ-kheo ấy có
được Tôn giả khiến cho vượt khỏi
bất thiện, an trú vào thiện chăng ?" Nếu
trả lời một cách chơn chánh, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo phải trả lời như sau: "Ở
đây, này Hiền giả, tôi đi đến Thế Tôn và
Thế Tôn thuyết pháp của Ngài cho tôi. Sau khi nghe pháp
ấy, tôi đă nói lại cho các Tỷ-kheo ấy. Khi các
Tỷ-kheo ấy nghe pháp ấy xong, các vị ấy tự
vượt khỏi bất thiện và an trú vào
thiện". Trả lời như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tự khen ḿnh chê người.
Vị ấy giải thích tùy pháp đúng với pháp, và không
một ai trong các Pháp hữu nói lời tùy thuyết, có
thể đưa đến phỉ báng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
104. KINH LÀNG SAMA [^]
(Samagamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở giữa các
vị Sakka (Thích Ca), tại Samagama (Xá-di thôn). Lúc bấy
giờ, Nigantha Nataputta vừa mới tạ thế ở
Pava. Sau khi vị này tạ thế, các vị Nigantha chia ra
làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau
và sống tàn hại nhau với binh khí miệng
lưỡi. "Ông không biết pháp luật này, ta biết
pháp luật này. Sao Ông có thể biết pháp luật này ? Ông
theo tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói ta tương
ưng, lời nói Ông không tương ưng. Điều
đáng nói trước Ông nói sau; điều đáng nói sau,
Ông nói trước. Điều Ông quan niệm, tŕnh bày
đă bị đảo lộn. Quan điểm của Ông
đă bị thách đố. Ông đă bị đánh bại.
Hăy đi giải tỏa quan điểm của Ông. Hăy
tự thoát khỏi bế tắc nếu Ông có thể làm
được !" H́nh như các đệ tử của
Nigantha Nataputta muốn tàn hại lẫn nhau. Chính các
đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng
của Nigantha Nataputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và
phản đối các Nigantha, v́ pháp luật của họ
đă được tŕnh bày, tuyên bố một cách
vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn,
không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh
Đẳng Giác tuyên thuyết, tháp y chỉ đă bị
đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
Rồi sa di Cunda, sau khi an cư mùa mưa ở
Pava, đến thăm Tôn giả Ananda ở Samagama, sau khi
đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda và ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Sa di
Cunda bạch Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả, Nigantha Nataputtta đă từ
trần ở Pava. Sau khi vị này tạ thế, các Nigantha
chia ra làm hai phái... tháp y chỉ đă bị đổ
vỡ, không có chỗ y chỉ.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Sa di
Cunda :
– Này Hiền giả Cunda, đây vấn đề
đáng đưa ra để yết kiến Thế Tôn.
Này Hiền giả Cunda, chúng ta hăy đi yết kiến
Thế Tôn; sau khi đến, chúng ta hăy tŕnh bày vấn
đề này để Thế Tôn biết.
– Thưa vâng, Tôn giả .
Sa di Cunda vâng lời Tôn giả Ananda. Rồi Tôn
giả Ananda cùng với Sa di Cunda đi đến yết
kiến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài
và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, Sa di Cunda có nói : "Nigantha
Nataputta đă từ trần ở Pava. Sau khi vị này
từ trần, các vị Nigantha chia ra làm hai phái... tháp y
chỉ đă bị đổ vỡ, không có chỗ y
chỉ". Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau:
"Sau khi Thế Tôn nhập diệt, chớ để cho
tranh luận khởi lên giữa Tăng chúng. Tranh luận
ấy đưa đến sự bất an cho đa
số, bất hạnh cho đa số, thất lợi cho
đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài
người".
– Này Ananda, Ông nghĩ thế nào ? Những pháp Ta
dạy cho các Ông với thượng trí, như Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ư túc,
Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề
phần, Thánh đạo tám ngành. Ông có thấy chăng, này
Ananda, có hai Tỷ-kheo đối với những pháp này
tuyên bố sai khác nhau ?
– Bạch Thế Tôn, những pháp Thế Tôn
dạy cho con với thượng trí, như Bốn
niệm xứ... (như trên)... Thánh đạo tám ngành, con
không thấy cho đến hai Tỷ-kheo đối với
những pháp này tuyên bố sai khác nhau. Bạch Thế Tôn, và
những người nào sống y cứ sùng kính Thế Tôn,
những người ấy sau khi Thế Tôn nhập
diệt, có thể khởi lên những tranh luận giữa
tăng chúng, hoặc về Tăng thượng hoạt
mạng, hoặc về Tăng thượng (Patimokkha-Giới
bổn). Tranh luận ấy đem đến bất an cho
đa số, bất hạnh cho đa số, bất an,
đau khổ cho loài Trời, loài Người.
– Là nhỏ nhặt này Ananda, là sự tranh luận
ấy, tức là (tranh luận) về Tăng thượng
hoạt mạng hay Tăng thượng giới bổn. Này
Ananda, sự tranh luận khởi lên giữa Tăng chúng
về con đường (magga) hay về đường
hướng tu hành (patipada), sự tranh luận ấy
mới đưa đến bất an cho đa số,
thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho
loài Trời, loài Người.
Này Ananda, có sáu căn bản tranh chấp này.
Thế nào là sáu ? Ở đây, Tỷ-kheo phẫn nộ, sân
hận. Này Ananda, vị Tỷ-kheo nào phẩn nộ, sân
hận, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng
bậc Đạo sư, sống không cung kính, không tôn
trọng Pháp, sống không cung kính, không tôn trọng Tăng
chúng, không viên măn sự học tập. Này Ananda, Tỷ-kheo
nào sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo
sư... (như trên)... sống không cung kính, không tôn trọng
Tăng chúng, không viên măn sự học tập, vị ấy
khởi lên tranh luận giữa Tăng chúng. Sự tranh
luận nào đưa đến bất an cho đa số,
bất hạnh cho đa số, thất lợi cho đa
số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài
Người. Này Ananda nếu Ông thấy căn bản tranh
luận như vậy, giữa các Ông hay giữa các
người khác, ở đây, này Ananda, Ông phải tinh
tấn đoạn trừ ác căn bản tranh luận
ấy. Này Ananda, nếu Ông không thấy căn bản tranh
luận như vậy, giữa các Ông hay giữa các
người khác; ở đây, này Ananda, Ông phải theo
một đường hướng để không có
sự tiếp tục diễn tiến đến
tương lai về ác căn bản tranh luận ấy.
Có sự đoạn diệt ác căn bản tranh luận
ấy, như vậy mới không có sự tiếp tục
diễn tiến đến tương lai về ác căn
bản tranh luận ấy như vậy.
Lại nữa này Ananda, vị Tỷ-kheo hiềm
hận năo hại... (như trên)... tật đố, xan
tham... (như trên)... gian manh, xảo trá... (như trên)... ác
dục tà kiến... (như trên)... chấp thủ thế
trí, cố chấp, khó thuyết phục. Này Ananda,
Tỷ-kheo nào chấp thủ thế trí, cố chấp khó
thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không
tôn trọng Bậc Đạo sư, không cung kính, không tôn
trọng Pháp, không cung kính, không tôn trọng Tăng chúng, không
viên măn sự học tập. Này Ananda, vị Tỷ-kheo nào
sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo
sư... (như trên)... sống không cung kính, không tôn trọng
Tăng chúng, không viên măn sự học tập, vị ấy
khởi lên sự tranh luận giữa Tăng chúng. Sự
tranh luận nào đưa đến bất an cho đa
số, bất hạnh cho đa số, thất lợi cho
đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài
Người, này Ananda, nếu Ông thấy căn bản tranh
luận như vậy, giữa các Ông hay giữa các
người khác, ở đây, này Ananda, Ông phải tinh
tấn đoạn trừ ác căn bản tranh luận
ấy. Này Ananda, nếu Ông không thấy căn bản tranh
luận như vậy, giữa các Ông hay giữa
người khác, ở đây, này Ananda, Ông phải theo
một đường hướng để không có
sự tiếp tục diễn tiến đến
tương lai về ác căn bản tranh luận ấy.
Có sự đoạn diệt ác căn bản tranh luận
ấy, như vậy mới không có sự tiếp tục
diễn tiến đến tương lai về ác căn
bản tranh luận như vậy. Những pháp này, này
Ananda, là sáu căn bản tranh chấp.
Này Ananda, có bốn tránh sự này. Thế nào là
bốn ? Tránh sự khởi lên do tranh luận, tránh sự
khởi lên do chỉ trích, tránh sự khởi lên do phạm
giới tội, tránh sự khởi lên do trách nhiệm
(kiccadhikaranam : hành tránh sự). Những pháp này, này Ananda, là
bốn tránh sự.
Nhưng này Ananda, có bảy diệt tránh pháp này
để giải quyết diệt trừ các tránh pháp
thỉnh thoảng khởi lên : phán quyết với sự
hiện diện cần được ban cho (sammukhavinayo
databbo: ưng dữ hiện tiền tỳ- ni), phán
quyết ức niệm cần được ban cho
(sativinayadatabbo: ưng dữ ức niệm tỳ-ni), phán
quyết bất si cần được ban cho (amulhavinayo
databbo: ưng dữ bất si tỳ-ni), quyết
định tùy theo thú nhận (patinnaya karetabbam), quyết
định đa số (yebhuya ssika: đa nhân mích tội),
quyết định tùy theo giới tội người
phạm (tassa papiyyasika), trải cỏ che lấp (tinavattha
rako: như thảo phú địa). Này Ananda, thế nào là
phán quyết với sự hiện diện cần
được ban cho ? Ở đây, này Ananda, các Tỷ-kheo
tranh chấp nhau : "Đây là pháp, hay đây là phi pháp, hay
đây là luật, hay đây là phi luật". Này Ananda,
tất cả các Tỷ-kheo ấy phải tập hợp
ḥa hợp với nhau, sau khi tập hợp, pháp quy chế
(dhammanetti) phải được thảo luận, phân tích.
Sau khi pháp quy chế được thảo luận, phân
tích, ở đây, làm thế nào để đồng
nhất đạt được, như vậy, tránh
sự phải được giải quyết. Như
vậy, này Ananda, là phán quyết với sự hiện
diện; và như vậy, ở đây là sự giải
quyết một số tránh sự tức là dùng phán
quyết với sự hiện diện.
Và này Ananda, thế nào là quyết định
đa số (yebbuyyasika) ? Này Ananda, nếu các Tỷ-kheo kia
không có thể giải quyết tránh ấy tại trú xứ
ấy, thời này Ananda, các vị Tỷ-kheo kia cần
phải đi đến chỗ trú xứ có nhiều
Tỷ-kheo hơn, tại đấy tất cả các
Tỷ-kheo phải ḥa đồng tập hợp lại; sau
khi tập hợp, pháp quy chế (dhammanetti) phải
được thảo luận, phân tích. Sau khi pháp quy
chế được thảo luận, phân tích, ở
đây làm thế nào, để đồng nhất
đạt được như vậy tránh sự
phải được giải quyết. Như vậy, này
Ananda, là sự giải quyết một số tránh sự
tức là dùng sự quyết định đa số.
Và này Ananda, thế nào phán quyết ức niệm
? Ở đây, này Ananda, các Tỷ-kheo buộc tội
một Tỷ-kheo về một trọng tội như
thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nói
rằng: "Tôn giả có nhớ Tôn giả đă phạm
trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di,
hoặc gần Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời
như sau : "Chư Hiền, tôi không nhớ tôi đă
phạm trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di,
hoặc gần Ba-la-di". Như vậy, này Ananda, một
phán quyết ức niệm cần phải cho Tỷ-kheo
ấy. Như vậy, này Ananda, là phán quyết ức niệm.
Như vậy, ở đây là sự giải quyết
một số tránh sự tức là nhờ phán quyết
ức niệm.
Và này Ananda, thế nào là phán quyết bất si ?
Ở đây, này Ananda, các Tỷ-kheo buộc tội một
Tỷ-kheo về một trọng tội như thế này,
hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di nói rằng: "Tôn
giả có nhớ Tôn giả đă phạm trọng tội
như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau:
"Chư Hiền, tôi không nhớ tôi đă phạm
trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc
gần Ba-la-di". Tỷ-kheo ấy bị (các vị
Tỷ-kheo kia)dồn ép phải thú nhận: "Tôn giả
hăy biết cho rơ ràng, nếu Tôn giả có nhớ có phạm
trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc
gần Ba-la-di". Tỷ-kheo ấy trả lời như
sau: "Này Chư Hiền, tôi đă bị cuồng si, tâm
trí tôi điên đảo; do tôi cuồng si như vậy,
nhiều việc đă được tôi làm, tôi nói không
xứng Sa-môn hạnh. V́ bị cuồng si, tôi không nhớ
đă làm như vậy". Này Ananda, phán quyết bất si
cần phải cho Tỷ-kheo ấy. Như vậy, này Ananda,
là pháp quyết bất si. Và như vậy, ở đây là
sự giải quyết một số tránh pháp, tức là
nhờ phán quyết bất si.
Và này Ananda, thế nào là quyết định tùy
theo thú nhận ? Ở đây, này Ananda, bị buộc
tội hay không bị buộc tội, Tỷ-kheo nhớ
một giới tội, tỏ lộ, tŕnh bày. Tỷ-kheo
ấy phải đến một Tỷ-kheo lớn tuổi
hơn, đắp y phía một bên vai, đảnh lễ
chân vị ấy, ngồi gối hai chân, chấp tay và nói
như sau : "Bạch Tôn giả, tôi có phạm giới
tội tên như thế này, nay xin sám hối".
Tỷ-kheo kia nói như sau: "Ông có thấy chăng ?"-
"Tôi có thấy" – "Ông có ǵn giữ trong
tương lai không ?" – "Tôi sẽ ǵn giữ".
Như vậy, này Ananda, là quyết định tùy theo thú
nhận, như vậy, ở đây là sự giải
quyết một số tránh sự tức là nhờ
quyết định tùy theo thú nhận.
Và này Ananda, thế nào là quyết định tùy
theo giới tội người phạm ? Ở đây, này
Ananda, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo về
một trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di,
hoặc gần Ba-la-di, nói rằng: "Tôn giả có nhớ
Tôn giả đă phạm trọng tội như thế này
không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di ?" Vị
ấy trả lời như sau: "Chư Hiền, tôi không
nhớ tôi đôi đă phạm trọng tội như
vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di".
Tỷ-kheo ấy bị (các Tỷ-kheo kia) dồn ép phải
tỏ lộ ra : "Tôn giả hăy biết cho rơ ràng,
nếu Tôn giả có nhớ có phạm trọng tội
như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di
?" Tỷ-kheo ấy trả lời như sau :
"Chư Hiền, tôi không có nhớ tôi có phạm trọng
tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di. Chư Hiền, tôi nhớ tôi có phạm khinh tội
như thế này". Tỷ-kheo ấy bị (các Tỷ-kheo
kia) dồn ép phải tỏ lộ: "Tôn giả hăy
biết cho rơ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm
trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di hoặc
gần Ba-la-di ?". Vị ấy trả lời như sau:
"Chư Hiền, dầu không ai hỏi tội, tôi sẽ
thú nhận có phạm khinh tội như thế này, làm sao
tôi có thể, khi có người hỏi tôi, lại không thú
nhận có phạm trọng tội như thế này,
hoặc Ba la di, hoặc gần Ba-la-di ?" Vị kia nói
như sau : "Này Hiền giả, dầu Ông có phạm
khinh tội này, nếu không hỏi, Ông sẽ không thú
nhận, làm sao khi đă phạm trọng tội như thế
này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nếu có
hỏi, Ông lại có thể thú nhận ? Tôn giả hăy
biết rơ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm trọng
tội như thế này không, hoặc Ba-la-di. hoặc
gần Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau :
"Chư Hiền, tôi nhớ, tôi có phạm trọng
tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di. Điều tôi đă nói như vậy, là nói chơi,
điều tôi đă nói như vậy là để
cười (rava ?) Tôi không có nhớ tôi đă phạm
trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc
gần Ba-la-di". Như vậy, này Ananda, là quyết định
tùy theo giới tội người phạm. Và như
vậy, ở đây là sự giải quyết một
số tránh tội, tức là nhờ quyết định
tùy theo giới tội người phạm.
Và này Ananda, thế nào là trải cỏ che lấp
? Ở đây, này Ananda, một số Tỷ-kheo sống
tranh chấp, tranh căi, tranh luận với nhau, có nhiều
việc đă làm, đă nói không xứng Sa-môn hạnh.
Tất cả các Tỷ-kheo ấy phải tập hợp
ḥa đồng với nhau. Sau khi tập hợp, một
Tỷ-kheo thông minh có kinh nghiệm hơn của một phe
nhóm Tỷ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đắp y về phía một bên vai, chắp tay, bạch
Tăng chúng, nói rằng: "Chư Tôn giả, Tăng chúng
hăy nghe tôi. Khi chúng tôi sống tranh chấp, tranh căi, tranh
luận với nhau, nhiều việc đă làm, đă nói
không xứng Sa-môn hạnh. Nếu Tăng chúng xem là phải
thời, tôi xin tỏ lộ bất cứ giới tội
nào của các Tôn giả này và bất cứ giới tội
nào của tôi. V́ lợi ích cho chư Tôn giả và cũng v́
lợi ích cho tự thân, tôi xin tỏ lộ giữa Tăng
chúng, như lấy cỏ trải ra, trừ các trọng
tội, trừ tội liện hệ đến cư
sĩ". Rồi một vị Tỷ-kheo thông minh kinh
nghiệm của nhóm Tỷ-kheo khác, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đắp y về phía một bên vai,
chấp tay bạch Tăng chúng, nói rằng : "Chư Tôn
giả, Tăng chúng hăy nghe tôi. Khi chúng tôi sống tranh
chấp, tranh căi, tranh luận với nhau... (như trên)...
trừ các tội liên hệ đến cư sĩ"
Như vậy, này Ananda, là trải cỏ che lấp, và
như vậy, ở đây là sự giải quyết
một số tránh pháp, tức là nhờ trải cỏ che
lấp.
Này Ananda, có sáu khả niệm pháp này, tác thành
khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn
tụ, không tranh luận, ḥa hợp, đồng nhất.
Thế nào là sáu ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo an trú
từ thân nghiệp, đối với các vị
đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và
chỗ vắng người. Khả niệm pháp này, tác thành
khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn
tụ, không tranh luận, ḥa hợp, đồng nhất. Và
lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo an trú từ khẩu
nghiệp... (như trên)... đồng nhất. Và lại
nữa, này Ananda, Tỷ-kheo an trú từ ư nghiệp
đối với các vị đồng Phạm hạnh,
chỗ đông người và chỗ vắng người.
Khả niệm pháp này tác thành khả ái, tác thành tôn kính,
đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, ḥa
hợp, đồng nhất". Và lại nữa, này
Ananda, với mọi sở đắc như pháp, mọi
lợi dưỡng đúng pháp cho đến những
thọ lănh trong b́nh bát, Tỷ-kheo là vị san sẻ các
lợi dưỡng như vậy, là vị thọ
hưởng chúng cùng với các vị đồng Phạm
hạnh có giới đức. Khả niệm pháp này
cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa
đến đoàn tụ, không tranh luận, ḥa hợp,
đồng nhất. Và lại nữa, này Ananda, đối
với mọi giới luật nào, không sứt mẻ, không
tỳ, không vết, không ô uế, giải thoát,
được người trí tán thán, không chấp thủ,
đưa đến Thiền định, Tỷ-kheo
sống thành tựu những giới luật như vậy
cùng với các vị đồng Phạm hạnh giữa chỗ
đông người và tại chỗ vắng người.
Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn
kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận,
ḥa hợp, đồng nhất. Và lại nữa, này Ananda,
đối với mọi tri kiến thánh thiện,
đưa đến xuất ly, dẫn đến sự
chơn chánh, đoạn diệt khổ đau cho những
ai thực hành theo, Tỷ-kheo sống thành tựu những
tri kiến như vậy cùng với các vị đồng
Phạm hạnh trước chỗ đông người và
tại chỗ vắng người. Khả niệm pháp này
cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa
đến đoàn tụ, không tranh luận, ḥa đồng,
đồng nhất.
Này Ananda sáu pháp khả niệm này tác thành khả
ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không
tranh luận, ḥa đồng, đồng nhất. Này Ananda,
nếu Ông thọ tŕ và thực hành sau pháp khả niệm
này, thời này Ananda, Ông thấy có những cách nói nào,
hoặc tế hoặc thô, khiến Ông không có thể kham
nhẫn ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Do vậy, này Ananda, hăy thọ tŕ và thực hành
sáu pháp khả niệm này, như vậy sẽ đưa
đến cho Ông an lạc và hạnh phúc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.