111. KINH BẤT ĐOẠN [^]
(Anupadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông
Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hiền trí;
này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Đại tuệ; này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ (Hasupanna); này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này
các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna);
này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ
(nibbedhikapanna). Này các Tỷ-kheo, cho đến nửa tháng,
Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo,
đây là do bất đoạn pháp quán của Sariputta.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ
Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm, có tứ. Và những pháp thuộc về
Thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ,
lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư;
các pháp ấy được an trú bất đoạn. Các
pháp ấy được Sariputta biết đến khi
chúng khởi lên, được Sariputta biết đến
khi an trú, được Sariputta biết đến khi
đoạn diệt. Sariputta biết rơ như sau :
"Như vậy các pháp ấy trước không có nơi
ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng
đoạn diệt". Sariputta đối với
những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không
chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có
hạn chế. Sariputta biết : "C̣n có sự giải
thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có
nhiều việc phải làm hơn nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta diệt
tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm. Và
những pháp thuộc về Thiền thứ hai như
nội tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh
tấn, niệm, xả, tác ư, những pháp ấy
được an trú bất đoạn. Các pháp ấy
được Sariputta biết đến khi chúng khởi
lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng
đoạn diệt. Sariputta biết rơ như sau :
"Như vậy các pháp ấy trước không có nơi
ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn
diệt". Sariputta đối với những pháp ấy,
không luyến ái, không chống đối, độc
lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy,
an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa.
Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải
làm hơn thế nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm
lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Và những
pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả,
lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh
tấn, xả, tác ư; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy
được Sariputta biết đến khi chúng khởi
lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng đoạn
diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không
luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú
với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "C̣n có
sự giải thoát hơn thế nữa. Đối
với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế
nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Và
những pháp thuộc về Thiền thứ tư, như
xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ
(passivedana ?), vô quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh
nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng,
tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm,
xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an
trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta
biết đến khi chúng khởi lên, được
Sariputta biết đến khi chúng an trú, được
Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.
Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói
buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm
không có hạn chế. Sariputta biết : "C̣n có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế
nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ
mọi chướng ngại tưởng, không tác ư
đối với dị tưởng, nghĩ rằng :
"Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên
xứ. Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ
như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và
xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng
giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp
ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các
pháp ấy được Sariputta biết đến khi
chúng khởi lên, được Sariputta biết đến
khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi
chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy, không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn
chế. Sariputta biết : "C̣n có sự giải thoát
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng :
"Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên
xứ. Và những pháp thuộc về Thức vô biên xứ
như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc,
thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải,
tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp ấy
được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp
ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi
chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn
chế. Sariputta biết : "C̣n có sự giải thoát
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng
: "Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu
xứ. Và những pháp thuộc về Vô sở hữu
xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt
tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng
giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp
ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các
pháp ấy được Sariputta biết đến khi
chúng khởi lên, được Sariputta biết đến
khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi
chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn
chế. Sariputta biết : "C̣n có sự giải thoát
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và
trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Với chánh
niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi
với chánh niệm xuất khỏi định ấy,
Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ,
bị đoạn diệt, bị biến hoại:
"Như vậy các pháp ấy trước không có nơi
ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng
đoạn diệt". Sariputta đối với những
pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn
chế. Sariputta biết : "C̣n có sự giải thoát
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ
tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ,
các lậu hoặc được đoạn tận.
Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định
ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi
định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc
về quá khứ, bị đoạn diệt, bị
biến hoại : "Như vậy các pháp ấy,
trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi
hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta
đối với các pháp ấy cảm thấy không
luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú
với tâm không hạn chế. Sariputta biết : "Không có
sự giải thoát nào vô thượng hơn thế
nữa. Đối với Sariputta, không có việc phải
làm nhiều hơn thế nữa".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn
chánh, một người có thể nói về người
ấy như sau : "Người này được
tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới,
được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh định, được tự tại,
được cứu cánh trong Thánh tuệ, được
tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải
thoát. Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người
ấy có thể nói như sau : "Sariputta được
tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới,
được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh định, được tự tại,
được cứu cánh trong Thánh tuệ, được
tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải
thoát".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn
chánh, một người có thể nói về người
ấy như sau : "Người này là con chánh tông của
Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa
thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật
chất". Nói một cách chơn chánh về Sariputta,
người ấy có thể nói như sau: "(Sariputta) là
con chánh tông của
Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn chánh chuyển
Pháp luân vô thượng đă được
112.
(Chabbisodhanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana,
tại tinh xá ông Anathapindika. Tại đấy,
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói lên
chánh trí (annam) như sau : "Ta tuệ tri như vầy:
"Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những
việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này
nữa"". Này các Tỷ-kheo, lời nói của vi
Tỷ-kheo ấy, không nên tán thán cũng không nên bác bỏ.
Không tán thán, không bác bỏ, cần hỏi câu hỏi :
"Này Hiền giả, có bốn h́nh thức tuyên bố này
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh nói lên.
Thế nào là bốn ? Cái ǵ được thấy
được nói lên như là được thấy. Cái
ǵ được nghe được nói lên là
được nghe. Cái ǵ được cảm giác
được nói lên như là cảm giác. Cái ǵ
được nhận thức được nói lên
như là được nhận thức. Bốn h́nh
thức tuyên bố này, Này Hiền giả, được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Nhưng
biết cái ǵ, thấy cái ǵ, đối với bốn h́nh
thức tuyên bố này, Tôn giả có thể nói là tâm của
Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không có chấp thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo, các lậu
hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn, những
việc phải làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt mục đích, đă
đoạn trừ hữu kiết sử, và đă
được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả
lời tùy pháp (anudhamma) của vị ấy phải như
sau: "Này chư Hiền, tôi không cảm thấy luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có
hạn chế, đối với những vật
được thấy... được nghe...
được cảm giác... được nhận
thức. Chư Hiền, v́ rằng tôi biết như
vậy, thấy như vậy, đối với bốn
h́nh thức tuyên bố này, tôi có thể nói tâm tôi được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
được tán thán, phải được tùy hỷ
với lời nói : "Lành thay ! Sau khi tán thán, tùy hỷ
với lời nói : "Lành thay, một câu hỏi nữa
cần phải được hỏi. : "Này Hiền
giả, năm thủ uẩn này được Thế Tôn,
bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác chân chánh nói lên. Thế nào là năm ? Tức
là sắc thủ uẩn, tưởng thủ uẩn,
thọ thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ
uẩn. Năm thủ uẩn này, này Hiền giả,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh nói lên.
Nhưng biết cái ǵ, thấy cái ǵ, đối với
năm thủ uẩn này, Tôn giả có thể nói tâm của
Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu
hoặc, không có chấp thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu
hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn, những
việc phải làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt mục đích, đă
đoạn trừ hữu kiết sử, và đă được
giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp
của vị ấy phải như sau : "Này chư
Hiền, sau khi biết sắc này là vô lực, biến
hoại, không an ổn, đối với những sắc
là những chấp thủ phương tiện (upayupadana),
là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên,
đối với những sắc ấy, với sự
đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt,
đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi
được giải thoát. Này chư Hiền, sau khi
biết thọ này... Này chư Hiền, sau khi biết
tưởng này.. Này chư Hiền, sau khi biết hành này..
Này chư Hiền, sau khi biết thức này là vô lực,
biến hoại, không an ổn, đối với thức
là những chấp thủ phương tiện, là những
tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên. Đối với
những thức ấy, với sự đoạn tận,
đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được
giải thoát. Chư Hiền, v́ rằng tôi biết như
vậy, thấy như vậy, đối với năm
thủ uẩn này, tôi có thể nói tâm tôi được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
được tán thán, phải được tùy hỷ
với lời nói : "Lành thay". Sau khi tán thán, tùy hỷ
với lời nói : "Lành thay", một câu hỏi
nữa cần phải được hỏi thêm : "Này
Hiền giả, sáu giới này được Thế Tôn,
bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu ?
Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong
giới, không giới, thực giới. Sáu giới này, này
Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
nói lên. Nhưng biết cái ǵ, thấy cái ǵ với sáu
giới này, Tôn giả có thể nói tâm của Tôn giả
được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu
hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn, những
việc phải làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt mục địch, đă
đoạn trừ hữu kiết sử, và đă
được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả
lời tùy pháp của vị ấy phải như sau :
"Chư Hiền, tôi đă đi đến địa
giới như là không phải tự ngă, và (đi
đến) tự ngă như là không tùy thuộc địa
giới. Đối với những pháp là những chấp
thủ phương tiện tùy thuộc địa
giới, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên;
đối với những pháp ấy, với sự đoạn
tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn
trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi
được giải thoát. Này chư Hiền, sau khi tôi
đă đi đến thủy giới.. Này chư Hiền,
sau khi tôi đă đi đến hỏa giới… Này chư
Hiền, sau khi tôi đă đi đến phong giới... Này
chư Hiền, sau khi tôi đă đi đến không
giới... Này chư Hiền, sau khi tôi đă đi
đến thức giới như là không phải tự ngă,
và (đi đến) tự ngă như là không tùy thuộc
thức giới. Đối với những pháp là những
chấp thủ phương tiện tùy thuộc thức
giới, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên;
đối với những pháp ấy, với sự
đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt,
đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi
được giải thoát. Chư Hiền, v́ rằng tôi
biết như vậy, thấy như vậy, đối
với sáu giới này, tôi có thể nói tâm tôi được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ".
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, cần phải
được tủy hỷ với lời nói : "Lành
thay". Sau khi tán thán tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải
được hỏi : "Này Hiền giả, sáu nội
ngoại xứ này được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu ? Mắt và sắc, tai và
tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và
xúc, ư và pháp. Sáu nội ngoại xứ này, này Hiền
giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên.
Nhưng biết cái ǵ, thấy cái ǵ, thấy cái ǵ
đối với sáu nội ngoại xứ này, Tôn giả
có thể nói tâm của Tôn giả được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu
hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn, những
việc phải làm đă làm, đă đặt gánh nặng
xuống, đă thành đạt mục đích, đă
đoạn trừ hữu kiết sử, và đă
được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả
lời tùy pháp của vị ấy phải như sau:
"Chư Hiền, đối với mắt, đối
với sắc, đối với nhăn thức, đối
với những pháp được nhận thức bởi
nhăn thức, phàm có dục ǵ, tham ǵ, hỷ ǵ, ái ǵ, phàm có
những pháp chấp thủ phương tiện, những
tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên. Đối với
những pháp ấy, với sự đoạn tận,
đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được
giải thoát. Chư Hiền, v́ rằng tôi biết như
vậy, thấy như vậy, đối với sáu
nội ngoại xứ này, tôi có thể nói tâm tôi được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ. Chư Hiền, đối với tai, đối
với tiếng, đối với nhĩ thức; chư
Hiền, đối với mũi, đối với
hương, đối với tỷ thức; chư
Hiền, đối với lưỡi, đối với
vị, đối với thiệt thức; chư Hiền,
đối với thân, đối với xúc, đối
với thân thức; chư Hiền, đối với ư,
đối với pháp, đối với ư thức,
đối với các pháp được nhận thức
bởi ư thức, phàm có dục ǵ, tham ǵ, hỷ ǵ, ái ǵ, phàm
có những chấp thủ phương tiện, những
tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với
những pháp ấy, với sự đoạn tận,
đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được
giải thoát. Chư Hiền, v́ rằng tôi biết như
vậy, thấy như vậy, đối với sáu
nội ngoại xứ này, tôi có thể nói tâm tôi
được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, cần phải
được tùy hỷ với lời nói : "Lành thay
!" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói : "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải
được hỏi thêm : "Nhưng này Hiền
giả, do biết ǵ, thấy ǵ, do đối với các
thân có nhận thức này và đối với tất
cả tướng ở ngoài, Tôn giả có thể nói
về mạn tùy miên : "Ta là người làm, sở
thuộc của ta là người làm", mạn tùy miên
của Tôn giả được đoạn trừ
một cách hoàn toàn".
Chư Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo các
lậu hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn,
những việc phải làm, đă làm, đă đặt gánh
xuống, đă thành đạt mục đích, đă
đoạn trừ hữu kiết sử, và đă
được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả
lời tùy pháp của vị ấy phải như sau:
"Chư Hiền, thuở xưa, khi tôi chưa xuất
gia, tôi c̣n ngu muội. Tôi được
"Chư Hiền, một thời gian sau, tôi
từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản
lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay
từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh. Khi đă xuất gia như
vậy, tôi thành tựu học giới và nếp sống các
vị Tỷ-kheo, tôi từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh,
bỏ trượng bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng
từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các
loại hữu t́nh. Tôi từ bỏ lấy của không cho,
tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những
vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho,
tự sống thanh tịnh không có trộm cướp. Tôi
từ bỏ phi Phạm hạnh, sống
"Và tôi đều thành tự Thánh giới
uẩn này, thành tựu Thánh hộ tŕ các căn
này và thành tựu Thánh chánh niệm
tỉnh giác này chọn một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây,
khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài
trời, đống rơm. Sau khi đi
khất thực về và ăn xong, tôi ngồi
kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói
trên và an trú chánh niệm trước
mặt. Tôi từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân
hận, tôi sống với tâm không sân
hận, ḷng từ mẫn thương xót
tất cả chúng hữu t́nh, gột rữa tâm
hết sân hân. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, tôi sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm
hết hôn trâm thụy miên. Trừ bỏ trạo cử
hối quá, tôi sống không trạo cử, hối quá,
nội tâm trầm
lặng, gột rửa tâm hết trạo
cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, tôi sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối
với thiện pháp.
"Tôi từ bỏ năm triền cái, các pháp làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ
muội lược này,
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục, sanh có tầm có
tứ. Tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Tôi ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú
Thiền thứ ba. Tôi xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử
dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Tôi biết như thật: "Đây là
khổ", biết như thật: "Đây
là nguyên nhân của khổ", biết như
thật: "Đây là khổ diệt", biết như thật : "Đây là con
đường đưa đến khổ diệt", biết như thật : "Đây là những
lậu hoặc",
biết như
thật : "Đây là nguyên nhân của lậu
hoặc", biết như thật : "Đây
là các lậu hoặc được đoạn
trừ", biết như thật : "Đây
là con đường đưa đến các lậu
hoặc được diệt trừ".
"Tôi nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của tôi thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với
tự thân đă giải thoát như vậy, tôi khởi lên sự hiểu biết : "Ta
đă giải thoát"". Tôi biết : "Sanh đă
tận, Phạm hạnh đă thành, việc cần làm đă làm; không c̣n trở lui
trạng thái này nữa".
"Chư Hiền do biết như
vậy, thấy như vậy, đối với các thân có nhận thức này và
đối với tất cả tướng ở ngoài, mạn tùy miên : "Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm", mạn tùy miên này được đoạn
trừ một cách hoàn toàn".
Này các Tỷ-kheo Tỷ-kheo ấy
cần phải được tán thán, cần phải được tùy hỷ với
lời nói : "Lành thay !" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói : "Lành thay" vị ấy cần phải nói như sau :
"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một vị
sống Phạm hạnh như Tôn giả".
113.
(Sappurisasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo, thế nào là phi
Chân nhân pháp ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân xuất gia từ
một gia đ́nh cao sang. Người ấy suy nghĩ
như sau : "Ta xuất gia từ một gia đ́nh cao
sang. C̣n các Tỷ-kheo, này
không xuất gia
từ một gia đ́nh cao sang". V́ người ấy
thuộc gia đ́nh cao sang nên khen ḿnh chê người. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau :
"Không phải v́ thuộc một gia đ́nh cao sang mà các
tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia, không phải từ một gia đ́nh cao sang, và người ấy hành tŕ đúng pháp và
thuận pháp, hành tŕ chơn chánh, hành tŕ thuận pháp, thời ở
đây, người ấy được
kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ (patipadam) làm chánh
yếu (antaram ?) không khen ḿnh chê người v́ tự ḿnh
thuộc vào gia đ́nh cao sang. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân xuất gia từ
một gia đ́nh.... (như trên).... xuất gia từ
một gia đ́nh đại phú.. (như trên)... xuất gia
từ một gia đ́nh quư phái. Người ấy suy
nghĩ như sau : "Ta xuất gia từ một gia
đ́nh quư phái, c̣n các Tỷ-kheo này không xuất gia
từ một gia đ́nh quư phái". V́ người ấy
thuộc gia đ́nh quư phái, nên khen ḿnh chê
người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân
nhân suy nghĩ như sau : "Không phải v́ thuộc
về một gia đ́nh quư phái mà các tham pháp đi
đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi
đến đoạn trừ, hay các si pháp đi
đến đoạn trừ. Nếu một người
xuất gia không phải từ một gia đ́nh quư phái và người
ấy hành tŕ đúng pháp và thuận pháp, hành tŕ chơn chánh, hành tŕ thuận
pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây,
người
ấy được tán thán". Người ấy
được sau khi lấy đạo lộ làm chính
yếu không khen ḿnh chê người v́ tự
ḿnh thuộc vào gia đ́nh quư phái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được nhiều
người biết,
có danh xưng.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta
được nhiều người biết, có danh xưng,
c̣n các Tỷ-kheo
này được ít người biết đến, không được trọng vọng". V́
người ấy tự ḿnh được nhiều
người biết đến nên khen ḿnh chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và
này các Tỷ-kheo, người
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được các
vật (cúng dường) như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
y liệu trị bệnh.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta nhận
được các vật (cúng dường) như y
phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa,
y liệu trị
bệnh, c̣n các Tỷ-kheo này không nhận
được y phục, các đồ
ăn khất thực,
sàng tọa, y liệu trị bệnh". V́ người
ấy thâu nhận được như vậy nên khen ḿnh
chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo là
phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân
nhân suy nghĩ như sau : "Không phải v́ tự ḿnh
nhận được các vật (cúng dường như)
y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa,
y liệu trị
bịnh mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia không nhận
được các vật (cúng dường như) y
phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa,
y liệu trị
bệnh và người ấy hành tŕ đúng
pháp và thuận pháp hành, tŕ chơn chánh, hành tŕ thuận pháp, thời ở
đây, người ấy được
kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán". Người ấy sau khi
lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen ḿnh chê người tự ḿnh
được thâu nhận như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo có người phi Chân nhân là người nghe
nhiều. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là
người nghe nhiều, c̣n các Tỷ-kheo
này không nghe nhiều". Người ấy do
được nghe nhiều nên khen ḿnh chê người.
Như vậy này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo,
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là bậc tŕ luật.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là bậc
tŕ luật, c̣n các Tỷ-kheo này không là bậc tŕ
luật". Do tự ḿnh tŕ luật, người ấy khen ḿnh chê người. Như
vậy, này các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và
này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau : "Không phải v́ tự ḿnh là bậc tŕ
luật mà các tham pháp đi đến đoạn trừ hay các sân pháp đi đến đoạn trừ hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu có người không phải là bậc tŕ luật, những người này hành tŕ đúng pháp và
thuận pháp, hành tŕ chơn chánh, hành tŕ thuận pháp, thời ở đây, người
ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh
yếu, không khen ḿnh chê người v́ tự
ḿnh là bậc tŕ luật. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người thuyết
pháp. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là
người thuyết pháp, c̣n các Tỷ-kheo
này không phải là người thuyết pháp". V́ tự
ḿnh là người thuyết pháp, nên người
ấy khen ḿnh chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân,
này các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Không phải do tự
ḿnh là bậc thuyết pháp mà các tham pháp đi đến
đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến
đoạn trừ, hay các si pháp đi đến
đoạn trừ. Nếu một người không
phải là người thuyết pháp, nhưng hành tŕ đúng
pháp, và thuận pháp, hành tŕ chơn chánh, hành tŕ thuận pháp, thời ở
đây người ấy được
kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán". Người ấy sau khi
lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen ḿnh chê người v́ tự ḿnh là bậc
thuyết pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
có người phi Chân nhân
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tâm có tứ. Người ấy
suy nghĩ như sau : "Ta là người chứng
được sơ Thiền, các người
Tỷ-kheo này không chứng được sơ
Thiền". Người ấy do tự ḿnh chứng
được sơ Thiền nên khen ḿnh chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như
sau : "Định sơ Thiền, tự tánh là vô tham
ái,
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân pháp diệt tầm và
tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm.. Thiền thứ ba..
chứng và trú thiền thứ tư. Người ấy suy
nghĩ như sau : "Ta chứng đắc định
Thiền thứ tư. C̣n các Tỷ-kheo này không chứng đắc định Thiền
thứ tư". Người ấy v́ chứng
đắc định Thiền thứ tư ấy nên khen ḿnh chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người
Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định Thiền
thứ tư, tánh là vô tham ái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên
mọi sắc tưởng, diệt trừ
mọi chướng ngại tưởng, không tác ư đối với dị tưởng, người ấy nghĩ rằng: "Hư
không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng
được định Không vô biên xứ, c̣n các Tỷ-kheo này không chứng được
định Không vô biên xứ". Người ấy, v́ chứng được định Không vô biên
xứ ấy, nên khen ḿnh chê người. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và
người Chân nhân,
này các Tỷ-kheo
suy nghĩ như sau : "Định Không vô biên, xứ tự tánh là vô tham ái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân, vượt lên
Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô
biên" chứng và trú Thức vô biên xứ.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng
được định Thức Vô biên xứ, c̣n các Tỷ-kheo này không chứng được
định Thức vô biên xứ". Người ấy v́
chứng được định Thức vô biên xứ
ấy nên khen ḿnh chê người. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như
sau : "Định Thức vô biên xứ tự tánh là vô tham ái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên một
cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng :
"Không có sở hữu" chứng và trú Vô
sở hữu xứ. Người ấy suy nghĩ như
sau : "Ta chứng được định Vô sở
hữu xứ c̣n, các Tỷ-kheo này không chứng
được định Vô sở hữu xứ". Người
ấy, v́ chứng được định Vô sở
hữu xứ ấy,
nên khen ḿnh chê
người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như
sau : "Định Vô sở hữu xứ tự tánh là vô tham ái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên Vô sở
hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Người ấy suy nghĩ như sau
: "Ta chứng được định Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, c̣n các Tỷ-kheo này không chứng được
định Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Người ấy v́ chứng được định
Phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy nên khen ḿnh
chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như
sau : "Định Phi tưởng phi phi tưởng
xứ tự tánh là vô tham ái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng
định sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này
được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không nghĩ ḿnh là bất cứ
vật ǵ, không nghĩ đến bất
cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất
cứ v́ sự việc ǵ.
114.
(Sevitabha-asevitabhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo, Ta nói thân hành có hai
loại: "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ; và
đây là sự tương đối giữa thân hành".
Này các Tỷ-kheo, Ta nói khẩu hành cũng có hai
loại: "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ; và
đây là sự tương đối giữa khẩu
hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói ư hành cũng
có hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và
đây là sự tương đối giữa ư hành".
Này các Tỷ-kheo, Ta nói tâm sanh cũng có hai loại:
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và đây là sự
tương đối giữa tâm sanh". Này các
Tỷ-kheo, Ta nói tưởng đắc cũng
có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và
đây là sự tương đối giữa tưởng
đắc". Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói cũng có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và đây là sự tương
đối giữa kiến đắc (ditthipatilabha)".
Ngă tánh đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói cũng có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và đây là sự tương
đối giữa ngă tánh đắc".
Được nghe nói vậy Tôn giả Sariputta bạch
–
Thân hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa thân hành".
Bạch Thế Tôn, thân hành ǵ khi hành
tŕ thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm ? Ở đây, bạch
Bạch Thế Tôn, thân hành ǵ khi hành
tŕ thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng ?
Ở đây,
bạch Thế
Tôn, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh,
bỏ
trượng, bỏ kiếm, biết tàm quư,
có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh phúc
tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh. Người ấy
từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy
của không cho; bất cứ tài vật ǵ của
người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người
ấy, người ấy không lấy
trộm tài vật ấy. Người ấy từ bỏ
sống tà hạnh trong các dục vọng, không giao cấu với các hạng nữ nhân có
mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che
chở, có bà con che chở, đă có chồng, được
h́nh phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được
trang sức bằng ṿng hoa. Thân hành như vậy, bạch
Thân hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa thân hành".
Khẩu hành,
này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ;
và như vậy là sự tương đối giữa
khẩu hành".
Bạch Thế Tôn, khẩu hành ǵ khi
hành tŕ thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiệp pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người
vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và
được hỏi : "Này Người kia, hăy nói những ǵ Ông biết". Dầu cho
người ấy không biết, người
ấy nói : "Tôi biết"; dầu cho người
ấy biết, người ấy nói : "Tôi không
biết" hay dầu cho người ấy
không thấy, người ấy nói : "Tôi
thấy" hay dầu cho người ấy
thấy, người ấy nói : "Tôi không
thấy". Như vậy lời nói của
người ấy trở thành cố ư vọng ngữ, hoặc v́ nguyên nhân tự kỷ, hoặc v́ nguyên nhân tha nhân, hoặc v́ nguyên
nhân một vài quyền lợi ǵ. Và người ấy là
người nói hai lưỡi, nghe điều ǵ
ở chỗ này, đến chỗ kia nói để
sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều ǵ ở chỗ kia, đi nói với những người này
để sanh chia rẽ ở những người kia.
Như vậy, người ấy ly gián những
kẻ ḥa hợp, hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá
hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá
hoại. Và người ấy là người nói lời thô
ác. Bất cứ lời ǵ thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như
vậy. Và người ấy nói những lời phù
phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những
lời phi luật, nói những lời không đáng ǵn
giữ. V́ nói phi thời nên lời nói không có thuận lư, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Khẩu hành như vậy, bạch
Bạch Thế Tôn, khẩu hành ǵ khi hành
tŕ thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng ? Ở
đây, bạch Thế Tôn, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ
tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và
được hỏi: "Này người kia, hăy nói những ǵ Ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết " nếu không biết, người ấy nói :
"Tôi không biết"
hay nếu không
thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy" nếu thấy, người ấy nói : "Tôi
thấy". Như vậy lời nói của
người ấy không trở thành cố ư vọng
ngữ, hoặc v́ nguyên nhân tự kỷ, hoặc v́ nguyên nhân tha nhân, hoặc v́ nguyên
nhân một vài quyền lợi ǵ. Từ bỏ nói hai
lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều ǵ ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia
rẽ ở những người này, nghe điều ǵ ở chỗ kia không đi nói với những người này
để sanh chia rẽ ở những người kia;
như vậy, người ấy sống ḥa
hợp những kẻ ly gián, tăng
trưởng những kẻ ḥa hợp, ưa thích ḥa hợp, vui thích ḥa hợp, thích thú ḥa hợp, nói những
lời đưa đến ḥa hợp. Từ bỏ
lời nói độc ác,
tránh xa lời nói
độc ác; như vậy người ấy nói những
lời nói nhu ḥa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm
đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng
nhiều người,
vui ḷng nhiều
người. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; người ấy
nói đúng thời, nói những lời chơn thật, nói những lời có ư nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được ǵn
giữ. V́ nói hợp thời, nên lời nói
thuận lư, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Khẩu hành như vậy, bạch
Khẩu hành,
này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa khẩu hành".
Ư hành, này các Tỷ-kheo, Tôi nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa khẩu hành".
Ư hành ǵ, bạch
Ư hành ǵ, bạch
Ư hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ và như vậy là sự
tương đối giữa ư hành".
Tâm sanh, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Tâm sanh ǵ, bạch
Tâm sanh, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai
loại : "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ; và
như vậy là sự tương đối giữa tâm
sanh".
Tưởng đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Tưởng đắc ǵ, bạch
Tưởng đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ; và như vậy là sự tương đối
giữa tưởng đắc".
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai
loại : "Nên hành tŕ và không nên hành tŕ; và như vậy là
sự tương đối giữa kiến
đắc".
Ở đây, bạch Thế Tôn, có người có
(chánh) kiến như sau : "Có bố thí, có lễ hy sinh,
có tế tự, có quả dị thục các nghiệp
thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có
cha, có các loại hóa sanh, ở đời có những vị
Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đă tự
ḿnh với thượng trí chứng tri, chứng
đắc và an trú đời này, đời khác và
truyền dạy lại". Kiến đắc như
vậy, bạch
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là
sự sai trái về kiến đắc".
Ngă tánh đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng
có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như
vậy là sự tương đối giữa ngă tánh".
Ngă tánh đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là
sự sai khác về ngă tánh đắc".
Lành thay, lành thay, này Sariputta ! Lành thay, này Sariputta !
Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn
tắt, không giải nghĩa rộng răi, Ông đă hiểu ư
nghĩa một cách rộng răi như vậy.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa thân hành". Ta đă nói
như vậy và do duyên ǵ, lời nói ấy được
nói lên ? Thân hành nào, này Sariputtta, khi hành tŕ thời bất
thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối
giảm, thân hành như vậy không nên hành tŕ. Và thân hành nào,
này Sariputtta, khi hành tŕ thời bất thiện pháp thối
giảm, thiệp pháp tăng trưởng, thân hành như
vậy nên hành tŕ.
Thân hành ǵ, này Sariputta, khi hành tŕ bất thiện pháp
tăng trưởng, thiện pháp thối giảm ? Ở
đây, này Sariputta, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay
lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm
không từ bi đối với các loại hữu t́nh.
Người này lấy của không cho; bất cứ tài
vật ǵ của người khác, hoặc tại thôn làng
hoặc tại rừng núi không cho người ấy,
người ấy lấy trộm tài vật ấy.
Người ấy sống tà hạnh trong các dục
vọng, giao cấu các hạng nữ nhân có mẹ che
chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che
chở, có bà con che chở, đă có chồng,
được h́nh phạt gậy gộc bảo vệ,
cho đến những nữ nhân được trang
sức bằng ṿng hoa. Thân hành như vậy, này Sariputta, khi
hành tŕ thời các bất thiện pháp tăng trưởng,
các thiện pháp thối giảm.
Thân hành ǵ, này Sariputta, khi hành tŕ thời các bất
thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng ? Ở đây, này Sariputtta, có người
từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài
hữu t́nh. Người ấy từ bỏ lấy của
không cho, tránh xa lấy của không cho; bất cứ tài
vật ǵ của người khác, hoặc tại thôn làng,
hoặc tại rừng núi không cho người ấy,
người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
Người ấy từ bỏ sống theo tà hạnh trong
các dục vọng, không giao cấu với các hạng
nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che
chở, có chị che chở, có bà con che chở, đă có
chồng, được h́nh phạt gậy gộc bảo
vệ, cho đến những nữ nhân được
trang sức bằng ṿng hoa. Thân hành như vậy, này
Sariputta, khi hành tŕ thời các bất thiện pháp thối
giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa thân hành". Ta đă nói
như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên.
Khẩu hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự
tương đối giữa khẩu hành". Ta đă nói
như vậy. Và do duyên ǵ lời nói ấy được
nói lên ? Này Sariputta, khẩu hành nào khi hành tŕ thời các
bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp
thối giảm, khẩu hành như vậy không nên hành tŕ.
Và khẩu hành nào, này Sariputta, khi hành tŕ, các bất thiện
pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
khẩu hành như vậy nên hành tŕ.
Khẩu hành ǵ, này Sariputta, khi hành tŕ thời các
bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp
thối giảm ? Ở đây, này Sariputta, có người
vọng ngữ đến chỗ tập hội... (như
trên)... (những thay đổi cần thiết cho
đến đoạn ngă tánh đắc... ) "Ngă tánh
đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : "Nên
hành tŕ, không nên hành tŕ; và như vậy là sự tương
đối giữa ngă tánh đắc", Ta đă nói
như vậy, và do duyên như vậy lời nói ấy
được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được Ta nói
một cách vắn tắt, cần phải hiểu một
cách rộng răi như vậy.
Sắc do mắt nhận thức, này Sariputta, Ta
nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Tiếng do tai nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Hương do
mũi nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ không nên hành tŕ". Vị do lưỡi
nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành
tŕ, không nên hành tŕ". Xúc do thân nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Pháp do ư nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta
bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa rộng răi, con được hiểu ư nghĩa
một cách rộng răi như sau :
"Sắc do mắt nhận thức, này Sariputta,
Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Thế Tôn đă nói như vậy. Và do duyên ǵ lời nói
ấy được nói lên ? Sắc nào do mắt nhận
thức bạch Thế Tôn, khi hành tŕ thời các bất
thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối
giảm, sắc do mắt nhận thức như vậy
không nên hành tŕ. Sắc nào do mắt nhận thức,
bạch Thế Tôn khi hành tŕ thời các bất thiện pháp
thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
sắc ấy do mắt nhận thức như vậy nên
hành tŕ. "Sắc do mắt nhận thức, này Sariputta, Ta
nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế
Tôn đă nói như vậy và do duyên như vậy lời nói
ấy được nói lên.
"Tiếng do tai nhận thức, này Sariputta, Ta
nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế
Tôn đă nói như vậy. Và do duyên ǵ lời nói ấy
được nói lên ? Tiếng nào do tai nhận thức
bạch Thế Tôn, khi hành tŕ thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm,
tiếng do tai nhận thức như vậy không nên hành tŕ.
Tiếng nào do tai nhận thức, bạch Thế Tôn, khi
hành tŕ thời các bất thiện pháp thối giảm, các
thiện pháp tăng trưởng, tiếng do tai nhận
thức như vậy nên hành tŕ. "Tiếng do tai nhận
thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không
nên hành tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy và do duyên như
vậy lời nói ấy được nói lên.
"Hương do mũi nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy. Và do duyên ǵ
lời nói ấy được nói lên ? Hương nào do
mũi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ
thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các
thiện pháp thối giảm, hương do mũi nhận
thức như vậy không nên hành tŕ. Hương nào do
mũi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ, các
bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp
tăng trưởng, hương do mũi nhận thức
như vậy nên hành tŕ : "Hương do mũi nhận
thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không
nên hành tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy và do duyên
như vậy lời nói ấy được nói lên.
"Vị do lưỡi nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy. Và do duyên ǵ
lời nói ấy được nói lên. Vị nào do
lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ
thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các
thiện pháp thối giảm, vị do lưỡi nhận
thức như vậy không nên hành tŕ. Vị nào do
lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ
thời các bất thiện pháp thối giảm, các
thiện pháp tăng trưởng, vị do lưỡi
nhận thức như vậy nên hành tŕ. "Vị do
lưỡi nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại
: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế Tôn đă nói
như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy
được nói lên.
"Xúc do thân nhận thức, này Sariputta, Ta nói có
hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế Tôn
đă nói như vậy. Và do duyên ǵ lời nói ấy
được nói lên ? Xúc nào do thân nhận thức,
bạch Thế Tôn, khi hành tŕ thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm,
xúc do thân nhận thức như vậy không nên hành tŕ. Xúc
nào do thân nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ
thời các bất thiện pháp thối giảm, các
thiện pháp tăng trưởng, xúc do thân nhận thức
như vậy nên hành tŕ. "Xúc do thân nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy và do duyên như
vậy lời nói ấy được nói lên.
"Pháp do ư nhận thức, này Sariputta, Ta nói có
hai loại: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế Tôn
đă nói như vậy. Và do duyên ǵ lời nói ấy
được nói lên ? Pháp nào do ư nhận thức, bạch
Thế Tôn, khi hành tŕ thời các bất thiện pháp tăng
trưởng, các thiện pháp thối giảm, pháp do ư
nhận thức như vậy không nên hành tŕ. Pháp nào do ư
nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ thời các
bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp
tăng trưởng, pháp do ư nhận thức như vậy
nên hành tŕ. Pháp do ư nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thế Tôn đă
nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy
được nói lên.
Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa rộng răi, con được hiểu ư nghĩa
một cách rộng răi như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Sariputta ! Lành thay, này Sariputta !
Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn
tắt, không giải nghĩa rộng răi, Ông đă hiểu ư
nghĩa một cách rộng răi như vậy.
Sắc do mắt nhận thức, này Sariputta, Ta
nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Lời
nói như vậy được Ta nói lên. Và do duyên ǵ,
lời nói ấy được nói lên ?... (như trên)...
Pháp do ư nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Lời nói như vậy
được Ta nói lên và do duyên như vậy, lời nói
ấy được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được Ta nói lên
một cách vắn tắt, ư nghĩa lời nói ấy
được hiểu một cách rộng răi như
vậy.
Ư, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ". Đồ ăn khất thực, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên
hành tŕ, không nên hành tŕ". Làng, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Thị
trấn, này Sariputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành tŕ, không
nên hành tŕ". Đô thị, này Sariputta, Ta nói có hai loại
: "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ", Quốc độ, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành
tŕ". Người (Puggala, ), này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa một cách rộng răi, con được hiểu ư
nghĩa một cách rộng răi như sau :
"Ư, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành
tŕ, không nên hành tŕ". Thế Tôn đă nói như vậy. Và
do duyên ǵ, lời nói ấy được nói lên ? Ư nào, bạch
Thế Tôn, khi hành tŕ, các bất thiện pháp tăng
trưởng, các thiện pháp thối giảm, ư như
vậy không nên hành tŕ. Ư nào, bạch Thế Tôn, khi hành tŕ
thời các bất thiện pháp thối giảm, các
thiện pháp tăng trưởng, ư như vậy nên hành
tŕ. "Ư, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ". Thế Tôn đă nói lên như vậy. Và
do duyên như vậy, lời nói ấy được nói
lên.
"Món ăn khất thực, này Sariputta, Ta nói có
hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên".
"Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói có hai loại...
do duyên như vậy, lời nói ấy được nói
lên".
"Làng, này Sariputta, Ta nói có hai loại... do duyên
như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Thị trấn, này Sariputta, Ta nói có hai
loại... do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên".
"Đô thị, này Sariputta, Ta nói có hai
loại... do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên".
"Quốc độ, này Sariputta, Ta nói có hai
loại... do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên".
"Người, này Sariputta, Ta nói có hai loại...
do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải
thích rộng răi, con đă hiểu một cách rộng răi
như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Sariputta ! Lành thay, này Sariputta !
Lời nói này được Ta nói lên vắn tắt, không
giải thích rộng răi, Ông đă hiểu một cách
rộng răi như vậy.
Y, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành tŕ,
không nên hành tŕ". Ta đă nói lên như vậy. Và do duyên
ǵ, lời nói ấy được nói lên ? Y nào, này Sariputta,
khi hành tŕ thời các bất thiện pháp tăng trưởng...
Do duyên như vậy, lời nói ấy được nói
lên.
Đồ ăn khất thực, này Sariputta, Ta nói
có hai loại : "Nên hành tŕ, không nên hành tŕ". Ta đă
nói như vậy. Và do duyên ǵ, lời nói ấy
được nói lên ?... Do duyên như vậy, lời nói
ấy được nói lên.
Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói có hai loại :
"Nên hành tŕ, không nên hành tŕ"... (như trên)... Sàng
tọa như vậy không nên hành tŕ. Sàng tọa như
vậy nên hành tŕ.... (như trên)... Làng như vậy không nên
hành tŕ ... (như trên) ... Làng như vậy nên hành tŕ... (như
trên).. Thị trấn như vậy không nên hành tŕ... (như
trên)... Thị trấn như vậy nên hành tŕ.... (như
trên).... Đô thị như vậy không nên hành tŕ... (như
trên)... Đô thị như vậy nên hành tŕ... (như
trên)... Quốc độ như vậy không nên hành tŕ ...
(như trên) ... Quốc độ như vậy nên hành tŕ
... (như trên) ... Người, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành tŕ và không nên hành tŕ". Ta đă nói
như vậy. Và do duyên ǵ, lời nói ấy được
nói lên ? Người, này Sariputta... Do duyên như vậy,
lời nói ấy được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được Ta nói
vắn tắt, ư nghĩa (lời nói ấy) cần
được hiểu một cách rộng răi như
vậy.
Này Sariputta, nếu tất cả những vị
Sát đế lỵ, đối với lời nói này
được Ta nói vắn tắt, có thể hiểu ư
nghĩa lời nói ấy một cách rộng răi như
vậy, tất cả những vị ấy sẽ
được hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Này Sariputta, nếu tất cả những vị Bà-la-môn ..
nếu tất cả những vị Vessa... Này Sariputta,
nếu tất cả những vị Thủ đà (Sudda),
đối với lời nói này được Ta nói
vắn tắt, có thể hiểu ư nghĩa lời nói
ấy một cách rộng răi như vậy, tất cả
những vị ấy sẽ được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Sariputta hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn
dạy.