Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
115. KINH ĐA GIỚI [^]
(Bahudhàtukasuttam)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn
trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại
tịnh xá ông Anathapindika (
– Phàm có những sợ hăi ǵ sanh khởi, này các
Tỷ-kheo, tất cả những sợ hăi ấy sanh
khởi cho người ngu, không phải cho người
hiền trí (pandita). Phàm có những thất vọng ǵ sanh
khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng
ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho
người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn ǵ
sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn
ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho
người hiền trí. Ví như, này các Tỷ-kheo, tia
lửa từ ngôi nhà bằng cỏ, thiêu cháy ngôi nhà có
lầu gác được trét trong trét ngoài, được
che chở khỏi gió, có chốt khóa gài kỹ, có cửa
sổ đóng kỹ; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm
có những xợ hăi ǵ sanh khởi, này các Tỷ-kheo,
tất cả những sợ hăi ấy sanh khởi cho
người ngu, không phải cho người hiền trí;
phàm có những thất vọng ǵ sanh khởi, này các
Tỷ-kheo, tất cả những thất vọng ấy
sanh khởi cho người ngu, không phải cho người
hiền trí; phàm có những hoạn nạn ǵ sanh khởi,
này các Tỷ-kheo, tất cả những hoạn nạn
ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho
người hiền trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
kẻ ngu đầy những sợ hăi, người
hiền trí không có sợ hăi. Kẻ ngu đầy những
thất vộng, người hiền trí không có thất
vọng. Kẻ ngu đầ những hoạn nạn,
người hiền trí không có hoạn nạn. Này các
Tỷ-kheo, không có sợ hăi cho người hiền trí, không
có thất vọng cho người hiền trí, không có
hoạn nạn cho người hiền trí. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, "Chúng tôi sẽ thành người hiền trí,
biết suy tư t́m hiểu", như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch
– Đến mức độ nào, bạch
– Cho đến khi, này Ananda, Tỷ-kheo thiện
xảo về giới, thiện xảo về xứ,
thiện xảo về duyên khởi và thiện xảo
về xứ phi xứ đến mức độ như
vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói :
"Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư
t́m hiểu".
– Đến mức độ nào, bạch
– Này Ananda, có mười tám giới này : nhăn
giới, sắc giới, nhăn thức giới; nhĩ
giới, thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ
giới, hương giới, tỷ thức giới;
thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới;
thân giới, xúc giới, thân thức giới; ư giới, pháp
giới, ư thức giới.
– Nhưng bạch
– Có thể có, này Ananda. Này Ananda có sáu giới này:
địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa
giới, không giới, thức giới.
– Nhưng bạch
– Có thể có, này Ananda.
– Nhưng bạch
– Có thể có, này Ananda.
– Nhưng bạch
– Có thể có, này Ananda.
– Nhưng bạch
– Có thể có, này Ananda.
– Nhưng bạch
–
– Nhưng bạch
– Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo biết như
sau : Nếu cái này có, cái kia có; do cái này sanh, cái kia sanh.
Nếu cái này không có, cái kia không có; do cái này diệt, cái kia
diệt. Tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục
nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên
thủ, thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; do duyên sanh lăo
tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo sanh khởi. Như
vậy, này Ananda, là sự tập khởi của toàn bộ
khổ uẩn này. Nhưng do sự diệt trừ, sự
ly tham hoàn toàn của chính vô minh này, các hành diệt; do các hành
diệt, danh sắc diệt; do danh sắc diệt, lục
nhập diệt; do lục nhập diệt, xúc diệt; do
xúc diệt, thọ diệt; do thọ diệt, ái diệt;
do ái diệt, thủ diệt, do thủ diệt, hữu
diệt; do hữu diệt, sanh diệt, do sanh diệt, lăo
tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo đoạn diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt hoàn toàn của
khổ uẩn này. Cho đến như vậy, này Ananda, là
vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện
xảo về duyên khởi".
– Nhưng cho đến mức độ nào,
bạch
– Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo biết rơ
rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có
hiện hữu : khi một người thành tựu (chánh)
kiến lại đi đến các hành (samkhara) và xem là
thường c̣n. Sự kiện như vậy không xảy
ra". Và vị ấy biết rằng : "Sự
kiện này có xảy ra, có hiện hữu : Khi một
người phàm phu đi đến các hành và xem là
thường c̣n. Sự hiện như vậy có xảy
ra". Vị ấy biết rơ rằng : "Sự
kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi
một người thành tựu (chánh) kiến, lại có
thể đi đến các hành với ư niệm lạc
thọ. Sự kiện như vậy không có xảy ra".
Và vị ấy biết rơ rằng: "Sự kiện này có
xảy ra, có hiện hữu: Khi một người phàm phu
đi đến các hành với ư niệm lạc thọ.
Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy
biết rằng : "Sự kiện này không có xảy ra,
không có hiện hữu : Khi một người nào thành
tựu (chánh) kiến, lại có thể đi đến các
pháp với ư niệm tự ngă. Sự kiện như
vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết
rằng : "Sự kiện này có xảy ra, có hiện
hữu : Khi một người phàm phu đi đến các
pháp với ư niệm tự ngă. Sự kiện như
vậy có xảy ra". Vị ấy biết rơ rằng :
"Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện
hữu: khi một người thành tựu (chánh) kiến,
có thể giết sinh mạng người mẹ. Sự
kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy
biết rơ rằng : "Sự kiện này có xảy ra : Khi
một người phàm phu có thể giết sinh mạng
người mẹ. Sự kiện như vậy có xảy
ra". Vị ấy biết rơ rằng : "Sự
kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi
một người thành tựu (chánh) kiến, có thể
giết sinh mạng người cha... (như trên)... có
thể giết sinh mạng A-la-hán.. (như trên) ... Vị
ấy biết rơ rằng : "Sự kiện này không có
xảy ra, không có hiện hữu: Khi một người
thành tựu (chánh) kiến có thể với ác tâm làm
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch
– Thật vi diệu thay, bạch
– Do vậy, này Ananda, Ông hăy thọ tŕ pháp môn này là
Đa giới, hăy thọ tŕ pháp môn nầy là Bốn chuyển
(Dhammadasa) hăy thọ tŕ pháp môn này là Pháp kinh (Dhammdasa), hăy
thọ tŕ pháp môn này là Trống bất tử, hăy thọ tŕ
pháp môn này là Vô thượng chiến thắng.
116. KINH THÔN TIÊN [^]
(Isigilisutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Rajagaha
(Vương Xá), trên núi Isigili. Ở đấy Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo" –
"Bạch Thế Tôn".
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vebhara
(Phụ Trọng) này không ?.
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh
xưng khác cho núi Vebhara này, một tên gọi khác. Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Pandava (Bạch Thiện) này
không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh
xưng khác cho núi Pandava này, một tên gọi khác. Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vepulla (Quảng Phổ) này
không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh
xưng khác cho núi Vepulla này, một tên gọi khác. Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Gijjhakuta (
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh
xưng khác cho núi Gijjhakuta này, một tên gọi khác. Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Isigili này không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh
xưng của núi Isigili, một tên gọi khác.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm trăm
vị Độc Giác Phật sống trong một thời
gian khá dài, trong núi Isigili này. Những vị ấy
được thấy đi vào trong ngọn núi này
(nhưng) khi đi vào rồi thời không được
thấy nữa. Quần chúng thấy vậy nói như sau :
"Ngọn núi này nuốt những ẩn sĩ ấy (
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn
– Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp
– Arittha (A-lợi-sá), này các Tỷ-kheo, là tên vị
Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này.
Uparittha (Bà-lợi-sá) này các Tỷ-kheo, là tên vị
Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này
Tagarasikhi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác
Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này. Yasassi, này các
Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đă trú lâu
ngày trong núi Isigili này. Sudassana (Thiện Kiến), này các
Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đă trú lâu
ngày trong núi Isigili này. Piyadassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị
Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này.
Gandhara, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật
đă trú lâu ngày trong núi Isigili này. Pindola, này các Tỷ-kheo, là
tên vị Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi
Isigili này. Upasabha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc
Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này. Nitha, này các
Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đă trú lâu
ngày trong núi Isigili này. Tatha, này các Tỷ-kheo, là tên vị
Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi Isigili này.
Sutava, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật
đă trú lâu ngày trong núi Isigili này. Bhavitatta, này các Tỷ-kheo
là tên vị Độc Giác Phật đă trú lâu ngày trong núi
Isigili này.
Chư hữu t́nh
tinh hoa,
Không khổ, không
tham ái,
Riêng tự ḿnh
chứng đắc,
Chánh Đẳng
Giác (vô thượng)
Chư vị
thượng thắng nhân,
Vượt ngoài
mũi tên bắn,
Hăy lóng tai nghe
kỹ,
Ta sẽ
xướng danh hiệu:
Arittha, Uparittha,
Tagarasikhi, Yasassi
Sudassan, Phật
Piyadassi
Gandhara, Pindola,
Upasabha, Nitha, Tatha,
Sutava, Bhavitatta.
Sumbha, Subha, Methula,
Atthama, Athassumegha,
Anigha, Sudatha
Chư vị
Độc Giác Phật,
Đoạn
trừ nguồn tái sanh.
Hingu và Hinga
Chư vị
Đại Uy lực,
Hai ẩn sĩ
Jali
Rồi đến
Atthaka,
Đức
Phật Kosala,
Tiếp
đến Subahu.
Ngài Upanemi, cả
Ngài Nemi này,
Ngài Santacitta, các
Ngài bậc Chân thực,
Sống như
chân, ly trần,
Cũng là bậc
Hiền triết.
Kala, Upakala, Vijita,
Jita
Anga, Panga và Gutijjita
Passi bỏ
chấp thủ
Căn rễ
của khổ đau.
Aparajita, đánh
bại ma quân lực,
Satthà, Pavatta,
Sarabhanga, Lomahansa,
Uccangamaya, Asita,
Anasava,
Manomaya đoạn
trừ được nạn,
Và Bandhuma,
Tadadhimutta vô
cấu uế,
Và Ketuma.
Ketumbaraga và Matanga
Ariya,
Accuta, Accutagama,
Byamaka,
Sumangala, Dabbila,
Supatitthita
Asayha, Khemabhirata và
Sorata,
Durannaya, Sangha,
rồi đến Ujjaya,
Rồi đến
ẩn sĩ Sayha,
Với can
đảm phi thường
Ananda, Nanda, Upananda,
Tất cả là
mười hai.
Bharadvaja thọ tŕ
thân cuối cùng,
Bodhi, Mahanama,
kể cả Bharadvaja
Thượng
thắng, có chóp tóc và đẹp trai,
Tissa, Upatissa,
Upasidari
Đă đoạn
hữu kiết sữ,
Và Sidari, đă
đoạn trừ tham ái.
Đức
Phật tên Mangala,
Với tham
được đoạn trừ,
Usabha đă cắt
lưới khổ căn.
Upanita, vị
chứng an tịnh đạo,
Uposatha, Sundara,
Saccanama,
Jeta, Jayanta, Paduma,
Uppala và
Padumuttara,
Rakkhita và Pabbata,
Manatthaddha, Sobhita,
Vitaraga,
Và Đức
Phật Kanha
Với tâm
được giải thoát.
Những vị
này, vị khác
Là những bậc
Độc Giác,
Những bậc
Đại Uy Lực,
Đă đoạn
nguồn tái sanh.
Hăy đảnh
lễ chư vị,
Đại Ẩn
sĩ vô lượng,
Đă thắng
mọi chiến trận,
Đă đạt
bát Niết-bàn.
117. ĐẠI KINH BỐN
MƯƠI [^]
(Mahacattarisakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh chánh
định với các cận duyên và các tư trợ ? Chính
là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các
Tỷ-kheo, phàm có nhất tâm nào (ekaggata) được
tư trợ với bảy chi phần này, này các
Tỷ-kheo, như vậy gọi là Thánh chánh định cùng
với các cận duyên và các tư trợ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào là, các Tỷ-kheo, chánh
kiến đi hàng đầu ? Tuệ tri tà kiến là tà
kiến, tuệ tri chánh kiến là chánh kiến. Như
vậy là chánh kiến của vị ấy. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là tà kiến ? Không có bố thí, không có
cúng dường, không có tế tự, không có quả báo các
nghiệp thiện ác, không có đời này, không có
đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại
hóa sanh; ở đời không có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh
hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí
tự ḿnh chứng đạt lại tuyên bố lên. Như
vậy, này các Tỷ-kheo là tà kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến ?
Chánh kiến này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại. Này các
Tỷ-kheo, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc
phước báo, đưa đến quả sanh y
(upadhivepakka); có loại chánh kiến, này các Tỷ-kheo,
thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi (magganga).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến
hữu lậu, thuộc phước báo, đưa
đến quả sanh y ? Có bố thí, có cúng dường, có
tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có
đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các
loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng
trí tự ḿnh chứng đạt đời này và
đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này các
Tỷ-kheo là chánh kiến hữu lậu, thuộc
phước báo, đưa đến quả sanh y.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến
thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi ? Phàm cái ǵ, này các Tỷ-kheo, thuộc trí
tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi,
chánh kiến, đạo chi của một vị tu tập
Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô
lậu tâm, có Thánh tâm. Chánh kiến như vậy, này các
Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế,
thuộc đạo chi.
Ai tinh tấn đoạn trừ tà kiến, thành
tựu chánh kiến; như vậy là chánh tinh tấn
của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà
kiến, chánh niệm đạt được và an trú
chánh kiến; như vậy là chánh niệm của vị ấy.
Như vậy ba pháp này chạy
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh
kiến đi hàng đầu ? Tuệ tri tà tư duy là tà
tư duy, tuệ tri chánh tư duy là chánh tư duy, như
vậy là chánh kiến của các vị ấy. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là tà tư duy ? Dục tư duy, sân
tư duy, hại tư duy, này các Tỷ-kheo, như vậy
là tà tư duy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy
? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : có
loại chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, hữu lậu,
thuộc phước báo, đưa đến quả sanh
y; có loại chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, thuộc
bậc Thánh vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y ? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất
hại tư duy, như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh
tư duy, hữu lậu, thuộc phước báo,
đưa đến quả sanh y. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là chánh tư duy, thuộc bậc Thánh, vô lậu,
siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm cái ǵ này các
Tỷ-kheo thuộc suy tư, tầm cầu, tư duy,
một ngữ hành do sự hoàn toàn chú tâm chuyên tâm của
một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong
Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm; chánh tư duy
như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô
lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Ai tinh tấn
đoạn trừ tà tư duy, thành tựu chánh tư duy,
như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai
chánh niệm đoạn trừ tà tư duy, chánh đạt
được và an trú chánh tư duy, như vậy là chánh
niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này
chạy
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo chánh
kiến đi hàng đầu ? Tuệ tri tà ngữ là tà
ngữ, tuệ tri chánh ngữ là chánh ngữ; như vậy
là chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là tà ngữ ? Vọng ngữ, nói hai lưỡi,
ác khẩu, nói lời phù phiếm; như vậy, này các
Tỷ-kheo, là tà ngữ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh ngữ ? Chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai
loại : có loại chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y; có loại chánh ngữ, này các Tỷ-kheo,
thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ,
hữu lậu, thuộc phước báo, đưa
đến quả sanh y ? Viễn ly vọng ngữ,
viễn ly nói hai lưỡi, viễn ly ác khẩu, viễn
ly phù phiếm ngữ; như vậy, này các Tỷ-kheo, là
chánh ngữ, hữu lậu thuộc phước báo,
đưa đến quả sanh y. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là chánh ngữ thuộc bậc Thánh, vô lậu,
siêu thế, thuộc đạo chi ? Cái ǵ, này các Tỷ-kheo,
thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ
khước, viễn ly bốn ngữ ác hành, đối
với một vị tu tập Thánh đạo, thuần
thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Hiền Thánh
tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh ngữ, thuộc
bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.
Ai tinh tấn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh
ngữ; như vậy là chánh tinh tấn của vị
ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà ngữ, chánh niệm
đạt được và an trú chánh ngữ; như
vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy,
ba pháp này chay
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh
kiến đi hàng đầu ? Biết được tà
nghiệp là tà nghiệp, biết được chánh
nghiệp là chánh nghiệp; như vậy là chánh kiến
của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà
nghiệp ? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các
dục; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà nghiệp. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp ? Chánh
nghiệp, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : Có loại
chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc
phước báo, đưa đến quả sanh y; có
loại chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc
Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp thuộc hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y ? Viễn ly sát sanh, viễn ly lấy của
không cho, viễn ly tà hạnh trong các dục; như vậy,
này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp, thuộc hữu lậu, thuộc
phước báo, đưa đến quả sanh y. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp, thuộc bậc
Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Cái ǵ,
này các Tỷ-kheo, thuộc về từ bỏ, từ
đoạn, từ khước, viễn ly ba thân ác hành
đối với một vị tu tập Thánh đạo,
thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Hiền
Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp,
thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi. Ai tinh tấn đoạn trừ tà
nghiệp, thành tựu chánh nghiệp; như vậy là chánh
tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn
trừ tà nghiệp, chánh niệm đạt được
và an trú chánh nghiệp; như vậy là chánh niệm của
vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh
kiến đi hàng đầu ? Tuệ tri được tà
mạng là tà mạng, tuệ tri được chánh
mạng là chánh mạng; như vậy là chánh kiến
của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà
mạng ? Lừa đảo, nói lời mê ly, hiện
tướng, gian trá, lấy lợi cầu lợi; như
vậy, này các Tỷ-kheo, là tà mạng. Và thế nào, này các
Tỷ-kheo, là chánh mạng ? Chánh mạng, này các Tỷ-kheo,
Ta nói có hai loại : có loại chánh mạng, này các Tỷ-kheo,
hữu lậu, thuộc phước báo, đưa
đến quả sanh y; có chánh mạng, này các Tỷ-kheo, thuộc
bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.
Và thế nào, này các Tỷ-kheo là chánh mạng, hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử bỏ tà mạng, nuôi sống với chánh
mạng, như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh mạng, hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng,
thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi ? Cái ǵ, này các Tỷ-kheo thuộc về
từ bỏ, từ đoạn, từ khước,
viễn ly tà mạng đối với một vị tu
tập Thánh đạo, thuần thục trong Thánh
đạo. Có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như
vậy, này các Tỷ-kheo là chánh mạng, thuộc bậc
Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Ai tinh
tấn đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh
mạng; như vậy là chánh tinh tấn của vị
ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà mạng, chánh
niệm đạt được và an trú chánh mạng,
như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như
vậy là ba pháp này chạy
Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi
hàng đầu. Và thế nào, này Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu ? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, do
chánh kiến, được khởi lên. Chánh ngữ do chánh
tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh tà
ngữ được khởi lên. Chánh mạng do chánh
nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh
mạng được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh
tấn được khởi lên. Chánh định do chánh
niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh
định được khởi lên. Chánh giải thoát do
chánh trí được khởi lên. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đạo lộ của vị hữu học
gồm có tám chi phần và đạo lộ của vị
A-la-hán, gồm có mười chi phần.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi
hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh
kiến đi hàng đầu ? Tà kiến này các Tỷ-kheo,
do chánh kiến làm cho tiêu diệt. Và những ác bất
thiện pháp được tà kiến duyên khởi, các pháp
ấy bị tiêu diệt trong vị có chánh kiến. Và
những thiện pháp được chánh kiến duyên
khởi, các pháp ấy được tu tập và trở
thành viên măn. Tà tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh tư duy làm
cho tiêu diệt và những ác bất thiện pháp,
được tà tư duy duyên khởi, các pháp ấy
bị tiêu diệt trong người có chánh tư duy. Và
những thiện pháp được chánh tư duy duyên
khởi, các pháp ấy được phát triển trở
thành viên măn. Tà ngữ, này các Tỷ-kheo, do chánh ngữ làm cho
tiêu diệt và những ác bất thiện pháp
được tà ngữ duyên khởi, các pháp ấy bị
tiêu diệt trong người có chánh ngữ. Và những
thiện pháp được chánh ngữ duyên khởi, các
pháp ấy được tu tập và trở thành viên măn. Tà
nghiệp, này các Tỷ-kheo, do chánh nghiệp làm cho tiêu
diệt, và những ác bất thiện pháp được
tà nghiệp duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt
trong người có chánh nghiệp. Và những thiện pháp
được chánh nghiệp duyên khởi, các pháp ấy
được tu tập và trở thành viên măn. Tà mạng,
này các Tỷ-kheo, do chánh mạng làm cho tiêu diệt. Và
những ác bất thiện pháp được tà mạng
duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong
người có chánh mạng. Và những thiện pháp
được chánh mạng duyên khởi, các pháp ấy
được tu tập và trở thành viên măn. Tà tinh
tấn, này các Tỷ-kheo, do chánh tinh tấn làm cho tiêu
diệt. Và những ác bất thiện pháp được
tà tinh tấn duyên khởi, các pháp ấy được tiêu
diệt trong người có chánh tinh tấn. Và những
thiện pháp sai biệt được khởi lên do duyên
chánh tinh tấn, các pháp ấy được tu tập và
trở thành viên măn. Tà niệm, này các Tỷ-kheo, do chánh
niệm làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện
pháp được tà niệm duyên khởi, các pháp ấy
được tiêu diệt trong người có chánh
niệm. Và những thiện pháp được chánh
niệm duyên khởi, các pháp ấy được tu
tập và trở thành viên măn. Tà định, này các
Tỷ-kheo do chánh định làm cho tiêu diệt. Và những
ác bất thiện pháp được tà định duyên
khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong
người có chánh định. Và những thiện pháp
được chánh định duyên khởi, các pháp ấy
được tu tập và trở thành viên măn. Tà trí, này các
Tỷ-kheo, do chánh trí làm cho tiêu diệt. Và những ác
bất thiện pháp được tà trí duyên khởi, các
pháp ấy được tiêu diệt trong người có
chánh trí. Và những thiện pháp được chánh trí duyên
khởi, các pháp ấy được phát triển và
trở thành viên măn. Tà giải thoát, này các Tỷ-kheo, do chánh
giải thoát làm cho tiêu diệt. Và những ác bất
thiện pháp được tà giải thoát duyên khởi, các
pháp ấy được tiêu diệt trong người có
chánh giải thoát. Và các thiện pháp sai biệt
được chánh giải thoát duyên khởi, các pháp ấy
được phát triển và trở thành viên măn. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, có hai mươi thiện phần,
hai mươi bất thiện phần. Đại pháp môn
Bốn mươi đă được chuyển vận
không bị chận đứng lại bởi một Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay một ai ở đời.
Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ
rằng đại pháp môn Bốn mươi này đáng
bị phê b́nh, đáng bị phỉ báng, thời ngay
hiện tại, mười thuận thuyết tùy thuyết
hợp pháp được nói lên để chỉ trích
người ấy. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh
kiến, thời các Sa-môn có tà kiến, các Tôn giả ấy
là những vị đáng được cúng dường,
các Tôn giả ấy là những vị đáng
được tán thán. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh
tư duy, thời các Sa-môn, Bà-la-môn có tà tư duy, các Tôn
giả ấy là những vị đáng được cúng
dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng
được tán thán. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh
ngữ... chánh nghiệp... chánh mạng... chánh tinh tấn...
chánh niệm... chánh định... chánh trí... Nếu Tôn
giả chỉ trích chánh giải thoát, thời các Sa-môn,
Bà-la-môn có tà giải thoát, các Tôn giả ấy là những
vị đáng cúng dường, các Tôn giả ấy là
những vị đáng được tán thán. Nếu có
Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng
đại pháp môn Bốn mươi này đáng bị phê
b́nh, đáng bị phỉ báng, thời ngay hiện tại,
mười thuận thuyết hợp pháp được
nói lên để chỉ trích người ấy. Này các
Tỷ-kheo, cho đến các dân chúng ở Ukkala và dân chúng
Vassa, dân chúng Bhanna theo vô nhân luận, theo vô tác luận, theo
hư vô luận, những vị ấy cũng không nghĩ
rằng đại pháp môn Bốn mươi đáng chỉ
trích, đáng bị phỉ báng. V́ sao vậy ? V́ sợ
quở trách, phẫn nộ, công kích.
118. KINH NHẬP TỨC XUẤT
TỨC NIỆM [^]
(Anapanasatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Đông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc
Mẫu (Migaramatupasade), cùng với rất nhiều
Thượng tọa có thời danh, có danh xưng.... như
Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahamoggallana
(Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả Mahakaccayana
(Đại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahakotthita (Đại
Câu-hy-la), Tôn giả Mahakappina (Đại Kiếp-tân-na), Tôn
giả Mahacunda (Đại Thuần-đà), Tôn giả
Anuruddha (A-na-luật), Tôn giả Revata (Ly-bà-đa) và Tôn
giả Ananda (A-nan), cùng với nhiều bậc
Thượng tọa đệ tử khác có thời danh, có
danh xưng. Lúc bấy giờ, các Thượng tọa
Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỷ-kheo.
Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số
Thượng Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng
dạy hai mươi tân Tỷ-kheo. Một số Thượng
tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba
mươi tân Tỷ-kheo. Một số Thượng
Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy bốn
mươi tân Tỷ-kheo. Và các tân Tỷ-kheo được
các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng
dạy ư thức rơ ràng những quả vị cao diệu,
tiệm thứ, thù thắng đă chứng đạt. Lúc
bấy giờ Thế Tôn, vào ngày Bố-tát, ngày rằm, vào
đêm trăng tṛn sau ngày Tự tứ, đang ngồi
giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
– Ta được thỏa măn, này các Tỷ-kheo,
với đạo lộ này. Tâm ta được thỏa
măn, này các Tỷ-kheo, với đạo lộ này. Do
vậy, này các Tỷ-kheo, hăy tinh tấn hơn nữa, để
chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt,
để chứng đắc những ǵ chưa chứng
đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng
ngộ. Ta sẽ ở đây, tại Savatthi cho đến
tháng tư, lễ Komudi.
Những Tỷ-kheo địa phương
được nghe: "Thế Tôn sẽ ở đây,
tại Savatthi, cho đến tháng tư, lễ Komudi".
Rồi Thế Tôn sau khi nh́n xung quanh chúng
Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng
liền bảo các Tỷ-kheo:
– Hội chúng này, này các Tỷ-kheo, không có lời
thừa thải. Hội chúng này, này các Tỷ-kheo, không có
lời dư thừa, đă được an trú trong lơi cây
thanh tịnh. Chúng Tỷ-kheo như thế này, này các
Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo là
một hội chúng đáng được cung kính, đáng
được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chấp tay, là
phước điền vô thượng ở đời.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập
tức xuất tức niệm được tu tập ?
Như thế nào, làm cho sung măn, khiến bốn niệm
xứ được viên măn ? Khi nào, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi
thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết
"Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị
ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay khi
thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra
ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả
toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta
nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do
vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị
Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào,
này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác
hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc
thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An
tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở
đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm
thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở
ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các
cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ :
"Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm
Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải
thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
để chế ngự tham ưu ở đời. Này các
Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức
niệm không thể đến với kẻ thất
niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo,
trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ :
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Quán ly tham.... quán
đoạn diệt... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các
pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu,
sau khi thấy với trí tuệ, khéo nh́n (sự vật)
với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong
khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Nhập tức xuất tức niệm, này các
Tỷ-kheo, được tu tập như vậy
được làm cho sung măn như vậy, khiến cho
bốn niệm xứ được viên măn.
Và bốn niệm xứ, này các Tỷ-kheo, tu
tập như thế nào, làm cho sung măn như thế nào,
khiến cho bảy giác chi được viên măn ? Này các
Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy, niệm
không hôn mê của vị ấy được an trú. Trong khi
niệm không hôn mê của vi ấy cũng được an
trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy niệm giác chi
được bắt đầu khởi lên với
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập niệm giác
chi. Trong khi ấy niệm giác chi được Tỷ-kheo
tu tập đi đến viên măn. Này các Tỷ-kheo, trong khi
trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí
tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Này các
Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy,
Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi
được bắt đầu khởi lên, với
Tỷ-kheo. Trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập trạch pháp
giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác chi được
Tỷ-kheo tu tập đi đến viên măn. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư,
tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không
thụ động bắt đầu khởi lên với
vị Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo
với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy,
trong khi ấy sự tinh tấn không thụ động
bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo ấy. Trong
khi ấy tinh tấn giác chi được bắt
đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy
Tỷ-kheo tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh
tấn giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi
đến viên măn. Hỷ không liên hệ đến vật
chất được khởi lên nơi vị tinh tấn
tinh cần. Này các Tỷ-kheo, trong khi hỷ không liên hệ
đến vật chất khởi lên nơi Tỷ-kheo tinh
tấn tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt
đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy
hỷ giác chi được vị Tỷ-kheo tu tập.
Trong khi ấy hỷ giác chi được Tỷ-kheo tu
tập đi đến viên măn. Thân của vị ấy được
tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được
khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ư hoan
hỷ được thân khinh an, được tâm cũng
khinh an, trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu
khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi
được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy, khinh an
giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung
măn. Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong
khi Tỷ-kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh, trong khi ấy
định giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác chi được
Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi
được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn.
Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy,
khéo nh́n (sự vật) với ư niệm xả ly. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh
như vậy, khéo nh́n (sự vật) với ư niệm
xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu
khởi lên nơi Tỷ-kheo . Trong khi ấy xả giác chi
được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả
giác chi được Tỷ-kheo làm cho đến sung măn.
Này các Tỷ-kheo, trong khi quán thọ trên các cảm
thọ... (như trên)... quán tâm trên tâm... (như trên)... quán
pháp trên các pháp, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm với mục đích điều phục tham
ưu ở đời, trong khi ấy niệm của
vị ấy được an trú, không có hôn mê. Này các
Tỷ-kheo, trong khi niệm của Tỷ-kheo
được an trú, không có hôn mê, niệm giác chi trong khi
ấy được bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Niệm giác chi trong khi ấy được
Tỷ-kheo tu tập. Niệm giác chi trong khi ấy,
được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn.
Vị ấy an trú với chánh niệm như vậy, suy
tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ. Này
các Tỷ-kheo, trong khi an trú với chánh niệm như
vậy, vị ấy suy tư, tư duy, thẩm sát pháp
ấy với trí tuệ. Trạch pháp giác chi trong khi ấy
được bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Trạch pháp giác chi trong khi ấy được
Tỷ-kheo tu tập. Trạch pháp giác chi trong khi ấy
đi đến sung măn, tinh tấn không thụ động
bắt đầu khởi lên nơi vị ấy. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy với trí tuệ, và tinh tấn không thụ
động bắt đầu khởi lên nơi vị
ấy, tinh tấn giác chi trong khi ấy bắt đầu
khởi lên nơi vị Tỷ-kheo. Tinh tấn giác chi
được Tỷ-kheo tu tập. Tinh tấn giác chi
được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn.
Đối với vị ấy tinh cần tinh tấn,
hỷ không liên hệ đến vật chất khởi
lên. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo tinh cần tinh
tấn và hỷ không liên hệ đến vật chất
khởi lên, hỷ giác chi trong khi ấy bắt đầu
được khởi lên nơi Tỷ-kheo. Hỷ giác chi
trong khi ấy được Tỷ-kheo tu tập. Hỷ
giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo làm cho đi
đến sung măn. Thân của vị ấy được
tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được
khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ư hoan
hỷ được thân khinh an, được tâm cũng
khinh an, trong khi ấy khinh an giác chi bắt đầu
khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy khinh an giác chi
được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy khinh an
giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung
măn. Một vị có tâm khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong
khi vị ấy có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh, trong khi ấy định
giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong
khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo tu
tập. Trong khi ấy định giác chi được
Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn. Vị ấy
với tâm định tĩnh như vậy khéo nh́n (sự
vật) với ư niệm xả ly. Này các Tỷ-kheo, trong khi
Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo
nh́n (sự vật) với ư niệm xả ly, trong khi
ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Trong khi ấy xả giác chi được
Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi
được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn.
Này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ
được tu tập như vậy, được làm
cho sung măn như vậy khiến cho bảy giác chi
được sung măn.
Và này các Tỷ-kheo, bảy giác chi tu tập như
thế nào, làm cho sung măn như thế nào, khiến cho minh
giải thoát được viên măn. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên
hệ đến diệt, hướng đến xả
ly; tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập
tinh tấn giác chi... (như trên)... tu tập hỷ giác chi...
(như trên)... tu tập khinh an giác chi... (như trên)... tu
tập định giác chi... (như trên)... tu tập xả giác
chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến
ly tham, liên hệ đến diệt, hướng
đến xả ly. Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi
được tu tập như vậy, được làm
cho sung măn như vậy, khiến cho minh giải thoát
được viên măn.
119. KINH THÂN HÀNH NIỆM [^]
(Kayagatasatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
(Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông
Anathapindika (
– Thật vi diệu thay, chư Hiền giả !
Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thân hành
niệm, khi được tu tập và làm cho sung măn, có
được quả lớn, có được công
đức lớn, như đă được
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Ông hiện nay
đang ngồi bàn vấn đề ǵ ? Câu chuyện ǵ
của các Ông bị gián đoạn ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn
xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con
ngồi tụ họp tại hội trường, và câu
chuyện sau này được khởi lên: "Thật vi
diệu thay, chư Hiền giả ! Thật hy hữu thay,
chư Hiền giả ! Thân hành niệm này được
tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có
công đức lớn, đă được Thế Tôn, bậc
Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố". Bạch Thế Tôn, câu chuyện này
của chúng con chưa bàn xong thời Thế Tôn đến.
– Và này các Tỷ-kheo, thân hành niệm tu tập
như thế nào, làm cho sung măn như thế nào, có quả
lớn, có công đức lớn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi
đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay
đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già,
lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.
Chánh niệm, vị ấy thở vô. Chánh niệm, vị
ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết :
"Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy
biết: " Tôi thở ra dài" . Hay thở vô ngắn,
vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay
thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra
ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả
toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi
sẽ thở vô", vi ấy tập. "An tịnh thân
hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi
vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần, các niệm và tư duy thuộc về thế
tục được đoạn trừ. Nhờ
đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được
an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành
niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi,
biết rằng : "Tôi đi". Hay đứng,
biết rằng : "Tôi đứng". Hay ngồi,
biết rằng : "Tôi ngồi". Hay nằm, biết
rằng : "Tôi nằm". Thân thể được
sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân
thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và
tư duy thuộc về thế tục được
đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp
ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi
bước tới, bước lui biết rơ việc ḿnh
đang làm; khi ngó tới ngó lui biết rơ việc ḿnh
đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rơ việc ḿnh
đang làm; khi mang áo tăng-già-lê (sanghati), mang bát, mang y,
biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ăn, uống, nhai,
nếm, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đứng,
ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rơ việc
ḿnh đang làm.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc
về thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm
được an trú, an tọa, chuyên nhất, định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát
thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho
đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa
đầy những vật bất tịnh sai biệt:
"Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt,
gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách,
phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm
dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt,
mỡ da, nước miếng, nước mủ,
nước ở khớp xương, nước
tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao
đồ, hai đầu trống đựng đầy
các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh,
đậu lớn, mè, gạo đă xay rồi. Một
người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán
sát : "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây
là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè,
đây là hột lúa đă xay rồi". Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới
từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc,
bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt : ‘Trong thân này, đây là tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận,
tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột,
phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ,
nước mắt, mỡ da, nước miếng,
nước mủ, nước ở khớp xương,
nước tiểu".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc
về thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm
được an trú, an tọa, chuyên nhất, định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát
thân này về các vị trí các giới và sự sắp
đặt các giới : "Trong thân này có địa
đại, thủy đại, hỏa đại, và phong
đại". Này các Tỷ-kheo, như một
người đồ tể thiện xảo, hay
đệ tử của một người đồ
tể giết một con ḅ, ngồi cắt chia từng thân
phần tại ngă tư đường; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát thân này về
vị trí các giới và về sự sắp đặt các
giới : "Trong thân này có địa đại, thủy
đại, hỏa đại và phong đại".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc
về thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm
được an trú, an tọa, chuyên nhất, định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như
thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa
địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy
trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra;
Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất
là như vậy, bản tánh là như vậy, không
vượt khỏi bản chất ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc
về thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm
được an trú, an tọa, chuyên nhất, định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như
thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa
địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài
diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các
loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các
loài côn trùng ăn; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau :
"Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là
như vậy, không vượt khỏi bản chất
ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc
về thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm
được an trú, an tọa, chuyên nhất, định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như
thấy một thi thể bị quăng bỏ trong
nghĩa địa, với các bộ xương c̣n liên
kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được
các đường gân cột lại... với các bộ
xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt
nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân
cột lại... chỉ c̣n có xương không dính lại
với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là
xương tay, ở đây là xương chân, ở đây
là xương ống, ở đây là xương bắp
vế, ở đây là xương mông, ở đây là
xướng sống, ở đây là xương đầu;
Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất
là như vậy, bản tánh là như vậy, không
vượt khỏi bản chất ấy". Trong khi
vị ấy sống không phóng dật... (như trên)..
Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như
thấy một thi thế quăng bỏ trong nghĩa
địa, chỉ c̣n toàn xương trắng màu vỏ
ốc... chỉ c̣n một đống xương lâu
hơn một năm... chỉ c̣n là xương thối
trở thành bột; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau :
"Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là
như vậy, không vượt khỏi bản chất
ấy". Trong khi vị ấy sống không phóng dật...
(như trên).. Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly
dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với
tầm và tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với
hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh
ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, như một người
hầu tắm lăo luyện hay đệ tử người
hầu tắm; sau khi rắc bột tắm trong thau
bằng đồng, liền nhồi bột ấy với
nước, cục bột tắm ấy được
thấm nhuần nước ướt, trào trộn
với nước ướt, thấm ướt cả
trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy
thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn
đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh,
không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Trong
khi vị ấy sống không phóng dật.. (như trên) ...
Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo
ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn,
tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ
nước, nước tự trong dâng lên, phương
Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây
không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc
không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có
lỗ nước chảy ra và thỉnh thoảng trời
lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ
nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung măn tràn đầy hồ nước
ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ
nào của hồ nước ấy không được
nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm
ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với
hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân, không được hỷ lạc do đính sanh
ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống không
phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo tu tập thân hành
niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả
niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba.
Tỷ-kheo, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
măn tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có
hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không
được lạc thọ không có hỷ ấy thấm
nhuần. Như vậy, Tỷ-kheo an trú không phóng dật...
(như trên)... Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh,
hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen
hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong
nước, lớn lên trong nước, không vượt
khỏi nước, nuôi sống dưới nước,
từ đầu ngọn cho đến gốc rễ
đều thấm nhuần, tẩm ướt, đầy
tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy,
không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng
hay sen trắng không được nước mát lạnh
ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
măn, tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có
hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không
được lạc thọ không có hỷ ấy thấm
nhuần. Như vậy Tỷ-kheo an trú không phóng dật...
(như trên)... Tỷ-kheo, tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo,
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă
cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh
tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân
ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ
nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong
sáng ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người
ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không
một chỗ nào trên toàn thân không được vải
trắng ấy che thấu; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân ḿnh
với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng
ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống an trú
không phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo tu tập thân
hành niệm.
Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu
tập, làm cho sung măn thân hành niệm, các thiện pháp
của vị ấy đi vào nội tâm (antogadha ?)
đều thuộc về minh phần (vijjabhagiya). Ví
như, này các Tỷ-kheo, biến lớn của ai
được thấm nhuần bởi tâm, thời các con
sông của vị ấy đi vào trong biển, đều
thuộc về biển lớn; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập làm cho sung
măn thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy
đi vào nội tâm, đều thuộc về minh phần.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo nào không tu
tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, thời Ma
(vương) có cơ hội với vị ấy, Ma
(vương) có cơ duyên với vị ấy. Ví như này
các Tỷ-kheo, có người quăng một ḥn đá nặng
vào một đống đất sét ướt nhuyễn,
này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Có phải ḥn
đá nặng ấy có cơ hội (lún sâu) vào đống
đất sét ướt nhuyễn ấy ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn,
Ma (vương) có cơ hội với vị ấy, Ma
(vương) có cơ duyên với vị ấy. Ví như,
này các Tỷ-kheo, một cây khô không có nhựa, có
người đến cầm phần phía trên của
đồ quay lửa và nói : "Tôi sẽ làm cho ngọn
lửa sanh ra, tôi sẽ làm cho sức nóng hiện lên".
Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người
ấy mang đến phần phía trên của đồ quay
lửa, quay với cành cây khô không có nhựa ấy,
người ấy có làm cho ngọn lửa sanh ra, có làm cho
sức nóng hiện lên không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn,
Ma (vương) có cơ hội với người ấy,
Ma (vương) có cơ duyên với người ấy. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một b́nh nước, trống
rỗng, trống không, được đặt trên cái
giá, có một người đi đến, mang
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị nào không
tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, Ma (vương)
có cơ hội với vị ấy, Ma (vương) có
cơ duyên với vị ấy.
Này các Tỷ-kheo, vị nào có tu tập thân hành
niệm, làm cho sung măn, Ma (vương) không có cơ hội
với vị ấy. Ma (vương) không có duyên với
vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
quăng một trái banh dây nhẹ vào một cánh cửa làm
hoàn toàn bằng lơi cây. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ
thế nào ? Trái banh dây nhẹ ấy có cơ hội
đối với cánh cửa làm hoàn toàn bằng lơi cây không
?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn,
Ma (vương) không có cơ hội đối với
vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối
với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây
ướt có nhựa, rồi một người đi
đến mang theo phần trên đồ quay lửa và nói :
"Tôi sẽ làm cho lửa sinh ra, tôi sẽ làm cho hơi
nóng hiện lên". Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế
nào ? Người ấy mang theo phần trên đồ quay
lửa, quay với các cây ướt và có nhựa, có thể
làm cho lửa sanh ra, làm cho hơi nóng hiện lên
được không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn,
Ma (vương) không có cơ hội đối với
vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối
với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, một b́nh
nước đầy tràn nước đến nỗi
con quạ có thể uống được,
được đặt trên cái giá, rồi có người
đi đến, mang theo đầy nước. Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có
thể đổ được nước vào (b́nh
ấy) không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, Ma
(vương) không có cơ hộ đối với
người ấy, Ma (vương) không có cơ duyên
đối với người ấy.
Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu
tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy
hướng tâm đă được chứng ngộ
nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải
chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy
đối mặt đạt được sự tinh
xảo, (của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ
nào (sati sati ayatane). Ví như, này các Tỷ-kheo, một b́nh
đầy tràn nước đến nỗi con quạ có
thể uống được, được đặt
trên cái giá và có người lực sĩ đến và
lắc qua lắc lại cái b́nh ấy, như vậy
nước có thể trào ra ngoài không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn,
vị ấy hướng tâm đă được chứng
ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần
phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy
đối mặt được sự tinh xảo
(của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ nào. Ví
như có một hồ nước trên một miếng
đất bằng, bốn phía có đê đắp làm cho
vững chắc, và tràn đầy nước đến
nỗi con quạ có thể uống được. Rồi
có người lực sĩ đến và phá một khúc
đê, nước có thể tràn ra ngoài không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn,
vị ấy hướng tâm đă được chứng
ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần
phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy
đối mặt được sự tinh xảo
(của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ nào. Ví
như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng tại
chỗ ngă tư có một chiếc xe đậu, thắng
với những con ngựa thuần thục, có roi ngựa
đặt ngang sẵn sàng, có người mă thuật sư
thiện xảo, người đánh xe điều ngự
các con ngựa đáng được điều ngự,
leo lên xe ấy, tay trái nắm dây cương, tay mặt cầm
lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi
tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào theo ư
ḿnh muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với
vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị
ấy hướng tâm đă được chứng
ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần
phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy
đối mặt được sự tinh xảo
(của pháp ấy), dầu thuộc giới xứ nào.
Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm được
thực hành, được tu tập, được làm
cho sung măn, được làm như thành cỗ xe,
được làm như thành căn cứ địa,
được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích
tập, được khéo tinh cần thực hành, thời
mười công đức này có thể được mong
đợi. Thế nào là mười ?
Lạc bất lạc được nhiếp
phục, và bất lạc không nhiếp phục vị
ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp phục
bất lạc được khởi lên; khiếp
đảm sợ hăi được nhiếp phục, và
khiếp đảm sợ hăi không nhiếp phục vị
ấy, và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp
đảm sợ hăi được khởi lên. Vị
ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát,
sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt
trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó
chấp nhận. Vị ấy có khả năng chịu
đựng được những cảm thọ về
thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói
đau, bất khả ư, bất khả ái, đưa
đến chết điếng. Tùy theo ư muốn, không có khó
khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị
ấy chứng được bốn Thiền, thuần
túy tâm tư, hiện tại lạc trú. Vị ấy
chứng được các loại thần thông, một
thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện một
thân; hiện h́nh biến đi ngang qua vách, qua tường,
qua núi như đi ngang hư không; độn thổ
trồi lên ngang qua đất liền như ở trong
nước; đi trên nước không ch́m như đi trên
đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không
như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt
trăng và mặt trời, những vật có đại oai
lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân
có thần thông bay cho đến Phạm thiên; với thiên
nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại
tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở
gần. Với tâm của vị ấy, vị ấy
biết tâm của các chúng sanh, các loại người; tâm
có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm
có sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có
si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên
chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán
loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm
không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm
chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng;
tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền
định, biết tâm Thiền định; tâm không
Thiền định, biết tâm không Thiền định;
tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải
thoát, biết tâm không giải thoát. Vị ấy nhớ
đến các đời sống quá khứ như một
đời, hai đời... vị ấy nhớ
đến các đời sống quá khứ với các nét
đại cương và các chi tiết. Với thiên nhăn thuần
tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và
sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ
rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh đều do
hạnh nghiệp của họ. Với sự diệt
trừ các lậu hoặc, sau khi tự ḿnh chứng tri
với thượng trí, vị ấy chứng đạt
và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ
giải thoát không có lậu hoặc.
Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm được
thực hành, được tu tập, được làm
cho sung măn, được làm như cỗ xe,
được làm như thành căn cứ địa,
được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích
tập, được khéo tinh cần thực hành, thời
mười công đức này có thể mong đợi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
120. KINH HÀNH SANH [^]
(Sankharuppatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy Thế
Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" –
"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau : "Này
các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông sự tái sanh do
hành đưa lại. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta
sẽ giảng". – "Thưa vâng, bạch Thế
Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau :
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới,
đầy đủ văn (suta), đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ
như sau : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung,
ta sẽ sanh cọng trú trong đại gia tộc Sát
đế lỵ !" Vị ấy chuyên định tâm
ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những hành
ấy của Tỷ-kheo được an trú, tu tập, làm
cho sung măn như vậy đưa vị ấy thọ sanh
tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là
đạo, đây là lộ tŕnh đưa đến tái sanh
tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới,
đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ :
"Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ
sanh cọng trú trong đại gia tộc Bà-la-môn !... hay trong
đại gia tộc cứ sĩ !" Vị ấy chuyên
định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy.
Những hành ấy của Tỷ-kheo được an trú,
tu tập, làm cho sung măn như vậy đưa vị
ấy thọ sanh tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo,
đây là đạo, đây là lộ tŕnh đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới,
đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy
được nghe : "Bốn Đại Thiên
vương có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng,
có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ:
"Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được
sanh cọng trú với chư Thiên ở cơi trời Tứ
thiên !" Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm
ấy, tu tập tâm ấy. Những hành ấy của
Tỷ-kheo được an trú, tu tập, ... đưa đến
tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới,
đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy
được nghe : "Chư Thiên Tavatimsa (Tam thập tam
thiên)... , chư Thiên Yama (Dạ-ma)..., chư Thiên Tusita
(Đâu-suất-đà)..., chư Thiên Nimmanarati (Hóa
Lạc)..., chư Thiên Paramimmitavasavatti (Tha Hóa Tự Tại)
có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều
lạc thọ. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau
khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng
trú với chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại Thiên !"
Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới,
đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy
được nghe : "Ngàn Phạm thiên có thọ mạng
lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc
thọ"... Này các Tỷ-kheo, ngàn Phạm thiên sống
thấm nhuần biến măn một ngàn thế giới. Và
vị ấy sống thuấn nhuần, biến măn các chúng
sanh được sanh lên thế giới ấy. Ví như,
này các Tỷ-kheo, một người có mắt cầm
một trái amanda (a-ma-lặc) trong tay và nh́n trái ấy;
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ngàn Phạm thiên sống
thấm nhuần, biến măn một ngàn thế giới . Và
vị ấy sống thấm nhuần, biến măn các chúng
sanh được sanh lên thế giới ấy. Vị
ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta sẽ được sanh cọng trú với ngàn
Phạm thiên !" Vị ấy chuyên định tâm
ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín..., đầy đủ trí
tuệ. Vị ấy được nghe : "Hai ngàn
Phạm thiên giới... ba ngàn Phạm thiên.. bốn ngàn
Phạm thiên... năm ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu
dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ. Này các
Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu dài,
có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ. Này các
Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống thấm
nhuần, biến măn năm ngàn thế giới. Và vị
ấy sống thấm nhuần biến măn các chúng sanh
được sanh lên thế giới ấy. Ví như này
các Tỷ-kheo, một người có mắt cầm năm
trái amanda (a-ma-lặc) trong tay và nh́n các trái ấy. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống
thấm nhuần, biến măn năm ngàn thế giới. Và
vị ấy sống thấm nhuần biến măn các chúng
sanh được sanh lên các thế giới ấy".
Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại
mạng chung, ta sẽ được sanh cọng trú
với năm ngàn Phạm thiên !" Vị ấy chuyên
định tâm ấy.... đưa đến tái sanh
tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... giới... văn... thí...
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy
được nghe : "Mười ngàn Phạm thiên có
thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều
lạc thọ". Này các Tỷ-kheo, mười ngàn
Phạm thiên giới thấm nhuần biến măn
mười ngàn thế giới. Vị ấy sống
thấm nhuần biến măn các chúng sanh được sanh
lên các thế giới ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một ḥn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ trong
suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, đặt trên
một tấm nàm màu lạt, sẽ chiếu sáng, sáng chói;
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, mười ngàn Phạm
thiên sống thấm nhuần, biến măn mười ngàn thế
giới ấy. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau
khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng
trú với mười ngàn Phạm thiên !" Vị ấy
chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh
tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Trăm ngàn Phạm
thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có
nhiều lạc thọ". Này các Tỷ-kheo, trăm ngàn
Phạm thiên, sống thấm nhuần, biến măn trăm
ngàn thế giới... Vị ấy cũng thấm
nhuần, biến măn các chúng sanh được sanh lên các
thế giới ấy. Ví như một đồ trang
sức làm bằng vàng ṛng (jambonada), được khéo tôi
luyện trong ḷ của một thợ vàng thiện xảo,
nếu được đặt trên một tấm màn màu
lạt sẽ chiếu sáng, rực sáng, chói sáng; cũng
vậy này các Tỷ-kheo, trăm ngàn Phạm thiên an trú
thấm nhuần biến măn trăm ngàn thế giới... Vị
ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh cọng trú với trăm ngàn
Phạm thiên !" Vị ấy chuyên định tâm
ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Chư Quang thiên...
Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên... Quang Âm thiên có
thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều
lạc thọ". Vị ấy nghĩ : "Mong rằng
ta.. ".... đưa đến tái sanh tại chỗ
ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Chư Tịnh
thiên.... Thiểu Tịnh thiên... Vô lượng Tịnh
thiên... Biến Tịnh thiên có thọ mạng lâu dài, có
mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị
ấy nghĩ : "Mong rằng ta.. ". , đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Quảng Quả
thiên... Vô Phiền thiên... Vô Nhiệt thiên... Thiện Kiến
thiên.. A-ca-ni-sa thiên có thọ mạng lâu dài có mỹ
tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy
nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta
được sanh cọng trú với chư
A-ca-ni-sa-thiên". Vị ấy chuyên định tâm
ấy.... đưa đến tái sanh tại chỗ
ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Chư Thiên đă
đạt được Hư không vô biên xứ, có
thọ mạng lâu dài, cửu trú, có nhiều lạc
thọ". Vị ấy nghĩ : "Mong rằng ta..
".... , đưa đến tái sanh chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy được nghe : "Chư Thiên đă
đạt được Thức vô biên xứ... đă
được Vô sở hữu xứ.. đă đạt
được Phi tưởng phi phi tưởng xứ có
thọ mạng lâu dài, cửu trú, có nhiều lạc
thọ" Vị ấy nghĩ : "Mong rằng ta..
"... , đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ.
Vị ấy nghĩ : "Mong rằng, với sự
đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí,
ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô
lậu !" Vị ấy với sự đoạn
trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không sinh ra một nơi nào, không
sinh ra một chỗ nào.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.