127.
(Anuruddhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi, tại Jetavana, chỗ tinh xá của ông Anathapindika. Rồi thợ mộc
Pancakanga bảo một người.
– Hăy đến, này Người kia, hăy đi
đến Tôn giả Anuruddha, nhân danh ta, cúi đầu
đảnh lễ chân Tôn giả Anuruddha và thưa như sau : "Thưa Tôn giả, thợ mộc
Pancakanga cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Anuruddha,
và thưa: Mong rằng Tôn giả Anuruddha cùng ba vị
nữa, ngày mai nhận lời dùng bữa ăn với
thợ mộc Pancakanga. Mong rằng Tôn giả
Anuruddha đến thật sớm, v́ thợ mộc
Pancakanga có nhiều công việc, có nhiều bổn phận
phải làm đối với vua".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người ấy vâng đáp
thợ mộc Pancakanga, đi đến Tôn giả Anuruddha,
sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Anuruddha,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
người ấy thưa Tôn giả Anuruddha :
– Thợ mộc Pancakanga cúi đầu
đảnh lễ Tôn giả Anuruddha và thưa như sau : "Thưa Tôn giả, mong rằng Tôn
giả Anuruddha với ba vị nữa ngày mai đến
dùng bữa ăn với thợ mộc Pancakanga. Thưa Tôn
giả, mong rằng Tôn giả Anuruddha đến cho
thật sớm, v́ thợ mộc Pancakanga có nhiều công việc,
có nhiều bổn phận phải làm đối với
vua".
Tôn giả Anuruddha im lặng nhận
lời.
Ở đây, thưa Tôn giả, các Trưởng
lăo Tỷ-kheo đến và nói như sau :
"
–
–
–
Và này Cư sĩ, thế nào là vô lượng tâm
giải thoát ? Ở đây, này Cư
sĩ, Tỷ-kheo an trú, biến măn một phương
với tâm câu hữu với từ, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ
ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy,
cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu
với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không
sân. Với tâm câu hữu với bi, với tâm câu hữu
với hỷ, an trú biến măn, một phương với
tâm câu hữu với xả, ... quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là vô
lượng tâm giải thoát.
Này Cư sĩ, thế nào là đại hành tâm
giải thoát ? Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo, cho đến một
gốc cây, an trú, biến măn và thấm nhuần lớn cho
đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như
vậy, này Cư sĩ, được
gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba
gốc cây, an trú, biến măn và thấm nhuần lớn cho
đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như
vậy, này Cư sĩ, được
gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này
Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến một ruộng làng an
trú, biến măn và thấm nhuần lớn cho đến
như vậy (trong khi tu Thiền). Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là
đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba
ruộng làng, an trú biến măn và thấm nhuần lớn cho
đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như vây, này
Cư sĩ được gọi là
đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến một
đại vương quốc, an trú biến măn và thấm
nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu
Thiền). Như vậy, này Cư sĩ,
được gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở
đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba
đại vương quốc an trú, biến măn và thấm
nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu
Thiền). Như vậy, này Cư sĩ,
được gọi là đại hành tâm giải thoát. Do
vậy, này Cư sĩ, đây cần
phải hiểu đúng với pháp môn này, nghĩa là các pháp
này vừa khác nghĩa, vừa khác văn.
Này Cư sĩ, có bốn hữu sanh này
(bhavuppattiyo: bốn sự sanh khởi cho một đời
sống mới). Thế nào là bốn ?
Ở đây, này Cư sĩ, có
người, với hào quang hạn lượng (parittabha)
an trú, biến măn và thấm nhuần. Vị ấy sau khi
thân hoại mạng
– Có thời, này Cư sĩ,
chư Thiên kia tập họp tại một chỗ. Khi các vị này tập họp tại một
chỗ, có thấy sự sai khác về màu sắc, không có
thấy sự sai khác về hào quang. Ví như, này Cư sĩ, có người cầm nhiều
cây đèn dầu đi vào trong một nhà. Khi các cây đèn
dầu ấy được đem vào trong nhà, có thấy
sự sai khác về ngọn lửa, nhưng không có thấy
sự sai khác về ánh sáng. Cũng vậy, này Cư sĩ, có thời chư Thiên kia tập
họp tại một chỗ. Khi các vị này
tập họp tại một chỗ, có thấy sự sai
khác về màu sắc, không có thấy sự sai khác về hào
quang. Có thời, này Cư sĩ, chư
Thiên ấy, đi ra khỏi từ chỗ kia. Khi chư Thiên ấy đi ra khỏi từ
chỗ kia, có thấy sự sai khác về màu sắc và cũng
có thấy sự sai khác về hào quang. Ví như, này Cư
sĩ, có người đem nhiều cây đèn dầu ra
khỏi ngôi nhà ấy, khi các cây đèn dầu ấy
được đem ra khỏi ngôi nhà kia,
có thấy sự sai khác về màu sắc và cũng có
thấy sự sai khác về ánh sáng. Cũng vậy, này
Cư sĩ, có thời chư Thiên ấy
đi ra khỏi từ chỗ kia. Khi chư
Thiên ấy đi ra khỏi từ chỗ kia, có thấy
sự sai khác về màu sắc và cũng có thấy sự
sai khác về hào quang.
Này Cư sĩ, chư Thiên ấy không có nghĩ : "Đây là thường c̣n,
thường trú, thường hằng cho chúng tôi".
Nhưng chỗ nào chư Thiên ấy an
trú, tại chỗ ấy, chư Thiên kia sống trong
thoải mái. Ví như, này Cư sĩ, khi các con ruồi
bị mang đi trong đ̣n gánh hay trong cái giỏ, chúng nó
không có nghĩ : "Đây là sự
thường c̣n, thường trú hay thường hằng
cho chúng tôi". Nhưng chỗ nào, chỗ nào các con ruồi
kia an trú, tại chỗ ấy các con
ruồi ấy sống trong thoải măi. Cũng vậy, này
Cư sĩ, chư Thiên ấy không có nghĩ :
"Đây là thường c̣n, thường trú hay
thường hằng cho chúng tôi". Nhưng chỗ nào,
chỗ nào chư Thiên ấy an trú, tại
chỗ ấy, chư Thiên kia sống trong thoải mái.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Abhiya
Kaccana thưa với Tôn giả Anuruddha !
– Tốt lành thay, Tôn giả Anuruddha !
Ở đây, tôi có câu này cần phải
hỏi thêm.
–
– Thưa Tôn giả Anuruddha, do nhân ǵ, do duyên ǵ,
dầu cho chư Thiên ấy được sanh khởi
trong một Thiên chúng, lại có một số chư Thiên có
hào quang hạn lượng và có một số chư Thiên
khác có hào quang vô lượng ?
–
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo cho đến hai
hay ba gốc cây, an trú, biến măn và thấm nhuần
lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền),
trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này
rộng lớn hơn.
–
–
– Này Hiền giả Kaccana, Tỷ-kheo cho
đến hai hay ba ruộng làng, an trú, biến măn và
thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong
khi tu Thiền), và Tỷ-kheo cho đến một
đại vương quốc, an trú, biến măn và thấm
nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền)
trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này
rộng lớn hơn ?
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo, cho đến
một đại vương quốc, an trú, biến măn và
thấm nhuần lớn cho đến như vậy (Trong
khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu
tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng lớn
hơn.
– Này Hiền giả Kaccana, Tỷ-kheo cho
đến một đại vương, an trú, biến măn
và thấm nhuần lớn cho đến như vậy
(trong khi tu Thiền), và Tỷ-kheo cho đến hai hay ba
một đại vương quốc, an trú, biến măn và
thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong
khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu
tập tâm nào rộng lớn hơn ?
Thưa Tôn giả Anuruddha, Tỷ-kheo cho
đến hai hay ba đại vương quốc, an trú,
biến măn và thấm nhuần rộng lớn cho
đến như vậy (trong khi tu Thiền), trong hai
sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng
lớn hơn.
–
– Này Hiền giả Kaccana, do nhân này, do duyên này,
giữa các chư Thiên ấy được sanh khởi
trong một Thiên chúng, có một số chư Thiên có hào quang
có hạn lượng nhưng có một số chư Thiên
có hào quang vô lượng.
– Lành thay, Tôn giả Anuruddha ! Tôi có một câu cần phải hỏi thêm nữa.
–
–
·
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Abhiya
Kaccana thưa với Tôn giả Anuruddha :
– Thật lành thay, Tôn giả Anuruddha
!
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Abhiya Kaccana nói với
thợ mộc Pancakanga:
– Thật lợi ích thay cho Ông, này Cư sĩ,
rằng Ông đă đoạn trừ được
điều nghi ngờ từ trước, và cũng
được dịp nghe pháp môn này.
128.
(Upakkilesasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Kosambi (Kiều-thưởng-di), tại tịnh xá Ghosita
(Cu-sư-la). Lúc
bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambi sống cạnh
tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả
thương nhau bằng những binh khí miệng
lưỡi. Rồi một Tỷ-kheo
đến chỗ
– Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo
ở Kosambi, sống cạnh tranh, luận tranh, đấu
tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí
miệng lưỡi. Tốt lành thay, bạch
– Thôi vừa rồi, các Tỷ-kheo !
Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu
tranh nhau !
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch
–
Lần thứ hai,
– Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo
! Chớ có cạnh tranh, luận tranh,
phân tranh, đấu tranh nhau.
Lần thứ hai Tỷ-kheo ấy bạch
–
Lần thứ ba,
– Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo
! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh,
đấu tranh nhau !
Lần thứ ba, Tỷ-kheo ấy bạch
–
Giữa quần
chúng la ó,
Không ai nghĩ ḿnh ngu,
Giữa Tăng
chúng phân ly
Có ai nghĩ
hướng thượng ?
Thất niệm
kẻ trí nói,
Ba hoa trăm
thứ chuyện,
Miệng há, nói
thả dàn,
Dẫn đi
đâu, ai biết ?
"Nó mắng tôi,
đánh tôi !
Nó hại tôi,
cướp tôi !"
Ai ôm oán niệm
ấy,
Hận thù không thể nguôi.
"Nó mắng tôi,
đánh tôi !
Nó hại tôi,
cướp tôi !"
Không ôm oán niệm
ấy,
Hận thù sẽ tự nguôi.
Hận thù diệt
hận thù,
Không đời nào
diệt được,
Từ bi diệt
hận thù,
Là định
luật ngàn thu.
"Người
khác không hiểu biết,
Ở đây ta
bị diệt",
Những ai
hiểu điều này,
Nhờ vậy,
tranh luận tiêu.
Kẻ chủ
xướng hại mạng,
Cướp ḅ,
ngựa tài sản,
Kẻ cướp
đoạt quốc độ,
Họ c̣n biết
đoàn kết,
Sao các Ông không vậy ?
Nếu
được bạn hiền trí,
Đồng hành,
khéo an trú,
Đả
thắng mọi hiểm nạn,
Sống hoan hỷ chánh niệm.
Nếu không
bạn hiền trí,
Như vua bỏ
quốc độ,
Cô độc như voi rừng.
Tốt hơn,
sống một ḿnh,
Không bè bạn
kẻ ngu,
Cô độc không
làm ác,
Nhàn hạ, như
voi rừng.
–
–
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ khu
vườn nói chuyện với
– Này người Giữ vườn, chớ có
ngăn chặn
– Chư Tôn giả hăy đến !
Chư Tôn giả hăy đến !
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn
giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người
cầm y bát Thế Tôn, một người sửa soạn
chỗ ngồi, một người đặt sẵn
nước rửa chân.
Này các Anuruddha, các Ông có được an lành không ? Có được sống yên vui không ? Đi khất thực có khỏi
mệt nhọc không ?
–
– Này các Anuruddha, các Ông có sống ḥa hợp, hoan
hỷ với nhau, không có căi nhau. Như nước với
sữa, sống nh́n nhau với cặp mắt thiện
cảm không ?
–
Này các Anuruddha, như thế nào các Ông sống ḥa
hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với
sữa, sống nh́n nhau với cặp mắt thiện cảm ?
–
–
Lành thay, lành thay, này các Anuruddha !
và này các Anuruddha, các Ông có sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không ?
–
– Này các Anuruddha, như thế nào, các Ông sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn chúng con ai đi
vào làng khất thực về trước, người
ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn
sẵn nước uống, nước rửa chân,
soạn sẵn một bát để bỏ đồ
dư. Ai đi vào làng khất thực về sau,
người ấy, c̣n đồ ăn
để lại, nếu muốn th́ ăn, nếu không
muốn thời bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay
đổ vào nước không có loài côn trùng. Người
ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất
đi nước uống, nước rửa chân, cất
đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch
nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè
nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu
hết nước trống không, người ấy sẽ
lo liệu (nước). Nếu làm không nỗi với
sức bàn tay của ḿnh, người
ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai:
"Chúng ta hăy lo liệu (nước)". Dầu
vậy, bạch
– Lành thay, lành thay, này các Anurudda !
Này Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần như vậy, các Ông có chứng được pháp
thượng nhân tri kiến thù thắng, xứng đáng
bậc Thánh, sống thoải mái an lạc không ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy,
chúng con nhận thấy được hào quang, cũng
như sự hiện khởi các sắc pháp. Nhưng
hào quang ấy không bao lâu biến mất cùng với sự
hiện khởi các sắc pháp. Chúng con không
được hiểu rơ tướng ấy là ǵ .
– Này các Anuruddha, tướng ấy các Ông cần
phải hiểu rơ. Ta cũng vậy, này các Anuruddha,
trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh
Đẳng Giác, c̣n là Bồ-tát, Ta nhận thấy hào quang
và sự hiện khởi các sắc pháp. Nhưng
hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp. Này các
Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Do
nhân ǵ, do duyên ǵ hào quang biến mất đối với
Ta, cùng với sự hiện khởi các sắc pháp". Này
các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Nghi hoặc khởi lên nơi Ta. V́ có nghi
hoặc nên định của Ta bị biến diệt; khi
định biến diệt, hào quang biến mất cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật.. (như trên)... Rồi này
các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Sự phấn chấn (ubbilla) khởi lên nơi Ta. V́ có sự phấn chấn, nên định bị
biến diệt nơi Ta; khi định bị biến
diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện
khởi các sắc pháp. (Ví như, này các Anuruddha,
một người đi t́m cửa miệng một kho
tàng, và trong một lần t́m được năm cửa
miệng kho tàng, do nhân duyên này phấn chấn khởi lên. Cũng vậy, này các Anuruddha, phấn chấn
khởi lên nơi Ta). V́ có phấn
chấn nên định bị biến diệt nơi Ta; khi
định bị biến diệt mất cùng với
sự hiện khởi các sắc pháp.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và Ta nhận thấy
được hào quang cùng với sự hiện khởi
sắc pháp. Những
hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp. Rồi
này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Do nhân ǵ, do duyên ǵ, hào quang biến mất nơi Ta cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp ?" Rồi
này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Một trạng thái quá chú tâm vào các sắc pháp khởi
lên nơi Ta... cùng với sự hiện khởi các sắc
pháp.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào
quang nhưng Ta không thấy các sắc pháp cả đêm,
cả ngày, cả đêm và cả ngày. Ta thấy các sắc
pháp nhưng không nhận thấy hào quang. Về vấn
đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Do nhân ǵ, do duyên ǵ, Ta chỉ nhận
thấy hào quang, nhưng không thấy sắc pháp : cả
đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày ?" Ta
chỉ thấy các sắc pháp nhưng không nhận thấy
hào quang. Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy
nghĩ như sau : "Trong khi Ta không tác
ư sắc tướng, nhưng có tác ư hào quang tướng,
trong khi ấy ta nhận thấy hào quang, (nhưng) không
thấy sắc pháp. C̣n trong khi Ta không tác ư hào
quang tướng (nhưng) tác ư sắc tướng; trong khi
ấy Ta thấy các sắc pháp, (nhưng) không nhận
thấy hào quang, cả đêm, cả ngày, cả đêm và
cả ngày".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy hào quang có hạn
lượng và thấy được các sắc pháp có
hạn lượng; nhận thấy hào quang vô lượng
và nhận thấy được các sắc pháp vô
lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và
cả ngày. Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy
nghĩ như sau : "Do nhân ǵ, do duyên ǵ, Ta nhận
thấy hào quang có hạn lượng và thấy các sắc
pháp có hạn lượng; nhận thấy hào quang vô
lượng và thấy được các sắc pháp vô
lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và
cả ngày ?" Về vấn đề này, này các Anuruddha,
Ta suy nghĩ như sau : "Khi nào
định có hạn lượng, khi ấy mắt của
Ta có hạn lượng; với con mắt có hạn
lượng. Ta nhận thấy hào quang có hạn
lượng và thấy sắc pháp có hạn lượng.
Nhưng khi nào định của Ta không hạn
lượng, trong khi ấy mắt của Ta thành vô
lượng, và với con mắt vô lượng ấy, Ta
nhận thấy hào quang vô lượng và thấy các sắc
pháp vô lượng cả đêm, cả ngày, cả đêm và
cả ngày".
Này các Anuruddha, khi nào biết được nghi
hoặc là một phiền năo của tâm, thời nghi
hoặc phiền năo của tâm được đoạn
trừ; khi nào biết được không tác ư là một
phiền năo của tâm, thời không tác ư phiền năo của
tâm được đoạn trừ; khi nào biết
được hôn trầm, thụy miên... ; khi nào biết
được sợ hăi... ; khi nào biết được
phấn chấn... ; khi nào biết được dâm ư... ;
khi nào biết được tinh cần quá độ... ;
khi nào biết được sự tinh cần quá yếu
đuối... ; khi nào biết được dục ái... ;
khi nào biết được tưởng sai biệt... ; khi
nào biết được trạng thái quá chú tâm đến
các sắc pháp là một phiền năo của tâm, thời
trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp một
phiền năo của tâm được đoạn trừ.
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Những phiền năo tâm của Ta đă được
đoạn trừ. Nay Ta tu tập ba loại
định". Rồi này các Anuruddha, Ta tu tập
định có tầm, có tứ; Ta tu tập định
không có tầm, chỉ có tứ; Ta tu tập định
không tầm không tứ; Ta tu tập định có hỷ; Ta
tu tập định không có hỷ; Ta tu tập định
câu hữu với lạc; Ta tu tập định câu
hữu với xả. Này các Anuruddha, khi nào Ta tu tập
định có tầm, có tứ; khi nào Ta tu tập
định không tầm chỉ có tứ; khi nào Ta tu tập
định không có tầm, không có tứ; khi nào Ta tu tập
định có hỷ; khi nào Ta tu tập định không có
hỷ; khi nào Ta tu tập định câu hữu với
xả, thời tri kiến khởi lên nơi Ta:
"Giải thoát của Ta là bất động, đây là
đời sống cuối cùng của Ta, nay không c̣n
hiện hữu".
129.
(Balapanditasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tịnh
xá ông Anathapindika.
Tại đấy,
Này các Tỷ-kheo, có ba đặc điểm,
đặc tướng, và đặc ấn này của
người ngu. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người ngu tư duy ác tư duy, nói
lời ác ngữ và hành các ác hạnh. Này các Tỷ-kheo,
nếu người ngu không tư duy ác tư duy, không nói
lời ác ngữ, không hành ác hạnh, thời làm sao kẻ
trí biết được người ấy :
"Người này là người ngu, không phải là Chân
nhân ?" Và v́ rằng, này các Tỷ-kheo, người ngu
tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ, hành ác hạnh, do
vậy, người trí biết người ấy:
"Người này là người ngu, không phải là Chân
nhân". Người ngu ấy, này các
Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba
loại khổ ưu. Này các Tỷ-kheo, nếu người
ngu ngồi giữa hội chúng, hay
ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay
tại ngă (ba, ngă tư) đường, tại đấy
(nếu) có người nghĩ đến câu chuyện thích
hợp về người ấy. Nếu người ngu,
này các Tỷ-kheo, sát sanh, lấy của không cho, theo tà
hạnh trong dâm dục, nói láo, say rượu men,
rượu nấu, thường ở đây, này các Tỷ-kheo,
người ngu ấy suy nghĩ như sau :
"Các người ấy nghĩ đến câu chuyện
thích hợp về ta, v́ những pháp ấy thật có
nơi ta và ta có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo,
đây là loại khổ ưu thứ nhất, người
ngu cảm thọ ngay trong hiện
tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ngu thấy các vua chúa sau khi bắt tên trộm
cướp có phạm tội liền áp dụng nhiều
h́nh phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh
bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt
tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo
tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi;
họ dùng h́nh phạt vạc dầu, họ dùng h́nh
phạt bối đồi h́nh (xẻo đỉnh
đầu thành h́nh con ṣ) họ dùng h́nh phạt la hầu
khẩu h́nh, hỏa man h́nh (lấy lửa đốt thành
ṿng hoa), chúc thủ h́nh (đốt tay), khu hành h́nh (lấy
rơm bện lại rồi siết chặt) b́ y h́nh
(lấy vỏ cây làm áo), linh dương h́nh (h́nh phạt con
dê núi), câu nhục h́nh (lấy câu móc vào thịt), tiền
h́nh (cắt thịt thành h́nh đồng tiền), khối
trấp h́nh, chuyển h́nh, cao đạp đài, họ
tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ
đóng cọc những người sống, họ lấy
gươm chặt đầu. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, người ngu nghĩ như sau :
"Do nhân các ác hành như vậy, các vua chúa sau khi bắt
tên trộm cướp có phạm tội, liền áp
dụng những h́nh phạt sai khác. Họ đánh bằng
roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng
côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay
chân.. họ lấy
gươm chặt đầu. Những pháp
ấy có thật nơi ta và ta có những pháp ấy. Nếu các vua chúa biết về ta, các vua chúa
ấy sau khi bắt ta liền áp dụng nhiều h́nh
phạt sai khác. Họ đánh bằng
roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng
côn... họ lấy gươm chặt đầu. "Này các Tỷ-kheo, đây là loại khổ
ưu thứ hai, người ngu cảm thọ ngay trong
hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi người
ngu leo ngồi trên ghế, hay trên giường, hay nằm
trên đất, lúc bấy giờ, những ác nghiệp
người ấy làm từ trước, như thân ác hành,
khẩu ác hành, ư ác hành, treo nằm, treo áp, treo đè lên
người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào buổi
chiều, những bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp,
treo đè trên đất; cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
khi người ngu ngồi trên ghế, hay ngồi trên
giường, hay nằm dưới đất, trong khi
ấy các nghiệp quá khứ của người ấy,
tức là thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, treo nằm, treo
áp, treo đè trên người ấy. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, người ngu suy nghĩ
như sau: "Thật sự ta không làm điều
phước, không làm điều thiện, không làm
điều chống lại sợ hăi, làm điều ác, làm
điều hung bạo, làm điều tội lỗi. Do
không làm điều phước, không làm điều
thiện, không làm điều chống lại sợ hăi, do
làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều
tội lỗi nên phải đi đến ác thú; ác thú
ấy sau khi chết ta phải đi". Người
ấy sầu muộn, than van, than khóc, đấm ngực,
rên la và rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là sự khổ ưu thứ ba, ngay trong hiện
tại, người ngu (phải) cảm
thọ.
Này các Tỷ-kheo, kẻ ngu kia
sau khi làm thân ác hành, sau khi làm khẩu ác hành, sau khi làm ư ác
hành, khi thân hoại mạng
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo
khác bạch
–
– Có thể được, này Tỷ-kheo. Ví
như, này Tỷ-kheo, có người bắt được
một tên trộm cắp, dẫn đến trước
mặt vua và thưa : "Tâu Đại
vương, đây là một tên trộm cướp
phạm tội cho Ngài ! Hăy h́nh phạt nó
như Đại vương muốn". Và vị
vua ấy nói như sau về tên trộm cướp ấy : "Này các Ông hăy đi và vào buổi
sáng hăy đâm người này với một trăm ngọn
giáo". Và vào buổi sáng, họ đâm người ấy
với một trăm ngọn giáo. Rồi đến
trưa, vua nói như sau : "Này các Ông,
người ấy ra sao ?" – "Tâu
Đại vương, nó vẫn c̣n sống".
Rồi vua lại nói như sau về tên trộm
cướp ấy : "Này các Ông, hăy
đi và vào buổi trưa, hăy đâm người này
với một trăm ngọn giáo". Và vào
buổi trưa, họ đâm người ấy với
một trăm ngọn giáo. Rồi đến
chiều, vua nói như sau : "Này các Ông,
người ấy ra sao ?" – "Tâu
Đại vương, nó vẫn c̣n sống".
Rồi vua lại nói như sau về người kia : "Này các Ông, vào buổi chiều,
họ đâm người này với một trăm ngọn
giáo". Và vào buổi chiều, họ đâm
người ấy với một trăm ngọn giáo.
Này các Tỷ-kheo, Ông nghĩ thế nào
? Người ấy bị đâm ba trăm ngọn
giáo, do nhân duyên ấy, có cảm thọ khổ ưu không ?
–
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Cái ǵ lớn hơn, ḥn đá này, to
bằng bàn tay do ta lượm lên, hay núi Tuyết Sơn
(Himava) vua các loại núi ?
– Thật là quá nhỏ, bạch
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người
ấy bị đâm bởi ba trăm ngọn giáo, do nhân
duyên ấy cảm thọ khổ ưu. Khổ
ưu ấy so sánh với khổ ưu ở Địa
ngục không đáng kể ǵ, không bằng một phần
ngàn vạn lần, không thể so sánh được. Này các Tỷ-kheo, các người giữ
địa ngục bắt người ấy chịu h́nh
phạt gọi là năm cọc (pancavidhabandhanam).
Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào
một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ
đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt
nung đỏ đóng vào bàn chân, họ lấy cọc
sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa
ngực. Người ấy ở đây thọ
lănh các cảm giác đau đớn, thống khổ,
khốc liệt. Nhưng người ấy không có
thể mệnh
Này các Tỷ-kheo, với rất
nhiều pháp môn, Ta nói về Địa ngục, nhưng
thật khó nói cho được đầy đủ, này
các Tỷ-kheo, v́ đau khổ ở Địa ngục quá
nhiều.
Này các Tỷ-kheo, có những loại sanh vật
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn
cỏ. Chúng ăn những cỏ
ướt và khô, với răng nhai nghiền, cỏ
ấy. Này các Tỷ-kheo, những sanh vật ấy
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn cỏ là ǵ ? Các loại ngựa, trâu, ḅ, lừa, dê, nai
hay các sanh vật khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, ăn cỏ. Này các Tỷ-kheo,
người ngu ấy do trước kia hưởng
thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp,
ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra cọng
trú với các loài hữu t́nh ấy, những loại hữu
t́nh ăn cỏ.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật thuộc
loại bàng sanh, có hơi thở và ăn
phân. Chúng ngửi được mùi phân từ
đường xa, liền chạy tới, nghĩ rằng : "Chúng ta sẽ ăn ở
đây, chúng ta sẽ ăn ở đây". Ví như các
Bà-la-môn chạy đến, ngửi được mùi
lễ tế sanh, nghĩ rằng :
"Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn
ở đây". Cũng vậy này các Tỷ-kheo, có các
loại sanh vật, thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, và ăn phân. Chúng ngửi
được mùi phân từ đường xa, liền
chạy tới, nghĩ rằng :
"Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn
ở đây". Và này các Tỷ-kheo, các sanh vật ấy,
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở và ăn phân là ǵ ? Các loại gà, heo, chó, chó rừng (giả
can), hay tất cả các sanh vật khác, thuộc loại
bàng sanh, có hơi thở, ăn phân. Này
các Tỷ-kheo, người ngu ấy do
trước kia hưởng thọ ở đây, do
trước kia làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân
hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, có các loại sanh
vật thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra
trong bóng tối, già trong bóng tối và chết trong bóng
tối. Này các Tỷ-kheo,
những sanh vật ấy, thuộc loại bàng sanh, có
hơi thở, sanh ra trong bóng tối, già trong bóng tối và
chết trong bóng tối là ǵ ? Các loại côn trùng, con sùng, con ḍi, con sâu đôm
đốm và các loại sanh vật khác thuộc loại
bàng sanh, có hơi thở, sống trong bóng tối. Này
các Tỷ-kheo, người ngu ấy do trước kia hưởng
thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp
ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra cọng
trú với các loài hữu t́nh ấy tức là các loại hữu
t́nh sinh ra trong bóng tối, già trong bóng tối, chết trong
bóng tối.
Này các Tỷ-kheo, có những sanh
vật, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sinh ra
trong nước, già trong nước, chết trong
nước. Và này các
Tỷ-kheo, các sanh vật ấy thuộc loại bàng sanh, có
hơi thở, sanh ra trong nước, già trong nước,
chết trong nước là ǵ ? Các
loại cá, rùa, cá sấu, hay các sanh vật khác, thuộc
loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong nước, già
trong nước, chết trong nước. Này các Tỷ-kheo,
người ngu ấy, do trước kia hưởng thọ
ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp ở
đây, sau khi thân hoại mạng chung sanh ra cọng trú
với các loài hữu t́nh ấy, tức là các loài hữu
t́nh sanh ra trong nước, già trong nước, chết trong
nước.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật
thuộc loài bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong bất
tịnh, già trong bất tịnh, chết trong bất
tịnh. Và này các
Tỷ-kheo, các sanh vật ấy, các loại thuộc bàng
sanh, có hơi thở, sanh ra trong bất tịnh, già trong
bất tịnh, chết trong bất tịnh là ǵ ? Này các Tỷ-kheo, các loài hữu t́nh nào sanh
ra trong cá thúi hay già trong cá thúi, hay chết trong cá thúi, hay trong
tử thi thúi, hay trong đồ ăn thúi, hay trong vũng
nước, hay sinh ra trong đầm nước
(nhớp)... già... hay chết trong đầm nước
(nhớp). Này các Tỷ-kheo, người ngu ấy, do
trước kia hưởng thọ ở đây, do
trước kia làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh ra cọng trú với các loài
hữu t́nh ấy, tức là các loài hữu t́nh sanh ra trong
bất tịnh, già trong bất tịnh, chết trong
bất tịnh.
Này các Tỷ-kheo, với rất
nhiều pháp môn, Ta nói về các loại bàng sanh, nhưng
thật khó nói cho được đầy đủ, này
các Tỷ-kheo, v́ đau khổ ở loài bàng sanh quá
nhiều.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
quăng một khúc cây có một cái lỗ trên biển,
một ngọn gió từ phương Đông thổi nó trôi
qua phía tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi
nó trôi qua phía đông; một ngọn gió từ phương
Bắc thổi nó trôi qua phía nam; một ngọn gió từ
phương Nam thổi nó trôi qua phía bắc. Rồi
có một con rùa mù, cứ một trăm năm mới
trồi đầu lên một lần. Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Con
rùa mù ấy có thể đút cổ nó vào trong lỗ cây này
được không ?
– Nếu có được chăng nữa, bạch
– C̣n mau hơn, này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy có
thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia;
nhưng này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố rằng c̣n khó hơn
được làm người trở lại, một khi
người ngu bị rơi vào đọa xứ. V́ sao vây ? V́ ở đấy, này các Tỷ-kheo,
không có pháp hành, an tịnh hành, thiện
hành, phước hành. Này các Tỷ-kheo, ở đây chỉ
có ăn lẫn nhau và ăn thịt
kẻ yếu. Và này các Tỷ-kheo, nếu người ngu
ấy sau một thời gian rất lâu dài, có
được làm người trở lại, thời
người ấy sẽ sanh trong gia đ́nh thấp hèn,
trong gia đ́nh hạ cấp, trong gia đ́nh kẻ đi
săn, trong gia đ́nh kẻ đan tre, trong gia đ́nh
người làm xe, hay trong gia đ́nh người đổ
phân, trong những gia đ́nh nghèo khốn, không đủ
để uống hay để ăn, cho đến
miếng vải che lưng cũng khó t́m được.
Lại nữa, người ấy thô xấu, khó nh́n, lùn
thấp, hay bệnh, mù hay có tật, què hay bị bại, người
ấy không có thể được các đồ ăn,
đồ uống, vải xa, ṿng hoa, hương liệu,
giường nằm, chỗ trú xứ và ánh sáng.
Người ấy hành thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành; v́
hành thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành; sau khi thân hoại
mạng
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
đánh bạc, trong canh đổ bạc đầu tiên,
mất con, mất vợ, mất tất cả tài sản,
lại cuối cùng phải tù tội. Nhưng này các
Tỷ-kheo, c̣n nhỏ bé canh đổ bạc ấy, do canh
đổ bạc đầu tiên này, người ấy
mất con, mất vợ, mất tất cả tài sản,
lại cuối cùng phải tù tội. Và canh bạc này to
lớn hơn, với canh bạc ấy người ngu, do thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, sau khi
thân hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, có ba đặc
điểm, đặc tướng, và đặc ấn
này của người trí. Thế nào là ba ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người trí tư duy thiện
tư duy, nói lời thiện ngữ, và hành các thiện hành.
Này các Tỷ-kheo, nếu người trí không tư duy
thiện tư duy, không nói lời thiện ngữ, không hành
các thiện hành, thời làm sao kẻ trí biết
được người ấy : "Vị này là
người trí, là bậc Chân nhân". ? Và v́ rằng, này các
Tỷ-kheo, người trí tư duy thiện tư duy, nói
lời thiện ngữ, hành thiện hành, do vậy
người trí biết người ấy : "Vị này
là người có trí, là bậc Chân nhân". Người
trí ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại cảm
thọ ba loại lạc hỷ. Này các Tỷ-kheo,
nếu người trí ngồi giữa hội chúng, hay
ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay
tại ngă (ba, ngă tư) đường, tại đấy
(nếu) có người nghĩ đến câu chuyện thích
hợp về người ấy; nếu người trí,
này các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy
của không cho, từ bỏ tà hành trong dâm dục, từ
bỏ nói láo, từ bỏ say rượu men rượu
nấu, thời ở đây này các Tỷ-kheo, người
trí ấy suy nghĩ như sau : "Các người ấy
nghĩ đến câu chuyện thích hợp về ta, v́
những pháp ấy thật có nơi ta và ta có những pháp
ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại
lạc hỷ thứ nhất, người trí cảm
thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
người trí thấy các vua chúa, sau khi bắt tên trộm
cướp phạm tội, liền áp dụng nhiều h́nh
phạt sai khác.
Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy,
họ đánh bằng côn... (như
trên)... họ lấy gươm chặt đầu. Ở
đây, này các Tỷ-kheo người trí suy nghĩ như sau : "Do nhân các ác hành như vậy, các vua
chúa sau khi bắt tên trộm cướp có phạm tội,
liền áp dụng những h́nh phạt sai khác. Họ
đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy... (như trên)... họ lấy gươm chặt
đầu, những pháp ấy thật không có nơi ta, và
ta không có những pháp ấy". Này các
Tỷ-kheo, đây là loại lạc hỷ thứ hai,
người trí cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi người trí leo
ngồi trên ghế, hay trên giường, hay nằm trên
đất, lúc bấy giờ những thiện nghiệp
người ấy làm từ trước, như thân thiện
hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành treo nằm, treo áp,
treo đè trên người ấy. Ví như, này các
Tỷ-kheo, vào buổi chiều, những bóng các đỉnh
núi treo nằm, treo áp, treo đè trên đất; cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi người trí ngồi trên
ghế hay ngồi trên giường, hay nằm dưới
đất, trong khi các nghiệp quá khứ của
người ấy tức là thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác
hành treo nằm, treo áp, treo đè trên người ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người trí suy nghĩ
như sau : "Thật sự ta không làm
điều ác, không làm điều hung bạo, không làm
điều tội lỗi, lại làm điều
phước, làm điều thiện, làm điều chống
sợ hăi. Do không làm điều ác, không làm điều hung
bạo, không làm điều tội lỗi, do làm
điều phước, làm điều thiện, làm
điều chống sợ hăi, được đi
đến (thiện) thú nào, (thiện) thú ấy sau khi
chết, ta được đi". Vị
ấy không sầu muộn, không than van, không than khóc, không
đấm ngực, rên la và rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây là sự lạc hỷ
thứ ba, ngay trong hiện tại người trí
được cảm thọ. Này các Tỷ-kheo,
kẻ trí kia sau khi làm thân thiện hành,
sau khi làm khẩu thiện hành, sau khi làm ư thiện hành, sau
khi thân hoại mạng
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo
khác bạch
–
– Có thể được, này Tỷ-kheo. Ví
như, này các Tỷ-kheo, vị vua Chuyển luân có
đầy đủ bảy món báu và bốn như ư
đức, do nhân duyên ấy cảm thọ lạc hỷ.
Thế nào là bảy ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vua Sát đế lỵ, đă làm lễ quán
đảnh, vào ngày Bố-tát trăng rằm sau khi gội
đầu, lên cao điện để trai giới,
thời Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn
cọng xa, với vành xe, trục xe, đầy đủ
mọi bộ phận. Thấy vậy, vua Sát đế
lỵ đă làm lễ quán đảnh suy nghĩ: "Ta nghe
như vầy : Khi một vị vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh vào ngày
Bố-tát trăng rằm, sau khi gội đầu, lên cao
điện để trai giới, nếu có Thiên luân báu
hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe và
trục xe, đầy đủ mọi bộ phận,
thời vị vua ấy là Chuyển luân vương. Như vậy ta có thể là Chuyển luân
vương".
Này các Tỷ-kheo, rồi vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đắp thượng y trên một
vai, tay trái cầm b́nh nước và với tay phải
rưới nước trên xe báu và nói : "Này xe báu hăy
lăn khắp. Này xe báu hăy chinh phục !"
Và này các Tỷ-kheo, xe báu lăn về
hướng Đông và vua Sát-đế-lỵ đă làm
lễ quán đảnh cùng với bốn loại binh
chủng
Này các Tỷ-kheo, các địch vương ở
phương Đông đến yết kiến vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, và nói : "Hăy đến đây, Đại
vương !" Hoan nghênh, đón mừng Đại vương ! Tâu Đại
vương, tất cả đều thuộc của Ngài.
Đại vương hăy giáo huấn cho chúng tôi
!"
Vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh, nói rằng: "Không được sát sanh. Không được lấy của không cho. Không được tà dâm. Không
được nói láo. Không
được uống rượu. Hăy ăn
uống cho thích nghi".
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch
vương ở phương Đông đều trở
thành chư hầu vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, rồi xe báu ấy lặn
xuống biển lớn ở phương Đông rồi
nổi lên và lặn về phương Nam... lặn
xuống biển lớn ở phương Nam, rồi
nổi lên và lặn về phương Tây... lặn
xuống biển lớn ở phương Tây.. , rồi
nổi lên và lặn về phương Bắc và vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh cùng
với bốn loại binh chủng
Này các Tỷ-kheo, các địch vương ở
phương Bắc đến yết kiến vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh và nói : "Hăy đến đây, Đại
vương ! Hoan nghênh, đón mừng Đại vương ! Tâu Đại
vương; tất cả đều thuộc của Ngài,
tất cả đều thuộc của Ngài.
Đại vương hăy giáo huấn cho chúng tôi
!"
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch
vương ở phương Bắc đều trở
thành chư hầu vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, xe báu ấy sau khi chinh phục
trái đất cho đến hải biên, liền trở
về kinh đô Ku-savati, và đứng trước pháp
đ́nh, trên cửa nội cung như một trang bảo cho
nội cung của vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ
quán đảnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự
xuất hiện của xe báu của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, voi báu xuất
hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh, thuần trắng, bảy xứ kiên
cường, có thần lực, phi hành trên hư không và tên
là Uposatha (Bố-tát). Thấy (voi báu), vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, sanh tâm
hoan hỷ và nghĩ: "Lành thay được cỡi con
voi này, nếu nó chịu sự điều ngự" Và
này các Tỷ-kheo, như một con hiền tượng quư
phái chịu sự điều ngự lâu ngày, con voi báu
ấy tự đến để chịu điều
ngự. Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh,
để thử voi báu này, sáng sớm cỡi voi đi
khắp quả đất cho đến hải biên rồi
về lại kinh đô Kusavati kịp giờ ăn sáng. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất
hiện voi báu của vua Sát-đế-lỵ đă làm
lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ngựa báu
xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ
quán đảnh, thuần trắng, đầu đen như
quạ, bờm ngựa màu đen, có thần lực, phi hành
trên hư không và tên là Valahaka. Thấy (ngựa báu), vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, sanh tâm
hoan hỷ và nghĩ : "Tốt
đẹp thay được cỡi con ngựa này nếu
nó chịu sự điều ngự". Và này các
Tỷ-kheo, như một con hiền mă quư phái, chịu
sự điều ngự lâu ngày, con ngựa báu ấy
tự đến để chịu sự điều
ngự. Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh
để thử con ngựa báu này, sáng sớm liền
cỡi ngựa, đi khắp quả đất cho
đến hải biên, rồi về lại kinh đô
Kusavati kịp giờ ăn sáng. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là xuất hiện ngựa báu
của vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, châu
báu lại xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă
làm lễ quán đảnh. Châu báu ấy là lưu ly châu,
sáng suốt, thuần chất, có tám mặt, khó dũa, khó
mài, thanh tịnh, trong suốt, hoàn hảo mọi
phương diện. Này các Tỷ-kheo, hào quang châu báu này
chiếu sáng cùng khắp một do tuần. Này các
Tỷ-kheo, thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đă làm
lễ quán đảnh để thử châu báu này đă cho
dàn bày bốn binh chủng, đặt bảo châu cao trên quân
kỳ và có thể tiến quân trong đêm tối âm u. Này các
Tỷ-kheo, mọi người trong làng ở xung quanh
đều bắt đầu làm việc, tưởng
rằng trời đă sáng rồi. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện châu báu
của vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh.
Này các Tỷ-kheo, nữ báu lại xuất
hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh, mỹ miều, khả ái, cử chỉ
đoan trang, màu da tuyệt mỹ, không quá cao, không quá
thấp, không béo, không gầy, không quá đen, không quá
trắng, vượt trên dung sắc loài Người, ánh
sáng bằng dung sắc chư Thiên. Này các
Tỷ-kheo, thân xác nữ báu này là (êm mịn) như bông,
như nhung. Này các Tỷ-kheo, khi trời lạnh, chân tay nữ báu này trở thanh ấm áp; khi
trời nóng, trở thành lạnh mát. Này các Tỷ-kheo, thân
nữ báu tỏa mùi
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, cư sĩ báu
xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ
quán đảnh, chứng được thiên nhăn, do
nghiệp dị thục sanh và nhờ thiên nhăn này có thể
thấy châu báu chôn cất có chủ hay không có chủ. Cư
sĩ báu này đến vua Sát-đế-lỵ đă làm quán
đảnh và nói :
– "Tâu Đại vương,
Đại vương chớ có lo âu, thần sẽ xử
lư thích nghi tài sản Đại vương".
Này các Tỷ-kheo, thuở xưa vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh,
muốn thử cư sĩ báu này, liền cỡi
thuyền, chèo ra giữa sông Hằng và bảo cư sĩ
báu :
"- Này cư sĩ, ta cần vàng.
"- Tâu Đại vương, hăy
cho chèo thuyền gần bờ nào cũng được.
"- Này cư sĩ, ta cần vàng
ngay tại đây.
Này các Tỷ-kheo, khi ấy cư sĩ báu thọc
hai tay xuống nước nhắc lên một ghè đầy
cả vàng ṛng rồi tâu với vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh :
"- Tâu Đại vương, như vậy
đă đủ chưa ? Tâu Đại
vương, làm như vậy đă được chưa ?"
Vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh trả lời :
"- Này Cư sĩ, như vậy
là đủ. Này
Cư sĩ, làm như vậy là được rồi.
Này Cư sĩ, cúng dường như vậy
là được rồi".
Này các Tỷ-kheo, như vâ﹠là
sự xuất hiện cư sĩ báu của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Lai nữa, này các Tỷ-kheo, tướng quân báu
xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ
quán đảnh, có học thức, thông minh, sáng suốt, có
khả năng khuyến cáo vua Sát-đế-lỵ đă làm
lễ quán đảnh, khi đáng tiến th́ tiến, khi
đáng lùi th́ lùi, khi đáng dừng th́ dừng :
Vị này đến tâu vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh :
"- Tâu Đại vương,
Đại vương chớ có lo âu, thần sẽ cố
vấn Đại vương".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là
sự xuất hiện tướng quân báu của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh có
đầy đủ bảy báu như vậy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh có
đầy đủ bốn như ư đức. Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh
đẹp trai, khả ái, cử chỉ thanh lịch,
sắc diện tuyệt luân, thấy xa hơn mọi
người. Này
các Tỷ-kheo, đó là như ư đức thứ nhất
của vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh sống
lâu, tuổi thọ thắng xa các người khác. Này các Tỷ-kheo,
đó là như ư đức thứ hai của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh ít
bệnh tật, ít tai ương thể
nhiệt không quá lạnh, không quá nóng, được quân
phân để điều ḥa sự tiêu hóa, thắng xa các
người khác. N覣224;y các
Tỷ-kheo, đó là như ư đức thứ ba của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ, đă làm lễ quán đảnh
được các Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, như
người cha được các người con ái kính và
yêu mến; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh
được các Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, các vị Bà-la-môn và Gia chủ
được vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh ái kính và yêu mến. Này các
Tỷ-kheo, như những người con được
người cha ái kính và yêu mến; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia chủ được vua
Sát-đế-lỵ, đă làm lễ quán đảnh ái kính
và yêu mến. Thuở xưa, này các
Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh đi đến hoa viên cùng với bốn
loại binh chủng. Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia
chủ đến vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ
quán đảnh và tâu rằng:
"- Tâu Đại vương, hăy cho đi
chậm chậm để chúng tôi có thể chiêm
ngưỡng lâu dài hơn. ".
Này các Tỷ-kheo nhưng vua Sát-đế-lỵ
đă làm lễ quán đảnh lại ra lệnh cho
người đánh xe:
"- Này anh Đánh xe, hăy
đánh xe chậm chậm đủ để ta có thể
thấy các vị Bà-la-môn và Gia chủ lâu dài hơn".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là
như ư đức thứ tư của vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh.
Và này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đă
làm lễ quán đảnh suy nghĩ :
"Nay ta hăy cho xây những hồ sen giữa các hàng cây tala,
cứ cách khoảng một trăm cung tầm !"
Này các Tỷ-kheo, vua Chuyển luân có
đầy đủ bốn như ư đức này.
Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ?
–
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Cái ǵ lớn hơn ?
Ḥn đá này, to bằng bàn tay do Ta lượm lên hay núi
Tuyết Sơn, vua các loại núi ?
– Thật là quá nhỏ, bạch Thế Tôn là ḥn
đá này, lớn bằng bàn tay, do Thế Tôn lượm lên,
so sánh với Tuyết Sơn vua các loại núi, nó không
đáng kể ǵ, nó không bằng một phần ngàn vạn
lần (của núi Tuyết), nó không thể so sánh
được.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vua Chuyển
luân với bảy món báu và bốn như ư đức, do
nhân duyên ấy cảm thọ lạc hỷ, lạc hỷ
ấy so sánh với Thiên lạc không đáng kể ǵ, không
bằng một phần ngàn vạn lần, không thể so
sánh được. Này các Tỷ-kheo, người có trí
ấy, nếu sau một thời gian rất lâu dài,
được sinh làm người, người ấy
sẽ sinh ra trong một gia đ́nh cao quí
Sát-đế-lỵ đại gia, hay Bà-la-môn đại
gia, hay Cư sĩ đại gia giàu có, tài sản nhiều,
tài nguyên nhiều, vàng và bạc phong phú, tài vật phong phú,
lúa thóc phong phú. Hơn nữa, vị ấy
đẹp trai, khả ái, dễ thương, đầy
đủ dung sắc tối thượng. Vị
ấy nhận được đồ ăn, đồ
uống, vải mặc, xe cộ, ṿng
hoa, hương liệu, giường, trú xứ và ánh sáng. Vị ấy sống với thân thiện hành,
khẩu thiện hành, ư thiện hành. Sống với
thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, sau khi
thân hoại mạng
130.
(Devadutasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đa-lâm), tại tinh xá ông
Anathapindika (
– Ví như, này các Tỷ-kheo, có hai nhà có cửa;
ở đây, một người có mắt đứng chính
giữa có thể thấy những người đi vào
nhà, đi ra khỏi nhà, đi qua, đi lại. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Ta với thiên nhăn thanh tịnh,
siêu nhân, thấy các chúng hữu t́nh chết đi sanh
lại, hạ liệt, cao sang, đẹp trai, xấu h́nh,
thiện thú, ác thú, tùy theo hạnh nghiệp của họ,
(và Ta nghĩ) : "Các bậc hữu t́nh này do thành tựu
thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, không
công kích các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ tŕ nghiệp
phù hợp chánh kiến, các vị ấy sau khi thân hoại
mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên
giới, ở đời này. Hay các vị hữu t́nh này, do
thành tựu thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư
thiện hành, không công kích các bậc Thánh, có chánh kiến,
thọ tŕ nghiệp phù hợp với chánh kiến, các
vị ấy sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh ra giữa loài Người. C̣n các
hữu t́nh, do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành,
công kích các bậc Thánh, có tà kiến, thọ tŕ nghiệp phù
hợp với tà kiến, các vị ấy sau khi thân
hoại mạng chung, bị sanh vào cơi ngạ quỹ
(pettivisaya). Hay các hữu t́nh này, do thành tựu thân ác hành,
khẩu ác hành, ư ác hành, công kích các bậc Thánh, có tà kiến,
thọ tŕ nghiệp phù hợp tà kiến, các hữu t́nh sau
khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào các loại bàng sanh.
Hay các hữu t́nh này, do thành tựu thân ác hành... (như trên)... Sau khi thân hoại mạng
Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ
Địa ngục, sau khi bắt giữ người
ấy với nhiều cánh tay, dẫn
người ấy đến trước vua Yama (và
thưa):
"- Tâu Đại vương,
người này không có từ tâm, không xứng là Sa-môn, không
xứng là Bà-la-môn, không kính trọng các vị lớn tuổi
trong gia đ́nh.
Đại vương hăy trừng phạt nó
!
Này các Tỷ-kheo, vua Yama, chất vấn
người ấy, cật vấn, thẩm vấn
người ấy về Thiên sứ thứ nhất
: "Này người kia, Ngươi có thấy Thiên
sứ thứ nhất đă hiện ra giữa loài
Người không ?"
Người ấy nói : "
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật
vấn và thẩm vấn người kia về Thiên sứ
thứ nhất, vua Yama mới chất vấn, cật
vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ hai:
"Này người kia, Ngươi có thấy giữa loài
Người, Thiên sứ thứ hai hiện ra không ?"
Người ấy đáp : "
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật
vấn, thẩm vấn người kia về Thiên sứ
thứ hai, vua Yama mới chất vấn, cật vấn,
thẩm vấn về Thiên sứ thứ ba : "Này
Người kia, Ngươi có thấy giữa loài
Người, Thiên sứ thứ ba hiện ra không ?" Người
ấy đáp : "
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật
vấn thẩm vấn người kia về Thiên giới
thứ ba, vua Yama mới chất vấn, cật vấn,
thẩm vấn về chư Thiên thứ tư : "Này
người kia, Ngươi có thấy giữa loài
Người Thiên sứ thứ tư hiện ra không ?"
Người ấy đáp: "
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật
vấn, thẩm vấn người kia về Thiên giới
thứ tư, vua Yama mới chất vấn, cật
vấn, thẩm vấn về Thiên giới thứ năm :
"Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài
Người Thiên sư thứ năm hiện ra không ?
"Người ấy đáp : "
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi
chất vấn, cật vấn, thẩm vấn,
người ấy về Thiên sứ thứ năm, vua Yama
giữ im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi
giữ Địa ngục bắt người ấy
chịu h́nh phạt gọi là năm cọc
(Pancavidhabandhanam), họ lấy cọc sắt nung
đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc
sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân,
họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn
chân thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ
đóng vào giữa ngực, Người ấy ở đây
thọ lănh các cảm giác đau đớn, thống
khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có
thể mệnh
Này các Tỷ-kheo, từ tường
phía Đông của Đại địa ngục ấy,
những ngọn lửa bừng cháy lên được
thổi tạt đến tường phía Tây. Những ngọn
lửa bừng cháy lên từ tường phía Tây
được thổi tạt đến tường phía
Đông. Những ngọn lửa bừng
cháy lên từ tường phía Bắc được
thổi tạt đến tường phía Nam. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ
tường phía Nam được thổi tạt
đến tường phía Bắc. Những ngọn
lửa bừng cháy lên từ phía Dưới,
được thổi tạt lên phía Trên. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ phía
Trên, được thổi tạt xuống phía
Dưới. Người ấy ở
đây cảm thọ những cảm giác đau
đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng
người ấy không có thể mệnh
Này các Tỷ-kheo, rồi có một
thời rất lâu dài, khi cửa phía Đông của
Đại địa ngục được mở ra. Người ấy
chạy vào đấy rất nhanh và mau lẹ. Khi người ấy chạy rất nhanh và mau
lẹ, da ngoài bị cháy, da trong bị cháy, thịt bị
cháy, dây gân bị cháy, xương bị khói xông đen.
Sự trốn thoát của người ấy
là như vậy. Này các Tỷ-kheo, dù cho
người ấy có cố gắng rất nhiều,
cửa vẫn đóng chống lại người ấy.
Tại đây người ấy cảm
thọ những cảm giác đau đớn, thống
khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy
không có thể mệnh
Rồi này các Tỷ-kheo, có một thời rất
lâu dài, khi cửa phía Tây được mở... (như trên)... cửa phía Bắc
được mở... (như trên)...
cửa phía Nam được mở. Người
ấy liền chạy vào đấy rất nhanh và mau
lẹ. Khi người ấy chạy
rất nhanh và mau lẹ, da ngoài bị cháy, da trong bị
cháy, thịt bị cháy, dây gân bị cháy, xương bị
khói xông đen. Sự trốn thoát
của người ấy là như vậy. Này các Tỷ-kheo, dầu cho người ấy có
cố gắng rất nhiều, cửa vẫn đóng
chống lại người ấy. Tại
đây người ấy cảm thọ những cảm
giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt.
Nhưng người ấy không có thể mệnh
Người ấy đi ra khỏi
cửa Địa ngục ấy.
Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại
địa ngục là Đại Phấn nị Địa
ngục (Guthaniraya). Người ấy rơi
vào Địa ngục này. Này các Tỷ-kheo, tại
Phấn nị Địa ngục ấy, các chúng sanh
với miệng như mũi kim cắt đứt da ngoài;
sau khi cắt đứt da ngoài, chúng cắt đứt da
trong; sau khi cắt dứt da trong, chúng cắt đứt
thịt; sau khi cắt đứt thịt, chúng cắt
đứt dây gân; sau khi cắt đứt dây gân, chúng
cắt đứt xương; sau khi cắt đứt
xương, chúng cắt đứt xương tủy. Ở đây, người ấy cảm thọ
những cảm giác đau đớn, thống khổ,
khốc liệt. Nhưng người ấy không có
thể mệnh
Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại
địa ngục Phấn nị ấy là Đại
địa ngục Nhiệt khôi (Than hừng-Kukkulaniraya). Người ấy rơi vào ở đấy.
Ở đấy, người ấy cảm
thọ những cảm giác đau đớn, thống
khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy
không thể mệnh
Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại
địa ngục Nhiệt khôi là Đại Châm thọ lâm
(Sambalivanam) cao một do tuần, với những gai
nhọn dài mười sáu ngón tay, cháy đỏ, cháy thành
ngọn, cháy đỏ rực. Họ bắt người
ấy
Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Châm thọ lâm
là Đại Kiếm diệp lâm (Rừng lá
gươm-Asipattavanta). Người ấy vào
trong ấy. Ở đấy, các lá cây, do gió lay
động, cắt đứt tay
của người ấy, cắt đứt chân, cắt
đứt tay chân, cắt đứt tai, cắt đứt
mũi, cắt đứt tai mũi. Ở
đây, người ấy cảm thọ những cảm
giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt.
Nhưng người ấy không có thể mạng
Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Kiếm
diệp lâm là Đại Khôi hà (Sông vôi-Kharodakanadi). Người ấy rơi vào trong ấy.
Tại đấy người ấy bị trôi thuận
Rồi này các Tỷ-kheo, những người coi
giữ Địa ngục, câu người ấy lên
với móc câu, đặt người ấy trên đất
và nói với người ấy : "Này
Người kia, Ngươi muốn ǵ ?" Người
ấy nói : "Thưa các Ngài, tôi đói
bụng". Rồi này các Tỷ-kheo, các
người coi giữ Địa ngục lấy cọc
sắt nung đỏ cạy miệng người ấy và
nhét vào miệng người ấy những cục
đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn,
cháy đỏ rực. Môi người
ấy bị cháy, miệng bị cháy, cổ họng bị
cháy, ngực bị cháy. Và kéo
Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi
giữ Địa ngục nói với người ấy : "Này Người kia, Ngươi
muốn ǵ ?" Người ấy nói :
"Thưa các Ngài, tôi khát nước". Rồi
này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Địa
ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy
miệng người ấy ra, và đổ vào miệng
người ấy nước đồng nấu sôi, cháy
đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Môi ngươi ấy bị cháy, miệng bị
cháy, cổ họng bị cháy, ngực bị cháy. Và
kéo
Rồi này các Tỷ-kheo, các
người coi giữ Địa ngục lại quăng
người ấy vào Đại địa ngục.
Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo,
vua Yama suy nghĩ như sau :
"Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải
thọ lănh những h́nh phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và
Như lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất
hiện ở đời, và ta có thể hầu hạ
Này các Tỷ-kheo, điều Ta đang nói không
phải Ta nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác; nhưng
điều Ta đang nói chỉ được Ta biết
mà thôi, chỉ được Ta thấy mà thôi, chỉ
được Ta hiểu mà thôi.
Dầu Thiên sứ
báo động,
Thanh niên vẫn
phóng dật,
Họ ưu
buồn lâu dài,
Sanh làm người hạ liệt.
Ở đây
bậc Chân nhân,
Được
Thiên sứ báo động,
Không bao giờ
phóng dật,
Trong diệu pháp bậc Thánh.
Thấy sợ
trong chấp thủ,
Trong hiện hữu sanh tử.
Được
giải thoát chấp thủ,
Sanh tử
được đoạn trừ,
Được yên
ổn an lạc,
Ngay hiện
tại tịch tịnh,
Mọi oán hận
sợ hăi,
Các vị ấy
vượt qua;
Mọi đau
đớn sầu khổ,
Họ đều
được siêu thoát