Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
142. KINH PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG [^]
(Dakkhinavibhangasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú
giữa ḍng họ Sakka (Thích-Ca), ở Kapilavatthu
(Ca-ty-la-vệ), tại tinh xá Nigrodha (Ni-câu-luật
– Bạch Thế Tôn, cặp y mới này do con
cắt và dệt đặc biệt cho Thế Tôn. Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn v́ ḷng từ mẫn hăy nhận
lấy cho con.
Khi được nghe nói vậy, Thế Tôn nói
với Mahapajapati Gotami:
– Này Gotami, hăy cúng dường Tăng chúng. Bà cúng dường Tăng chúng, thời Ta sẽ
được cung kính, và cả Tăng chúng cũng
vậy.
Lần thứ hai, Mahapajapati Gotami bạch Thế
Tôn:
–
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Mahapajapati
Gotami:
–
Lần thứ ba, Mahapajapati Gotami bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, cặp y mới này do con
cắt và dệt ... hăy nhận lấy cho con.
Lần thứ ba,
– Này Gotami, hăy cúng dường Tăng chúng... và
cả tăng chúng cũng vậy.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
–
– Thật là như vậy, này Ananda !
Thật là như vậy, này Ananda ! Này
Ananda, nếu do nhờ một người, mà một
người khác được quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng, thời này Ananda, Ta nói rằng người này không
có một đến ơn nào xứng đáng đối
với người kia về đảnh lễ,
đứng đậy, chấp tay, về làm những
việc thích hợp và về dâng cúng các sự cúng
dường như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Nếu do
nhờ một người mà một người khác từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ
bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ
bỏ đắm say các loại rượu men, rượu
nấu, thời này Ananda, Ta nói rằng người này không
có một đền ơn nào xứng đáng đối
với người kia... dược phẩm trị
bệnh. Này Ananda, nếu do nhờ một người mà
một người khác đầy đủ tịnh tín
bất động đối với Phật... đối với Pháp.. đầy
đủ các giới luật, thời này Ananda, Ta nói
rằng người này không có một đền ơn nào
xứng đáng đối với người kia.. dược phẩm trị bệnh. Này Ananda,
nếu do nhờ một người mà một người
khác không có nghi ngờ đối với Khổ, không có nghi
ngờ đối với Khổ tập, không có nghi ngờ
đối với Khổ diệt, không có khi ngờ
đối với con Đường đưa đến
khổ diệt, thời này Ananda, Ta nói rằng người
này không có một đền ơn nào xứng đáng
đối với người kia... dược phẩm
trị bệnh.
Tại đây, này Ananda, sau khi bố
thí cho các loại bàng sanh, cúng dường này có hy vọng
đem lại trăm phần công đức. Sau khi bố thí cho những phàm phu
Này Ananda, có bảy loại cúng dường cho
Tăng chúng. Bố thí cho cả hai Tăng
chúng với đức Phật là vị cầm đầu
là cúng dường Tăng chúng thứ nhất. Bố thí cho cả hai Tăng chúng, sau khi
đức Phật đă nhập diệt là cúng
dường Tăng chúng thứ hai. Bố
thí cho chúng Tỷ-kheo Tăng là cúng dường Tăng chúng
thứ ba. Bố thí cho chúng Tỷ-kheo ni
là cúng dường Tăng chúng thứ tư. Bố thí và nói
rằng : "Mong Tăng chúng chỉ
định cho tôi một số Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni
như vậy", là cúng dường Tăng chúng thứ
năm. Bố thí và nói rằng : "Mong
rằng chúng chỉ định cho tôi một số
Tỷ-kheo như vậy", là cúng dường Tăng
chúng thứ sáu. Bố thí và nói rằng :
"Mong rằng chúng chỉ định cho một số
Tỷ-kheo ni như vậy", là cúng dường Tăng
chúng thứ bảy.
Nhưng này Ananda, trong thời gian tương lai
sẽ có những hạn chuyển tánh (gotrabhuno), ( ?) với những áo cà-sa vàng xung quanh
cổ,
Này Ananda, có bốn sự thanh tịnh của các
loại cúng dường. Thế nào là bốn
? Này Ananda, có loại cúng dường được
thanh tịnh bởi người cho, nhưng không bởi
người nhận. Này Ananda, có loại cúng dường
được thanh tịnh bởi người nhận,
nhưng không bởi người cho. Này Ananda, có loại cúng
dường không được thanh tịnh bởi
người cho và cũng bởi người nhận. Này
Ananda, có loại cúng dường được thanh
tịnh bởi người cho và cũng bởi
người nhận.
Và này Ananda, thế nào là loại cúng dường
được thanh tịnh bởi người cho,
nhưng không bởi người nhận ?
Ở đây, này Ananda, người cho giữ giới,
Và này Ananda, thế nào là loại cúng dường
được thanh tịnh bởi người nhận,
nhưng không bởi người cho ?
Ở đây, này Ananda, người cho
Và này Ananda, thế nào là loại cúng dường
không được thanh tịnh bởi người cho và
cũng bởi người nhận ?
Ở đây, này Ananda, người cho
Và này Ananda, thế nào là loại cúng dường
được thanh tịnh bởi người cho và
cũng bởi người nhận ?
Ở đây, này Ananda, người cho giữ giới,
Này Ananda, như vậy là bốn sự thanh
tịnh của các loại cúng dường.
Ai đầy
đủ giới luật,
Bố thí cho ác
giới;
Vật thí
được đúng pháp,
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với ḷng tin
vững vàng
Vào quả lớn
của nghiệp,
Sự cúng
dường như vậy,
Thanh tịnh bởi người cho.
Ai không giữ
giới luật,
Bố thí cho
thiện giới;
Vật thí không
đúng pháp,
Với tâm không hoan
hỷ,
Không ḷng tin
vững vàng,
Vào quả lớn
của nghiệp,
Sự cúng
dường như vậy,
Thanh tịnh bởi người nhận.
Ai không giữ
giới luật,
Bố thí cho ác
giới;
Vật thí không
đúng pháp,
Với tâm không hoan
hỷ,
Không ḷng tin
vững vàng,
Vào quả lớn
của nghiệp,
Sự cúng
dường như vậy
Cả hai không thanh tịnh.
Ai đầy
đủ giới luật,
Bố thí cho
thiện giới;
Vật thí
được đúng pháp,
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với ḷng tin
vững vàng
Vào quả lớn
của nghiệp,
Ta nói bố thí
ấy
Chắc chắn có quả lớn.
Ai xuất ly tham ái
Bố thí không tham
ái,
Vật thí được đúng pháp.
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với ḷng tin
vững vàng,
Vào quả lớn
của nghiệp,
Ta nói bố thí
ấy
Là quảng đại tài thí.
143. KINH GIÁO GIỚI
CẤP CÔ ĐỘC [^]
(Anathapindikovadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana, (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông
Anathapindika (
– Hăy đến đây, này Bạn. Hăy đi
đến
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người ấy vâng đáp cư sĩ Cấp
Cô Độc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy
bạch
– Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô
Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng
bệnh. Xin cúi đầu đảnh lễ
chân
Rồi người ấy đi
đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến đảnh
lễ Tôn giả Sariputta rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống
một bên, người ấy thưa với Tôn giả
Sariputta:
– Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô
Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng
bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả
Sariputta và thưa như sau : "Thưa Tôn giả, tốt
lành thay, nếu Tôn giả Sariputta v́ ḷng từ mẫn đi
đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô
Độc".
Tôn giả Sariputta im lặng nhận
lời. Rồi Tôn giả
Sariputta đắp y, cầm y bát, cùng với Tôn giả
Ananda là thị giả, đi đến trú xứ của
cư sĩ Cấp Cô Độc, sau khi đến liền
ngồi lên chỗ đă soạn sẵn. Sau
khi ngồi, Tôn giả Sariputta nói với cư sĩ
– Này Cư sĩ, ta mong rằng Ông có
thể kham nhẫn; Ta mong rằng Ông có thể chịu
đựng. Ta mong rằng
khổ thọ được giảm thiểu, không gia
tăng, sự giảm thiểu được rơ rệt,
không có gia tăng.
– Thưa Tôn giả Sariputta, con không có thể kham
nhẫn, con không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của con gia tăng, không
có giảm thiểu; sự gia tăng rơ rệt, không có
giảm thiểu.
– Do vậy, này Cư sĩ hăy học tập
như sau : " Tôi sẽ không chấp
thủ con mắt, và tôi sẽ không có thức y cứ vào con
mắt". Này Cư sĩ, hăy học tập
như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hăy học
tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ tai, và tôi sẽ không có thức y cứ vào
tai". Này Cư sĩ, hăy học tập
như vậy. Do vậy... không chấp thủ
mũi... y cứ vào mũi... hăy học tập như
vậy. Do vậy.. không
chấp thủ lưỡi... y cứ vào lưỡi.... hăy
học tập như vậy. Do vậy... không chấp
thủ thân.. y cứ
vào thân.. hăy học tập như vậy.
Do vậy... không chấp thủ ư... y cứ vào ư.. hăy học tập như
vậy. Do vậy... không chấp thủ sắc... y cứ vào
sắc.. hăy học
tập như vậy. Do vậy... không chấp thủ
tiếng.. y cứ vào
tiếng... hăy học tập như vậy. Do vậy.. không chấp thủ
hương... y cứ vào hương... hăy học tập
như vậy. Do vậy.... không chấp thủ vị... y
cứ vào vị... hăy học tập như vậy. Do vậy...
không chấp thủ xúc... y cứ vào xúc... hăy học tập
như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ pháp, và tôi sẽ không có thức y cứ vào pháp". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ nhăn thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào
nhăn thức". Này Cư sĩ, hăy học
tập như vậy. "Tôi sẽ không chấp
thủ nhĩ thức... Tôi sẽ không chấp thủ
tỷ thức... Tôi sẽ không chấp thủ thiệt
thức... Tôi sẽ không chấp thủ thân thức... Tôi sẽ không chấp thủ ư thức, và tôi
sẽ không có thức y cứ vào ư thức". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ nhăn xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào nhăn xúc
". Này Cư sĩ, hăy học tập như
vậy. "Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ xúc...
Tôi sẽ không chấp thủ tỷ xúc... Tôi sẽ không
chấp thủ thiệt xúc... Tôi sẽ không chấp thủ
thân xúc.. Tôi sẽ không
chấp thủ ư xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào
ư xúc". Này Cư sĩ, hăy học
tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ thọ do nhăn xúc sanh khởi, và tôi sẽ không có
thức y cứ vào thọ do nhăn xúc sanh khởi. Tôi sẽ
không chấp thủ thọ do nhĩ xúc
sanh khởi... Tôi sẽ không chấp thủ thọ do
tỷ xúc sanh khởi... Tôi sẽ không chấp thủ
thọ do thiệt xúc sanh khởi... Tôi sẽ không chấp
thủ thọ do thân xúc sanh khởi... Tôi sẽ không
chấp thủ thọ do ư xúc sanh khởi và tôi sẽ không
có thức y cứ vào thọ do ư xúc sanh khởi". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ địa giới, và tôi sẽ không có thức y
cứ vào địa giới". Này Cư
sĩ, hăy học tập như vậy. "Tôi sẽ
không chấp thủ thủy giới.. Tôi
sẽ không chấp thủ hỏa giới... Tôi sẽ không
chấp thủ phong giới... Tôi sẽ không chấp
thủ hư không giới... Tôi sẽ không
chấp thủ thức giới và tôi sẽ không có thức
y cứ vào thức giới". Này
Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ... "Tôi sẽ không chấp thủ sắc, và tôi
sẽ không có thức y cứ vào sắc". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
"Tôi sẽ không chấp thủ thọ..
Tôi sẽ không chấp thủ tưởng... Tôi sẽ không
chấp thủ hành... Tôi sẽ không chấp
thủ thức và tôi sẽ không có thức y cứ vào
thức giới". Này Cư sĩ, hăy
học tập như vậy.
Do vậy.... "Tôi sẽ không
chấp thủ Hư không vô biên xứ, và tôi sẽ không có
thức y cứ vào Hư không vô biên xứ". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ Thức vô
biên xứ... Tôi sẽ không chấp thủ Vô sở hữu
xứ.. Tôi sẽ không
chấp thủ Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và
tôi sẽ không có thức y cứ vào Phi tưởng phi phi
tưởng xứ". Này Cư sĩ,
hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp
thủ thế giới ở đây và tôi sẽ không có
thức y cứ vào thế giới ở đây". Này Cư sĩ, hăy học tập như vậy.
Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ
thế giới khác, và tôi sẽ không có thức y cứ vào
thế giới khác". Này Cư sĩ,
hăy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hăy học tập
như sau : "Tôi sẽ không chấp thủ những ǵ
được thấy, được nghe,
được cảm thọ, được nhận
thức, được hy cầu, được tư sát
với ư, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp (nói
trên)". Này Cư sĩ, hăy học tập
như vậy.
Khi nghe nói vậy, cư sĩ
– Này Cư sĩ, Ông đang gượng lên mà
sống, hay ch́m xuống (cơi chết) ?
– Thưa Tôn giả Ananda, con không gượng lên
mà sống, con đang ch́m xuống cơi chết. Dầu cho
bậc Đạo sư được con hầu hạ
đă lâu và dầu các vị Tỷ-kheo, tu tập ư lực
con chưa từng được nghe một thời
thuyết pháp như vậy.
– Này Cư sĩ, thuyết pháp
như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc áo
trắng. Này
Cư sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng
xuất gia.
– Vậy thưa Tôn giả Sariputta, hăy thuyết
pháp như vậy cho hàng cư sĩ mặc áo trắng.
Rừng Jetavana,
Tốt đẹp
phước lành này,
Được chư Thiên, chúng Tăng,
Thường lui
tới an trú,
Được
Pháp Vương trú tŕ,
Ban hoan hỷ cho
ta.
Nghiệp, minh và
Chánh pháp,
Giới, tối
thượng sanh mạng,
Chính nhờ các pháp
trên,
Khiến chúng sanh
thanh tịnh,
Không phải do giai
cấp,
Không phải do tài
sản.
Do vậy bậc
Hiền giả,
Thấy rơ mục
đích ḿnh,
Suy tư pháp chân
chánh,
Được thanh tịnh ở đây.
Như Sariputta,
Về tuệ,
giới, tịch tịnh,
Bất luận
Tỷ-kheo nào,
Đă tới
bờ bên kia,
Hăy đạt
được tối thắng
Trong những pháp kể trên.
Thiên tử
– Này các Tỷ-kheo, đêm nay, một vị Thiên
tử, khi đêm đă gần măn, chiếu sáng toàn cảnh
Jetavana với dung sắc thù thắng đă đi
đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi
đứng một bên. Đứng một bên, vị Thiên
tử ấy nói lên với Ta bài kệ sau đây
:
Rừng Jetavana
Tốt đẹp
phước lành này
.... (như
trên)...
Hăy đạt
được tối thắng
Trong những pháp kể trên.
Nói vậy xong, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử
ấy suy nghĩ : "Bậc
Đạo sư tán đồng ta, " sau khi đảnh
lễ thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến
mất tại chỗ.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch
–
– Lành thay, lành thay, Ananda ! Những ǵ có thể thành đạt
được bởi suy tư đă được
đạt đến, này Ananda.
144. KINH GIÁO GIỚI CHANNA [^]
(Channovadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc-lâm), tại chỗ nuôi
dưỡng sóc (Kalandakanivapa). Lúc bấy giờ Tôn giả Sariputta
(Xá lợi phất), Tôn giả Mahacunda (Đại Chu-na) và
Tôn giả Channa (Xiển-đà) cùng trú ở Gijjhakuta (
– Chúng ta hăy đi, này Hiền giả Cunda, chúng ta
hăy đi đến Tôn giả Channa để hỏi
thăm bệnh trạng.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahacunda vâng đáp Tôn
giả Sariputta.
Rồi Tôn giả Sariputta cùng với Tôn giả Mahacunda
đi đến Tôn giả Channa; sau khi đến, nói lên
với Tôn giả Channa những lời chào đón hỏi
thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta nói với Tôn
giả Channa:
–
–
– Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao ! Tôn giả Channa, hăy tiếp tục sống ! Chúng tôi muốn Tôn
giả Channa tiếp tục sống.
–
– Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Channa về
một vấn đề đặc biệt, nếu Tôn
giả Channa cho chúng tôi được phép đặt câu
hỏi.
– Hăy bỏ đi, Hiền giả Sariputta; sau khi
nghe, tôi sẽ biết (nói như thế nào).
– Hiền giả Channa, Hiền giả có xem con
mắt, nhăn thức và các pháp do mắt nhận thức là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngă của tôi ? " Hiền giả Channa, Hiền
giả có xem tai, nhĩ thức.. Hiền
giả Channa, Hiền giả có xem mũi, tỷ thức...
Hiền giả Channa, Hiền giả có xem lưỡi,
thiệt thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có
xem thân, thân thức... Hiền giả Channa, Hiền giả
có xem ư, ư thức và các pháp do ư nhận thức là : "Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này
không phải tự ngă của tôi ?"
– Hiền giả Sariputta, tôi xem mắt, nhăn
thức và các pháp do mắt nhận thức là
: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi". Hiền
giả Sariputta, tôi xem tai, nhĩ thức..
Hiền giả Sariputta, tôi xem mũi, tỷ thức...
Hiền giả Sariputta, tôi xem cái lưỡi, thiệt
thức... Hiền giả Sariputta, tôi xem thân, thân thức.. Hiền giả Sariputta, tôi xem ư, ư thức,
các pháp do ư nhận thức là : "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngă của tôi".
– Này Hiền giả Channa, Hiền giả đă
thấy cái ǵ, đă chứng tri cái ǵ trong mắt, trong nhăn
thức, trong các pháp được mắt nhận thức
mà Hiền giả xem mắt, nhăn thức và các pháp do mắt
nhận thức là : "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải là tự ngă của tôi ?" Hiền giả Channa,
Hiền giả đă thấy cái ǵ, đă chứng tri cái ǵ
trong tai, trong nhĩ thức... trong mũi, trong tỷ
thức... trong lưỡi, trong thiệt thức.. trong thân, trong thân thức... trong ư, trong ư
thức, trong các pháp do ư nhận thức mà Hiền giả
xem ư, ư thức và các pháp do ư nhận thức là: "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tự ngă
của tôi " ?
– Thưa Hiền giả Sariputta, chính v́ tôi
thấy sự diệt (nirodha), chứng tri sự diệt
trong mắt, trong nhăn thức, trong các pháp do mắt nhận
thức, mà tôi xem mắt, nhăn thức, và các pháp do mắt
nhận thức là : "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngă của tôi". Thưa Hiền giả
Sariputta, chính v́ tôi thấy sự diệt, chứng tri
sự diệt trong tai, trong nhĩ thức... trong mũi,
trong tỷ thức... trong lưỡi, trong thiệt
thức... trong thân, trong thân thức... trong ư, trong ư thức,
trong các pháp do ư nhận thức mà tôi xem ư, ư thức và các
pháp do ư nhận thức là : "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă
của tôi".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Mahacunda nói với Tôn giả Channa:
– Do vậy, này Hiền giả Channa, lời
dạy này của
–
–
– Bạch Thế Tôn, có một ngôi
làng của ḍng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là Pubbajira). Tại đấy, có
những gia đ́nh thân hữu, những gia đ́nh hộ
tŕ Tôn giả Channa, những gia đ́nh cần
được viếng thăm.
– Này Sariputta, có những gia đ́nh ấy là
những gia đ́nh thân hữu, những gia đ́nh hộ
tŕ Tỷ-kheo Channa, những gia đ́nh cần
được viếng thăm. Này Sariputta, cho đến
nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội. Này
Sariputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác,
Ta nói rằng người ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa không có (chấp thủ) như
vậy. Tỷ-kheo Channa đem con dao
lại (cho ḿnh), không có phạm tội.
145. KINH GIÁO GIỚI PHÚ LÂU NA [^]
(Punnovadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tịnh
xá ông Anathapindika (
– Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu
Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn
tắt cho con, để con có thể, sau khi nghe Thế Tôn,
sống một ḿnh, nhàn tịnh, không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần.
– Vậy này Punna, hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta
sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Punna vâng đáp
– Này Punna, có những sắc do mắt nhận
thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư,
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an
trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng,
chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói
rằng, từ sự tập khởi của dục
hỷ, là sự tập khởi của khổ. Này Punna, có
những tiếng do tai nhận thức; có những
hương do mũi nhận thức; có những vị do
lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do thân
nhận thức; có những pháp do ư nhận thức;
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư liên
hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo
hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú trong
ấy, thời do hoan hỷ, tán thưởng, chấp
thủ và an trú tham đắm, dục hỷ sanh; và này Punna.
Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục
hỷ, là sự tập khởi của khổ.
Này Punna, có những sắc do mắt nhận
thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ư,
liên hệ đến dục, hấp dẫn.
–
– Này Punna, người nước Sunaparanta là hung
bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô ác.
Này Punna, nếu người nước Sunaparanta mắng
nhiếc Ông, nhục mạ Ông, thời này Punna, tại
đấy Ông sẽ như thế nào ?
–
– Nhưng này Punna, nếu các người
nước Sunaparanta lấy tay đánh đập Ông,
thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ như
thế nào ?
–
– Nhưng này Punna, nếu các người
nước Sunapa ranta lấy các cục đất ném
đánh Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ
nghĩ thế nào ?
–
– Nhưng này Punna... lấy gậy đánh
đập Ông... Ông nghĩ thế nào ?
– Bạch Thế Tôn, nếu các người
nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập con...
"... V́ rằng họ không lấy đao
đánh đập ta" ... Bạch Thiện Thệ,
tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
– Nhưng này Punna, ... lấy dao
đánh đập Ông... Ông nghĩ thế nào ?
–
– Nhưng này Punna, nếu các người
nước Sunaparanta lấy dao sắc bén đoạt
hại mạng Ông... Ông nghĩ thế ?
– -Bạch Thế Tôn, nếu các người
nước Sunapa ranta sẽ lấy dao sắc bén
đoạt hại mạng con; thời tại đấy
con sẽ nghĩ như sau : "Có
những đệ tử của
– Lành thay, lành thay, này Punna !
Rồi Tôn giả Punna, sau khi hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa,
lấy y bát, rồi ra đi, đi đến nước
Sunaparanta. Tiếp tục du hành, (Tôn giả
Punna) đi đến nước Sunaparanta. Tại đây, Tôn giả Punna sống trong
nước Sunaparanta.
Rồi một số đông
Tỷ-kheo đi đến
–
– Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna là
bậc Hiền trí. Vị ấy thực hành
pháp và tùy pháp. Vị ấy không phiền
nhiễu Ta với những câu hỏi về pháp. Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna đă
nhập Niết-bàn.
146. KINH GIÁO GIỚI NANDAKA [^]
(Nandakovadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông
Anathapindika (
–
Lúc bấy giờ, các Thượng
tọa (Trưởng lăo) Tỷ-kheo thay phiên giáo giới
Tỷ-kheo-ni. Nhưng
Tôn giả Nandaka không muốn thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni.
–
Bạch Thế Tôn, chính là phiên của Nandaka thay
phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni. Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Nandaka không muốn thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni.
–
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Nandaka ấy vâng đáp Thế Tôn, vào
buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthi
để khất thực. Sau khi khất thực ở
Savatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường
khất thực trở về, không có người thứ
hai cùng đi, đi đến Rajakarama (Vương Tự).
–
–
–
–
– Cái ǵ vô thường, là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi xem cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi". ?
– Thưa không vậy, Tôn giả.
–
– Thưa Tôn giả, vô thường
– Cái ǵ vô thường, là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi". ?
– Thưa không vậy, Tôn giả. V́ sao vậy ? Trước đây, thưa Tôn
giả, chúng con đă khéo thấy như chơn, với
chánh trí tuệ rằng : "Sáu nội
xứ này là vô thường".
– Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ
! Chính phải là như vậy, là cái nh́n
như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Chư Hiền tỷ, các Hiền
tỷ nghĩ thế nào ? Sắc là
thường hay vô thường ?
– Thưa Tôn giả, vô thường
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi". ?
– Thưa không vậy, Tôn giả.
– Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ
thế nào ? Tiếng là thường hay
vô thường ? ... Hương là
thường hay vô thường ?...
Vị là thường hay vô thường ?
.... Xúc là thường hay vô thường ?
... Pháp là thường hay vô thường ?
–
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái
ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự
ngă của tôi ?"
– Thưa không vậy, Tôn giả. V́ sao vậy ? Trước đây, thưa Tôn
giả, chúng con đă khéo thấy như chơn, với
chánh trí tuệ rằng : "Sáu ngoại
xứ này là vô thường".
– Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ
! Chính phải là như vậy, là cái nh́n
như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Chư Hiền tỷ, các Hiền
tỷ nghĩ thế nào ? Nhăn thức là
thường hay vô thường ?
– Thưa Tôn giả, vô thường
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi". ?
– Thưa không vậy, Tôn giả.
– Này các Hiền tỷ, nhĩ thức là
thường hay vô thường ?
–
– Tỷ thức là thường hay vô thường ?
–
– Thân thức là thường hay vô thường
?
–
– Ư thức là thường hay vô thường
?
–
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
–
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi ?"
– Thưa không vậy, Tôn giả. V́ sao vậy ? Trước đây thưa Tôn
giả, chúng con đă khéo thấy như chơn, với
chánh trí tuệ rằng : "Sáu thức
thân này là vô thường".
– Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ
! Chính phải là như vậy, là cái nh́n
như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Ví như, chư Hiền tỷ,
một ngọn đèn dầu được đốt
cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến
hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến
hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự
biến hoại; ánh sáng là vô thường, chịu sự
biến hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng : "Ngọn đèn dầu này
được đốt cháy; dầu là vô thường,
chịu sự biến hoại; bấc là vô thường,
chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô
thường, chịu sự biến hoại; nhưng ánh
sáng ấy là thường c̣n, thường trú,
thường hằng không chịu sự biến
hoại",; chư Hiền tỷ, nói như vậy là có
nói chân chánh không ?
– Thưa không vậy, Tôn giả. V́ sao vậy ? Thưa Tôn giả, ngọn đèn
dầu này được đốt cháy; dầu là vô
thường, chịu sự biến hoại; bấc
cũng là vô thường, chịu sự biến hoại;
ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự
biến hoại. C̣n nói ǵ đến ánh sáng, cũng là vô
thường, chịu sự biến hoại
!
– Như vậy là phải, này các Hiền tỷ ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu
ngoại xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại
xứ này, tôi có cảm thọ, lạc thọ, khổ
thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm
thọ ấy là thường c̣n, thường trú,
thường hằng, không chịu sự biến
hoại"; này các Hiền tỷ, người ấy có nói
một cách chân chánh không ?
– Thưa không, thưa Tôn giả. V́ sao vậy ?
– Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ
! Chính phải là như vậy, là cái nh́n
như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ, có cây
to lớn đứng thẳng, có lơi cây, với rễ vô
thường, chịu sự biến hoại, với thân
cây vô thường, chịu sự biến hoại, với
cành lá vô thường, chịu sự biến hoại,
với bóng cây vô thường, chịu sự biến
hoại. Nếu có người nói như sau :
"Có cây lớn đứng thẳng có lơi cây này, với
rễ vô thường, chịu sự biến hoại,
với thân cây vô thường, chịu sự biến
hoại, với cành lá vô thường, chịu sự
biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là
thường c̣n, thường trú, thường hằng,
không chịu biến hoại"; này các Hiền tỷ,
người ấy có nói một cách chân chánh không ?
– Thưa không, thưa Tôn giả. V́ sao vậy ?
– Như vậy là phải, này chư Hiền tỷ ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu
nội xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại
xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ
hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ
ấy là thường c̣n, thường trú, thường
hằng, không chịu sự biến hoại"; này các
Hiền tỷ, người ấy có nói chân chánh không ?
– Thưa không, thưa Tôn giả. V́ sao vậy ?
– Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ
! Chính phải là như vậy, là cái nh́n
như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ,
một người đồ tể giết ḅ thiện
xảo hay người đệ tử; sau khi giết con
ḅ, cắt con ḅ với con dao sắc bén của người
đồ tể giết ḅ, mà không hư hại phần
thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài,
rồi với con dao sắc bén của người
đồ tể giết ḅ, cắt đứt, cắt
đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây
gân phía trong, dây khớp xương phía trong; sau khi cắt
đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi
lột da ngoài, lại bao trùm con ḅ ấy với chính da ḅ
ấy rồi nói : "Con ḅ này đă được dính
liền với da này như trước"; này các Hiền
tỷ, nói như vậy có nói một cách chơn chánh không ?
"
– Thưa không, thưa Tôn giả. V́ sao vậy ? Dầu cho, thưa Tôn giả,
người đồ tể giết ḅ thiện xảo
ấy hay người đệ tử sau khi giết con ḅ.. (như trên)... lại bao
trùm con ḅ ấy với chính da ḅ ấy lại có thể nói
như sau : "Con ḅ này đă được dính liền
với da này như trước, " dầu con ḅ này đă
bị lột ra khỏi da ấy.
– Ta làm ví dụ này, này các Hiền tỷ, là
để nêu rơ ư nghĩa. Ở đây, ư nghĩa này như sau : Chư Hiền tỷ, thịt ở trong
là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Chư
Hiền tỷ, da ở ngoài là đồng nghĩa với
sáu ngoại xứ, Chư Hiền tỷ, dây thịt phía
trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong là
đồng nghĩa với dục hỷ và tham. Chư Hiền tỷ, con dao đồ tể
giết ḅ sắc bén là đồng nghĩa với Thánh trí
tuệ.
Chư Hiền tỷ, có bảy giác chi, do tu
tập, làm cho sung măn bảy giác chi này, vị Tỷ-kheo
với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự
ḿnh chứng tri ngay trong hiện tại với
thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là bảy ? Ở đây, chư Hiền tỷ,
Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y
chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng
đến từ bỏ; tu tập trạch pháp giác chi, tu
tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập
khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ
đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
Chư Hiền tỷ, bảy giác chi này, do tu tập, làm cho
sung măn, Tỷ-kheo với sự đoạn tận các
lậu hoặc, sau khi tự ḿnh chứng tri ngay trong
hiện tại, với thượng trí chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát.
– Chư Hiền tỷ, hăy đi về, giờ
đă đến rồi.
Rồi các Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín
thọ lời Tôn giả Nandaka dạy, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả
Nandaka, thân phía hữu hướng về Tôn giả, rồi
đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
– Này các Tỷ-kheo-ni, hăy đi. Giờ
đă đến rồi.
Rồi các Tỷ-kheo-ni ấy, sau khi
đảnh lễ
– Này các Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày
mười bốn, quần chúng không có nghi ngờ hay nghi
hoặc rằng mặt trăng là không tṛn hay mặt
trăng là tṛn v́ khi ấy mặt trăng chưa tṛn;
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, dầu cho các Tỷ-kheo-ni
ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp của Nandaka,
nhưng tâm trí của họ chưa được thỏa
măn.
– Vậy này Nandaka, ngày mai, Ông sẽ giáo giới
cho các Tỷ-kheo-ni ấy với bài giáo giới.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Nandaka vâng đáp
Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi đêm ấy đă
măn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào
Savatthi (Xá-vệ) để khất thực. Sau khi đi
khất thực ở Savatthi xong, sau buổi ăn, trên con
đường đi khất thực trở về,
tự thân một ḿnh đi đến Rajarama. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn giả
Nandaka từ xa đi lại; sau khi thấy, liền sửa
soạn chỗ ngồi và sắp đặt nước
rửa chân. Tôn giả Nandaka ngồi trên
chỗ đă soạn sẵn; sau khi ngồi, liền
rửa chân. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy
đảnh lễ Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống
một bên. Tôn giả Nandaka nói với các Tỷ-kheo-ni
ấy đang ngồi một bên:
–
–
– Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ
thế nào ? Mắt là thường hay vô thường ?
–
– Những ǵ vô thường... (như
trên.. trang 612 đến trang 620 của kinh này). Hăy đi, này các Tỷ-kheo-ni giờ đă
đến rồi.
– Này các Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày
rằm, quần chúng không có nghi ngờ hay phân vân rằng
mặt trăng là không tṛn hay mặt trăng là tṛn, v́ khi
ấy mặt trăng đă tṛn; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài
thuyết pháp của Tôn giả Anandaka, và tâm tư của
họ được thỏa măn. Này các
Tỷ-kheo, trong năm trăm Tỷ-kheo-ni ấy,
Tỷ-kheo-ni cuối cùng chứng dược Dự lưu,
không c̣n bị đọa lạc, và chắc chắn
đạt đến chánh giác.
147. TIỂU KINH GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA
[^]
(Cula Rahulovada suttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm) tại tinh xá ông
Anathapindika.
– Này Rahula, hăy cầm tọa cụ, chúng ta sẽ
đi đến Andhavana để nghỉ ban ngày.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Rahula vâng đáp
Lúc bấy giờ hàng ngàn chư
–
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
– Bạch Thế Tôn, là khổ
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi ?"
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn
·
Này Rahula. Ông
nghĩ thế nào ? Sắc là
thường hay vô thường ?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
– Bạch Thế Tôn, là khổ.
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi ?"
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
– Này Rahula. Ông nghĩ thế nào ?
Nhăn thức là thường hay vô thường
?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường
– Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc
?
– Bạch Thế Tôn, là khổ.
– Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, thời có hợp lư chăng khi quán cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngă của tôi ?"
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn
– Này Rahula. Ông nghĩ thế nào ?
Nhăn xúc là thường hay vô thường ?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– ... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– ... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– ... (như trên)...
– Mũi là thường hay vô thường
?... (như trên)... Lưỡi là
thường hay vô thường ?... (như trên)... Thân là
thường hay vô thường... (như
trên)... Ư là thường hay vô thường ?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– ... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
-... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
– .... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
– ... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
–
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– ... (như trên)...
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
– Này Rahula, do thấy vậy, vị Đa văn
Thánh đệ tử yếm ly con mắt, yếm ly các
sắc, yếm ly nhăn thức, yếm ly nhăn xúc, do duyên nhăn
xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành,
thức. Vị ấy yếm ly pháp
(được khởi lên) ấy. Vị ấy
yếm ly tai, yếm ly các tiếng... yếm ly mũi,
yếm ly các hương... yếm ly các hương... yếm
ly lưỡi, yếm ly các vị... yếm ly thân, yếm
ly các xúc, .. yếm ly
ư, yếm ly các pháp, yếm ly ư thức, yếm ly ư xúc. Do
duyên ư xúc này, được khởi lên thọ,
tưởng, hành, thức. Vị ấy
yếm ly các pháp (được khởi lên) ấy. Do
yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết : "Ta đă được
giải thoát ". Và vị ấy biết :
"Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các
việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này
nữa".