Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
(148) Kinh Sáu sáu
(149) Đại kinh Sáu xứ
(150) Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda
(151) Kinh Khất thực thanh tịnh
(152) Kinh Căn tu tập
148. KINH SÁU SÁU [^]
(Chadhakkasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm) tại tinh xá ông
Anathapindika (
– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông,
sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm
hạnh hoàn toàn viên măn, thanh tịnh, tức là sáu sáu. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng
đáp
– Sáu nội xứ cần phải được
biết. Sáu ngoại xứ cần phải
được biết. Sáu thức thân
cần phải được biết. Sáu
xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được
biết. Sáu ái thân cần phải được
biết.
Khi được nói đến "Sáu nội
xứ cần phải được biết", do duyên
ǵ được nói đến như vậy
? Nhăn xứ, nhĩ xứ, tỷ
xứ, thiệt xứ, thân xứ, ư xứ. Khi
được nói đến "Sáu nội xứ cần
phải được biết ", chính do duyên này
được nói đến như vậy. Đây
là sáu sáu thứ nhất.
Khi được nói đến "Sáu ngoại
xứ cần phải được biết", do duyên
ǵ được nói đến như vậy
? Sắc xứ, thanh xứ, hương
xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi
được nói đến "Sáu ngoại xứ
cần phải được biết", chính do duyên này
được nói đến như vậy. Đây
là sáu sáu thứ hai.
Khi được nói đến "Sáu thức
thân cần phải được biết", do duyên ǵ
được nói đến như vậy ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Do duyên tai và do
duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và
do duyên các hương, khởi lên tỷ thức.
Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi
lên thân thức. Do duyên ư và do duyên các pháp, khởi lên ư thức. Khi được nói đến
"Sáu thức thân cần phải được
biết", chính do duyên này được nói đến
như vậy. Đây là sáu sáu thứ ba.
Khi được nói đến "Sáu xúc thân
cần phải được biết", do duyên ǵ
được nói đến như vậy ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ
của ba (pháp này) là xúc. Do duyên tai và
do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ
của ba (pháp này) là xúc. Do duyên lưỡi và do duyên các
vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức.
Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần
phải được biết", chính do duyên này
được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu
thứ tư.
Khi được nói đến "Sáu thọ
thân cần phải được biết", do duyên ǵ
được nói đến như vậy ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ
của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ
thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên
tỷ thức. Do duyên lưỡi và do
duyên các vị khởi lên thiệt thức.
Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ư và
do duyên các pháp, khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên xúc là thọ. Khi được nói đến
"Sáu thọ thân cần phải được
biết", chính do duyên này được nói đến
như vậy. Đây là sáu sáu thứ năm.
Khi được nói đến "Sáu ái thân
cần phải được biết", do duyên ǵ
được nói đến như vậy ?
Do duyên mắt và duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ
thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên
tỷ thức. Do duyên lưỡi và do
duyên các vị khởi lên thiệt thức.
Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ư và
do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được
nói đến "Sáu ái thân cần phải được
biết", chính do duyên này được nói đến
như vậy. Đây là sáu sáu thứ sáu.
Nếu ai nói rằng :
"Mắt là tự ngă", như vậy là không hợp
lư. Sự sanh và sự diệt của mắt
đă được thấy. V́ rằng sự sanh và
sự diệt đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận :
"Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy,
nếu ai nói rằng : "Mắt là tự
ngă", như vậy không hợp lư. Như
vậy, con mắt là vô ngă. Nếu ai nói rằng
: "Các sắc là tự ngă", như vậy là không
hợp lư. Sự sanh và sự diệt của
các sắc đă được thấy. V́ rằng
sự sanh và sự diệt của các sắc đă
được thấy, nên phải đưa đến
kết luận : "Tự ngă sanh và
diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngă",
như vậy là không hợp lư. Như vậy,
con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă. Nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă",
như vậy là không hợp lư. Sự sanh và
sự diệt của nhăn thức đă được
thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của
nhăn thức đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và
diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă",
như vậy là không hợp lư. Như vậy con mắt là
vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă. Nếu có ai nói
rằng : "Nhăn xúc là tự ngă, như
vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự
diệt của nhăn xúc đă được thấy.
V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được
thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở
nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng
: "Nhăn xúc là tự ngă", như vậy, là không
hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô
ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như
vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự
diệt của thọ đă được thấy.
V́ rằng sự sanh và sự diệt của thọ đă
được thấy, nên phải đưa đến
kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi
tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng :
"Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp
lư. Như vậy, con mắt là vô ngă, các
sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă, thọ
là vô ngă. Nếu có ai nói rằng :
"Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ái đă
được thấy. V́ rằng sự sanh và sự
diệt đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận :
"Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy
nếu ai nói rằng : "Ái là tự
ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy con
mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn
xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Tai là tự ngă"; nếu có
ai nói rằng : ""Mũi là tự ngă"; nếu có ai
nói rằng : "Lưỡi là tự ngă"; nếu có ai
nói rằng : "Thân là tự ngă"; nếu có ai nói
rằng : "ư là tự ngă", như vậy là không
hợp lư. Sự sanh và sự diệt của
ư đă được thấy. V́ rằng sự sanh
và sự diệt đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận :
"Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy
nếu ai nói rằng : "Ư là tự
ngă", như vậy là không hợp lư. Như
vậy ư là vô ngă. Nếu có ai nói rằng
: "Các pháp là tự ngă", như vậy, là không
hợp lư. Sự sanh và sự diệt của
các pháp đă được thấy. V́ rằng sự
sanh và sự diệt đă được thấy, nên
phải đưa đến kết luận
: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do
vậy, nếu ai nói rằng : "Các
pháp là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, ư là vô ngă, các pháp là vô ngă.
Nếu có ai nói rằng : "Ư thức là
tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư thức đă
được thấy. V́ rằng sự sanh và sự
diệt đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận :
"Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy,
nếu ai nói rằng : "Ư thức là
tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là
vô ngă. Nếu có nói rằng : "Ư
xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư xúc đă
được thấy. V́ rằng sự sanh và sự
diệt đă được thấy, nên phải
đưa đến kết luận :
"Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy,
nếu có ai nói rằng : "Ư xúc là
tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là
vô ngă, ư xúc là vô ngă. Nếu có ai nói :
"Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă
dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự
diệt đă được thấy, nên đưa
đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt
ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như
vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô
ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă, thọ là
vô ngă. Nếu có ai nói rằng :
"Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́
rằng sự sanh.. Do vậy nếu có ai
nói rằng : "Ái là tự ngă",
như vậy là không hợp lư. Như vậy
ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă,
thọ là vô ngă, ái là vô ngă.
Này các Tỷ-kheo, nhưng đây là con
đường đưa đến sự tập
khởi của thân kiến. Ai quán mắt là :
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă
của tôi" Ai quán các sắc là : "Cái này là của tôi,
cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này là của tôi.. là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc:
"Cái này là của tôi ... là tự ngă của tôi". Ai quán
thọ : "Cái này là của tôi... là
tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi
... là tự ngă của tôi". Ai quán tai :
"Cái này là của tôi.. là tự ngă
của tôi". Ai quán mũi : "Cái này
là của tôi.. là tự ngă của
tôi". Ai quán lưỡi : "Cái này là
của tôi.. là tự ngă của tôi".
Ai quán thân : "Cái này là của tôi.. là tự ngă của tôi". Ai quán ư : "Cái này là của tôi.. là
tự ngă của tôi". Ai quán các pháp :
"Cái này là của tôi.. là tự ngă
của tôi". Ai quán ư thức : "Cái
này là của tôi.. là tự ngă của
tôi". Ai quán ư xúc : "Cái này là của
tôi.. là tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này là của tôi.. là
tự ngă của tôi".
Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con
đường đưa đến sự đoạn
diệt của thân kiến. Ai quán mắt :
""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán sắc : "Cái này không phải là của
tôi.. không phải là tự ngă của
tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này
không phải của tôi.. không phải là
tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc :
"Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ
: "Cái này không phải là của tôi... không phải
tự ngă của tôi". Ai quán ái :
"Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi". Ai quán tai :
"Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi". Ai quán mũi
: "Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi". Ai quán lưỡi: "Cái
này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán thân : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán
ư: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán
các pháp: "Cái này không phải của tôi..
không phải tự ngă của tôi". Ai
quán ư thức: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă
của tôi". Ai quán ư xúc: "Cái này không phải của
tôi.. không phải
tự ngă của tôi". Ai quán thọ: "Cái này không
phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi". Ai quán ái :
"Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngă của tôi".
Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các
sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp
gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên
lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất
lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà
hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham
tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do
cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than
khóc, đập ngực, rơi vào
bất tỉnh. Sân tùy miên của vị
ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất
khổ bất lạc thọ, mà không như thật
biết sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị
ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không
đoạn tận tham tùy miên đối với lạc
thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với
khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối
với bất khổ bất lạc thọ, không
đoạn tận vô minh, không làm cho ḿnh khởi lên, có
thể ngay trong hiện tại là người chấm
dứt đau khổ, sự kiện như vậy không
xảy ra. Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và
do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các
Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên
tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do
duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các
Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp khởi
lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba
(pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ,
khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc
thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham
tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do
cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc,
đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên
của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc
bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật
biết sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị
ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không
đoạn tận tham tùy miên đối với lạc
thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với
khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối
với bất khổ bất lạc thọ, không
đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có
thể ngay trong hiện tại là người chấm
dứt đau khổ, sự kiện như vậy không
xảy ra.
Này các Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc
khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ
của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc
thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan
hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của
vị ấy không tùy tăng. Vị ấy
cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van,
than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân
tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất
lạc thọ, mà như thật biết sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ
ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận
tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy
trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do
nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ
bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh
khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là
người chấm dứt đau khổ, sự kiện
như vậy xảy ra. Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các
hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do
duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi
lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp
khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ
của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên
lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất
lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà
không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên
của vị ấy không tùy tăng. Vị
ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than
van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh;
sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất
lạc thọ mà như thật biết sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ
ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận
tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy
trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do
nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ
bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh
khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là
người chấm dứt đau khổ, sự kiện
như vậy xảy ra.
Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy,
vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt,
yếm ly các sắc, yếm ly nhăn thức; yếm ly nhăn
xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi,
yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly
các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ư,
yếm ly các pháp; yếm ly ư thức, yếm ly ư xúc, yếm
ly thọ, yếm ly ái. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do
ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là
sự hiểu biết: "Ta đă được
giải thoát". Và vị ấy tuệ tri :
"Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các
việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này
nữa".
149. ĐẠI KINH SÁU XỨ [^]
(Muhasalayatanikasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông
Anathapindika (
Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
Đại
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, không biết, không thấy
như chơn mắt, không biết không thấy như
chơn các sắc, không biết không thấy như chơn
nhăn thức, không biết không thấy như chơn nhăn xúc;
do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ
hay bất khổ bất lạc thọ, không biết không
thấy như chơn cảm thọ ấy, vị ấy
ái trước đối với mắt, ái trước đối
với các sắc, ái trước đối với nhăn
thức, ái trước đối với nhăn xúc. Do duyên
nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay
bất khổ bất lạc thọ, vị ấy ái
trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, bị
ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm
thủ uẩn đi đến tích trữ trong tương
lai. Và ái của vị ấy đưa đến tái
sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m sự hoan lạc
chỗ này, chỗ kia; ái ấy được tăng
trưởng; những thân ưu năo tăng trưởng;
những tâm ưu năo tăng trưởng; những thân
nhiệt năo tăng trưởng; những tâm khổ năo
tăng trưởng. Vị ấy cảm
thọ thân khổ và tâm khổ.
Này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết
như chơn tai; này các Tỷ-kheo, không thấy và không
biết như chơn mũi; này các Tỷ-kheo, không thấy
và không biết như chơn lưỡi; này các Tỷ-kheo,
không thấy và không biết như chơn thân; này các
Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn ư; này
các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn các
pháp; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như
chơn ư thức; này các Tỷ-kheo, không thấy và không
biết như chơn ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên
lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất
lạc thọ; không thấy và không biết như chơn
cảm thọ ấy, vị ấy ái trước
đối với ư, ái trước đối với pháp,
ái trước đối với ư thức, ái trước
đối với ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc
thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, ... (như trên)... vị ấy
cảm thọ thân khổ và tâm khổ.
Này các Tỷ-kheo, thấy và biết
như chơn mắt, thấy và biết như chơn các
sắc, thấy và biết như chơn nhăn thức,
thấy và biết như chơn nhăn xúc. Do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc
thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ
ấy; vị ấy không ái trước đối với
con mắt, không ái trước đối với các sắc,
không ái trước đối với nhăn thức, không ái
trước đối với nhăn xúc. Do duyên nhăn xúc này
khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái
trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không
bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên
năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong
tương lai. Và ái của vị ấy, đưa
đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m sự
hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được
đoạn tận; những thân ưu năo của vị
ấy được đoạn tận; những tâm
ưu năo được đoạn tận; những thân
nhiệt năo được đoạn tận; những tâm
nhiệt năo được đoạn tận; những
thân khổ năo được đoạn tận; những
tâm khổ năo được đoạn tận; vị
ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc.
Kiến ǵ như chơn của
vị ấy, kiến ấy là chánh kiến. Tư duy ǵ như
chơn của vị ấy, tư duy ấy là chánh tư
duy. Tinh tấn ǵ như chơn của
vị ấy, tinh tấn ấy là chánh tinh tấn. Niệm ǵ như chơn của vị ấy,
niệm ấy là chánh niệm. Định
ǵ như chơn của vị ấy, định ấy là
chánh định. Thân nghiệp, ngữ
nghiệp, sinh mạng của vị ấy được
thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh đạo Tám
ngành này đi đến tu tập và phát triển sung măn cho
vị ấy. Do sự tu tập Thánh đạo Tám ngành này
như vậy, bốn niệm xứ đi đến tu
tập và phát triển sung măn; bốn chánh tinh tấn
cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn;
bốn như ư túc cũng đi đến tu tập và phát
triển sung măn; năm căn cũng đi đến tu
tập và phát triển sung măn; năm lực cũng đi
đến tu tập và phát triển sung măn; bảy giác chi
cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn. Và
nơi vị ấy, hai pháp này được chuyển
vận song hành: chỉ và quán. Với
thượng trí, vị ấy liễu tri những pháp
cần phải liễu tri với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy đoạn
tận những pháp cần phải đoạn tận
với thượng trí. Với
thượng trí vị ấy, tu tập những pháp
cần phải tu tập với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy chứng
ngộ những pháp cần phải chứng ngộ với
thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
những pháp cần phải liễu tri với
thượng trí ? Cần
phải trả lời là năm thủ uẩn, tức là
sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng
thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
Những pháp này là những pháp cần phải
liễu tri với thượng trí. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải đoạn
tận với thượng trí ? Vô minh và hữu ái, những pháp này cần phải
đoạn tận với thượng trí. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tu tập
với thượng trí ? Chỉ
và quán, những pháp này cần phải tu tập với
thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
những pháp cần phải chứng ngộ với
thượng trí ? Minh và
giải thoát, những pháp này cầu phải chứng
ngộ với thượng trí.
Này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn
tai; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn
mũi; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn
lưỡi; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như
chơn thân; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như
chơn ư; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn
các pháp; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn ư
thức; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn
ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ, khổ
thọ, bất khổ bất lạc thọ; thấy và
biết như chơn cảm thọ ấy, nên vị
ấy không ái trước đối với ư, không ái
trước đối với các pháp, không ái trước
đối với ư thức, không ái trước đối
với ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ,
khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ;
vị ấy không ái trước đối với cảm
thọ ấy... (như trên)... tâm khổ
năo được đoạn tận. Vị
ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc. Kiến ǵ như chơn của vị ấy,
kiến ấy là chánh kiến. Tư duy ǵ như
chơn của vị ấy... (như
trên)... hoạt mạng của vị ấy đi
đến thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh
đạo Tám ngành này đi đến tu tập và phát
triển sung măn cho vị ấy. Do sự tu tập Thánh
đạo Tám ngành này như vậy... (như
trên)... Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần
phải chứng ngộ với thượng trí
? Minh và giải thoát, những pháp này
cần phải chứng ngộ với thượng trí.
150. KINH NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA [^]
(Nagaravindeyyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Môt thời Thế Tôn du hành giữa
dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo và đi
đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là
Nagaravinda. Các Bà-la-môn gia
chủ ở Nagaravinda được nghe như sau :
"Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia tộc
Sakka (Thích-ca), đang du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với
Đại chúng Tỷ-kheo và đă đến một làng
Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Nagaravinda. Tiếng
đồn tốt đẹp sau đây được
truyền đi về Tôn giả Gotama :
"Ngài là Đấng
–
Nhưng này các Gia chủ, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông như sau :
"Này các Gia chủ, hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng tôn
trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường ?"
Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông
cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại
đạo ấy như sau :
"Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với các sắc
do mắt nhận thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm
tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ư nghiệp được thăng bằng. Các Sa-môn,
Bà-la-môn như vậy đáng được tôn trọng,
cung kính, đảnh lễ, cúng dường. V́ sao vậy ? Chúng tôi đối với các sắc
do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si,
nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ư nghiệp khi th́ thăng bằng, khi
không thăng bằng; nhưng chúng tôi có thấy các vị
ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do
vậy, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn
trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với các tiếng do
tai nhận thức, đối với các hương do
mũi nhận thức, đối với các vị do
lưỡi nhận thức, đối với các xúc do thân
nhận thức, đối với các pháp do ư nhận
thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm tịch tĩnh,
sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp
được thăng bằng, những Sa-môn, Bà-la-môn
ấy đáng được tôn trọng, cung kính, lễ
bái, cúng dường. V́ sao vậy ? chúng tôi đối với các pháp do ư nhận
thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không
tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ư nghiệp, khi thăng bằng, khi không thăng bằng,
nhưng chúng tôi có thấy các vị ấy hơn sở hành
thăng bằng của chúng tôi. Do vậy, những Sa-môn,
Bà-la-môn ấy đáng được tôn trọng, cung kính,
lễ bái, cúng dường. " Khi
được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông hăy
trả lời như vậy cho các vị du sĩ ngoại
đạo ấy.
Này các Gia chủ, nhưng nếu du sĩ ngoại
đạo ấy hỏi các Ông như sau :
"Do căn cứ ǵ về các Tôn giả (ấy), do
truyền thống ǵ, các vị nói về các Tôn giả
ấy như sau : Chắc chắn các Tôn giả ấy là ly
tham, hay đang đi trên con đường điều
phục tham, hay ly sân, hay đang đi trên con
đường điều phục sân, hay ly si, hay đang
đi trên con đường điều phục si ?"
Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông
hăy trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy
như sau : "
Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở
Nagaravinda nói với
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Ví như, Tôn giả Gotama... mong Tôn
giả Gotama hăy nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, chúng con sẽ trọn đời
quy ngưỡng.
151. KINH KHẤT THỰC THANH TỊNH
[^]
(Pindapataparisuddhisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc lâm), tại chỗ nuôi
dưỡng sóc (Kalandakanivapa). Rồi Tôn giả Sariputta vào buổi chiều,
từ Thiền tịnh độc cư đứng
dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi dến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sariputta đang
ngồi một bên:
– Này Sariputta, các căn của Ông rất sáng
suốt, sắc da của Ông thanh tịnh trong sáng.
–
– Lành thay, lành thay !
Này Sariputta, nếu Tỷ-kheo sau khi tư duy
biết rằng : "Trên con
đường ta đă đi vào làng để khất
thực, tại trú xứ ta đă đi khất thực và
trên con đường từ làng ta đi khất thực
trở về, đối với các sắc do mắt
nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si
hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy
phải tinh tấn đoạn tận các ác bất
thiện pháp ấy. Nhưng này Sariputta, nếu Tỷ-kheo
trong khi suy tư được biết như sau : "Trên con đường ta đă
đi.. ta đi khất thực trở về, đối
với các sắc do mắt nhận thức, không có khởi
lên nơi dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này
Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân
hoan, ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư như sau : "Trên con
đường ta đă đi... , ta đi khất thực
trở về đối với các tiếng do tai nhận
thức, ... đối với các hương do mũi
nhận thức, ... đối với các vị do
lưỡi nhận thức, ... đối với các xúc do
thân nhận thức, ... đối với các pháp do ư
nhận thức, có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận
tâm không ?"
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư như sau : "Ta đă
đoạn tận năm dục trưởng dưỡng
chưa ? Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi suy
tư được biết như sau :
"Ta chưa đoạn tận năm dục
trưởng dưỡng", thời này Sariputta,
Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận
năm dục trưởng dưỡng. Nhưng nếu,
này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư được
biết như sau: "Ta đă đoạn tận năm
dục trưởng dưỡng", thời này Sariputta,
Tỷ-kheo ấy phải an trú với
hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư như sau: "Ta đă đoạn tận
năm triền cái chưa ?" Nếu,
này Sariputta, trong khi suy tư, Tỷ-kheo được
biết như sau: "Ta chưa đoạn tận năm
triền cái", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy
phải tinh tấn đoạn tận năm triền cái.
Nhưng nếu, này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư
được biết như sau :
"Ta đă đoạn tận năm triền cái ",
thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với
hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta có liễu tri
năm thủ uẩn chưa ?"
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư như sau : "Ta đă
tu tập bốn niệm xứ chưa ?"
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
bốn chánh cần chưa ? " Nếu...
cần phải tinh tấn tu tập bốn chánh cần.
Nhưng nếu... trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
bốn như ư túc chưa ?" Nếu...
cần phải tinh tấn tu tập bốn như ư túc.
Nhưng nếu... trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
năm căn chưa ?" Nếu... cần phải tinh
tấn tu tập năm căn. Nhưng
nếu... trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
năm lực chưa ?" Nếu... phải tinh tấn tu
tập năm lực . Nhưng
nếu... trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
bảy giác chi chưa ?" Nếu... cần
phải tinh tấn tu tập bảy giác chi. Nhưng
nếu... trong các thiện pháp.
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải
suy tư như sau : "Ta đă tu
tập Thánh đạo Tám ngành chưa ?"
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư : "Ta đă tu tập
chỉ và quán chưa ? "
Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần
phải suy tư như sau : "Ta đă
chứng ngộ minh và giải thoát chưa ? "
Này Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong
thời quá khứ đă làm cho khất thực
được thanh tịnh, tất cả những vị
ấy đă làm cho khất thực được thanh
tịnh bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Này
Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong thời gian
tương lai sẽ làm cho khất thực được
thanh tịnh, tất cả những vị ấy sẽ làm
cho khất thực được thanh tịnh, bằng
cách suy tư, suy tư như vậy. Và này Sariputta, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào trong thơi hiện tại, làm cho khất
thực được thanh tịnh, tất cả
những vị ấy đă làm cho khất thực
được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư
như vậy. Vậy này Sariputta, các Ông cần phải
học tập như sau : "Sau khi suy
tư, suy tư, chúng ta sẽ làm cho khất thực
được thanh tịnh". Này Sariputta, các Ông phải
tu tập như vậy.
152. KINH CĂN TU TẬP [^]
(Indriyabhavannasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở
Kajangala, tại Mukheluvana. Rồi thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ tử
của Pasariya đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào
đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ
tử của Pasariya đang ngồi một bên:
–
– Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pasariya có
thuyết về căn tu tập cho các đệ tử.
– Nhưng này Uttara,
– Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, không nên
thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng với tai. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama,
Bà-la-môn Pasariya thuyết căn tu tập cho các đệ
tử.
– Nếu là như vậy, này Uttara,
Khi được nói vậy, thanh niên Bà-la-môn
Uttara đệ tử của Pasariya ngồi im lặng,
hổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống,
trầm ngâm, không nói năng ǵ.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết được
Uttara, đệ tử của Pasariya im lặng, hổ
thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm
ngâm, không nói năng ǵ, liền gọi Tôn giả Ananda và nói
:
– Này Ananda, Bà-la-môn Pasariya thuyết cho các
đệ tử căn tu tập một cách khác; nhưng
trong giới luật các bậc Thánh, vô thượng căn
tu tập khác như vậy.
–
– Vậy này Ananda, hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta
sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp
–
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo tai nghe
tiếng khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư,
khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ
tri như sau : "Khả ư này khởi
lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư
bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi
lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là
xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất
khả ư, hay khả ư bất khả ư, tất cả
đều đoạn diệt (trong vị ấy), và
xả tồn tại. Này Ananda, như một người
lực sĩ có thể búng tay một cách dễ dàng; cũng
vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là
sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối
với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất khả ư hay
khả ư bất khả ư, (tất cả) đều
đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn
tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy
gọi là vô thượng căn tu tập đối
với các tiếng do tai nhận
thức.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo do mũi
ngửi hương khởi lên khả ư, khởi lên bất
khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị
ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên
nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất
khả này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là
hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an
tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư,
bất khả ư hay khả ư bất khả ư, tất cả
đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả
tồn tại. Này Ananda, như những giọt
nước mưa chảy trượt đi, không có
đọng lại trên một lá sen hơi chúc xuống;
cũng vậy, như vậy là tốc độ, như
vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng
đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất
khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả)
đều đoạn diệt (trong vị ấy), và
xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này
Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu
tập đối với các hương do mũi nhận
thức.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo lưỡi
nếm vị khởi lên khả ư, khởi lên bất
khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị
ấy tuệ tri như sau : "Khả
ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên,
khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này
khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tinh, cái này là thù diệu, tức là
xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư,
bất khả ư, hay khả ư bất khả ư, tất
cả đều đoạn diệt (trong vị ấy) và
xả tồn tại. Này Ananda, như một người
lực sĩ có thể nhổ ra một cách dễ dàng
cục đờm đọng lại trên đầu
lưỡi; cũng vậy, như vậy là tốc
độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là
sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên,
khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư,
(tất cả) đều đoạn diệt (trong vị
ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật
bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô
thượng căn tu tập đối với các vị
do lưỡi nhận thức.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo thân cảm xúc
khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi
lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như
sau : "Khả ư này khởi lên nơi
ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư
này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu
vi nên thô. (Nhưng) cái này là an
tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư,
bất khả ư hay khả ư bất khả ư, tất cả
đều đoạn diệt (trong vị ấy), và
xả tồn tại. Này Ananda, ví như một
người có thể co duỗi cánh tay được co
lại của ḿnh, hay co lại cánh tay duỗi ra của
ḿnh; cũng vậy, như vậy là tốc độ,
như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự
dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả
ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất
cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy)
và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh,
này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu
tập đối với các xúc do thân nhận thức.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo, ư nhận
thức các pháp khởi lên khả ư, khởi lên bất
khả ư. Khởi lên khả ư bất khả ư. Vị
ấy tuệ tri như sau : "khả
ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên,
khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này
khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng)cái này là an tịnh, cái này là thù diệu,
tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ
khởi lên là khả ư, bất khả ư hay khả ư bất
khả ư, tất cả đều đoạn diệt
(trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda,
như một người cho nhỏ hai ba giọt
nước trong một cái chậu bằng sắt đun
nóng mỗi ngày, này Ananda, các giọt nước rơi
rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến
đi rất mau, cũng vậy, như vậy là tốc
độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là
sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên
khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư,
(tất cả) đều đoạn diệt (trong vị
ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật
bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô
thượng căn tu tập đối với các pháp do ư
nhận thức.
Như vậy, này Ananda, là vô thượng căn
tu tập trong giới luật bậc Thánh.
Và này Ananda, thế nào là đạo lộ của
vị hữu học ? Ở đây, này
Ananda, Tỷ-kheo mắt thấy sắc khởi lên khả
ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất
khả ư. V́ rằng có khả ư khởi lên, có bất
khả ư khởi lên, có khả ư bất khả ư khởi
lên, vị ấy ưu năo, tàm quư, ghét bỏ. Sau khi tai nghe
tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, thân cảm xúc, ư nhận thức pháp, vị ấy
khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi
lên khả ư bất khả ư . V́ rằng có
khả ư khởi lên, có bất khả ư khởi lên, có
khả ư bất khả ư khởi lên, vị ấy ưu
năo, tàm quư, ghét bỏ. Như vậy, này
Ananda là đạo lộ của vị hữu học.
Và này Ananda, thế nào là bậc Thánh, các căn
được tu tập ? Ở đây,
này Ananda, sau khi mắt thấy sắc, vị Tỷ-kheo
khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi
lên khả ư bất khả ư. Nếu vị ấy khởi
lên ước muốn : "Mong rằng
tôi an trú với tưởng không yếm ly đối
với (sự vật) yếm ly", thời ở đây,
vị ấy an trú với tưởng không yếm ly.
Nếu vị ấy khởi lên ước muốn
: "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm
ly đối với (sự vật) không yếm ly",
thời ở đây, vị ấy an trú với
tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên
ước muốn; "Mong rằng tôi an
trú với tưởng không yếm ly đối với
(sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm
ly", thời ở đây, vị ấy an trú với
tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên
ước muốn : "Mong rằng tôi
an trú với tưởng yếm ly", đối với
(sự vật) không yếm ly và (sự vật) yếm
ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng
yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi sau khi từ
bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác ", thời ở đây, vị
ấy an trú xả chánh niệm, tỉnh giác.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sau khi tai nghe
tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, thân cảm xúc, ư nhận thức pháp, vị
Tỷ-kheo khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư,
khởi lên khả ư bất khả ư. Nếu vị ấy
khởi lên ước muốn : "Mong
rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly
đối với (sự vật) yếm ly", thời
ở đây, vị ấy an trú với tưởng không
yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng ta an trú với
tưởng yếm ly (đối với sự vật)
không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú
với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi
lên ước muốn : "Mong rằng
tôi an trú với tưởng không yếm ly (đối
với sự vật) yếm ly và (sự vật) không
yếm ly", thời ở đây, vị ấy sống
an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị
ấy khởi lên ước muốn :
"Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly
(đối với sự vật) không yếm ly và sự
vật yếm ly", thời ở đây, vị ấy an
trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy
khởi lên ước muốn : "Mong
rằng tôi, sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không
yếm ly, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác",
thời ở đây, vị ấy an trú xả, chánh
niệm, tỉnh giác.
Như vậy, này Ananda, là bậc Thánh, các căn
được tu tập.
Như vậy, này Ananda, Ta đă giảng vô
thượng căn tu tập trong giới luật bậc
Thánh, đă giảng đạo lộ của bậc
hữu học, đă giảng bậc Thánh, các căn
được tu tập. Này Ananda, những ǵ một
bậc Đạo sư phải làm, v́ ḷng từ mẫn,
mưu cầu hạnh phúc cho các đệ tử, những
điều ấy Ta đă làm cho các Ông. Này Ananda, đây là
những gốc cây, đây là những chỗ trống. Này
Ananda, hăy Thiền tư, chớ có phóng dật, chớ có
hối hận về sau. Đây là những
lời giáo giới của Ta cho các Ông.