Kinh Trung b

HT. Thích Minh Châu dịch


Phần XXXI

(148) Kinh Sáu sáu
(149) Đại kinh Sáu xứ
(150) Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda
(151) Kinh Khất thực thanh tịnh
(152) Kinh Căn tu tập


148. KINH SÁU SÁU [^]

(Chadhakkasuttam)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm) tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Độc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". – "Thưa vâng, Bạch Thế Tôn".

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :

– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm hạnh hoàn toàn viên măn, thanh tịnh, tức là sáu sáu. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :

– Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.

Khi được nói đến "Sáu nội xứ cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Nhăn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ư xứ. Khi được nói đến "Sáu nội xứ cần phải được biết ", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ nhất.

Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ hai.

Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Do duyên ư và do duyên các pháp, khởi lên ư thức. Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ ba.

Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ .

Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ư và do duyên các pháp, khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ năm.

Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Do duyên mắt và duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ sáu.

Nếu ai nói rằng : "Mắt là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của mắt đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Mắt là tự ngă", như vậy không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă. Nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các sắc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă. Nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhăn thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của nhăn thức đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Nhăn xúc là tự ngă, như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhăn xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn xúc là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của thọ đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ái đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Tai là tự ngă"; nếu có ai nói rằng : ""Mũi là tự ngă"; nếu có ai nói rằng : "Lưỡi là tự ngă"; nếu có ai nói rằng : "Thân là tự ngă"; nếu có ai nói rằng : "ư là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ư là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Các pháp là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các pháp đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các pháp là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, ư là vô ngă, các pháp là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ư thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Ư thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă. Nếu có nói rằng : "Ư xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Ư xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng sự sanh.. Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

Này các Tỷ-kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến. Ai quán mắt là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các sắc là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc: "Cái này là của tôi ... là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi... là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi ... là tự ngă của tôi". Ai quán tai : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán mũi : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán lưỡi : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán thân : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán ư : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán các pháp : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán ư thức : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán ư xúc : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này là của tôi.. tự ngă của tôi".

Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Ai quán mắt : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán sắc : "Cái này không phải là của tôi.. không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này không phải của tôi.. không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi... không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán tai : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán mũi : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán lưỡi: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán thân : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán ư: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán các pháp: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán ư thức: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán ư xúc: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi".

Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho ḿnh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

Này các Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra. Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhăn thức; yếm ly nhăn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ư, yếm ly các pháp; yếm ly ư thức, yếm ly ư xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: "Ta đă được giải thoát". Và vị ấy tuệ tri : "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.


149. ĐẠI KINH SÁU XỨ [^]

(Muhasalayatanikasuttam)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Độc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo", – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng Đại Kinh Sáu Xứ. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau :

– Này các Tỷ-kheo, không biết, không thấy như chơn mắt, không biết không thấy như chơn các sắc, không biết không thấy như chơn nhăn thức, không biết không thấy như chơn nhăn xúc; do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, không biết không thấy như chơn cảm thọ ấy, vị ấy ái trước đối với mắt, ái trước đối với các sắc, ái trước đối với nhăn thức, ái trước đối với nhăn xúc. Do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy ái trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tích trữ trong tương lai. Và ái của vị ấy đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m sự hoan lạc chỗ này, chỗ kia; ái ấy được tăng trưởng; những thân ưu năo tăng trưởng; những tâm ưu năo tăng trưởng; những thân nhiệt năo tăng trưởng; những tâm khổ năo tăng trưởng. Vị ấy cảm thọ thân khổ và tâm khổ.

Này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn tai; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn mũi; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn lưỡi; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn thân; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn ư; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn các pháp; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn ư thức; này các Tỷ-kheo, không thấy và không biết như chơn ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; không thấy và không biết như chơn cảm thọ ấy, vị ấy ái trước đối với ư, ái trước đối với pháp, ái trước đối với ư thức, ái trước đối với ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, ... (như trên)... vị ấy cảm thọ thân khổ và tâm khổ.

Này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn mắt, thấy và biết như chơn các sắc, thấy và biết như chơn nhăn thức, thấy và biết như chơn nhăn xúc. Do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy không ái trước đối với con mắt, không ái trước đối với các sắc, không ái trước đối với nhăn thức, không ái trước đối với nhăn xúc. Do duyên nhăn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m sự hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những thân ưu năo của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu năo được đoạn tận; những thân nhiệt năo được đoạn tận; những tâm nhiệt năo được đoạn tận; những thân khổ năo được đoạn tận; những tâm khổ năo được đoạn tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc.

Kiến ǵ như chơn của vị ấy, kiến ấy là chánh kiến. Tư duy ǵ như chơn của vị ấy, tư duy ấy là chánh tư duy. Tinh tấn ǵ như chơn của vị ấy, tinh tấn ấy là chánh tinh tấn. Niệm ǵ như chơn của vị ấy, niệm ấy là chánh niệm. Định ǵ như chơn của vị ấy, định ấy là chánh định. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, sinh mạng của vị ấy được thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh đạo Tám ngành này đi đến tu tập và phát triển sung măn cho vị ấy. Do sự tu tập Thánh đạo Tám ngành này như vậy, bốn niệm xứ đi đến tu tập và phát triển sung măn; bốn chánh tinh tấn cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn; bốn như ư túc cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn; năm căn cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn; năm lực cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn; bảy giác chi cũng đi đến tu tập và phát triển sung măn. Và nơi vị ấy, hai pháp này được chuyển vận song hành: chỉ và quán. Với thượng trí, vị ấy liễu tri những pháp cần phải liễu tri với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy đoạn tận những pháp cần phải đoạn tận với thượng trí. Với thượng trí vị ấy, tu tập những pháp cần phải tu tập với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy chứng ngộ những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải liễu tri với thượng trí ? Cần phải trả lời là năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Những pháp này là những pháp cần phải liễu tri với thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải đoạn tận với thượng trí ? Vô minh và hữu ái, những pháp này cần phải đoạn tận với thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tu tập với thượng trí ? Chỉ và quán, những pháp này cần phải tu tập với thượng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí ? Minh và giải thoát, những pháp này cầu phải chứng ngộ với thượng trí.

Này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn tai; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn mũi; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn lưỡi; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn thân; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn ư; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn các pháp; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn ư thức; này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; thấy và biết như chơn cảm thọ ấy, nên vị ấy không ái trước đối với ư, không ái trước đối với các pháp, không ái trước đối với ư thức, không ái trước đối với ư xúc. Do duyên ư xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy... (như trên)... tâm khổ năo được đoạn tận. Vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc. Kiến ǵ như chơn của vị ấy, kiến ấy là chánh kiến. Tư duy ǵ như chơn của vị ấy... (như trên)... hoạt mạng của vị ấy đi đến thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh đạo Tám ngành này đi đến tu tập và phát triển sung măn cho vị ấy. Do sự tu tập Thánh đạo Tám ngành này như vậy... (như trên)... Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí ? Minh và giải thoát, những pháp này cần phải chứng ngộ với thượng trí.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.


150. KINH NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA [^]

(Nagaravindeyyasuttam)

Như vầy tôi nghe.

Môt thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Nagaravinda. Các Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda được nghe như sau : "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia tộc Sakka (Thích-ca), đang du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo và đă đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Nagaravinda. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama : "Ngài là Đấng Thế Tôn, bậc A-la-hán... được yết kiến một A-la-hán như vậy". Rồi các vị Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên; một số người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người nói lên tên họ trước Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người im lặng ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với những Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda đang ngồi một bên:

Này Gia chủ, nếu những du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau : "Này Gia chủ, hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào không đáng tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường ? Được hỏi vậy này các Gia chủ, các du sĩ ngoại đạo ấy cần được trả lời như sau : "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, ngữ nghiệp, ư nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng. Những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường. V́ sao vậy ? Chúng tôi đối với các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng, nhưng chúng tôi không thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do vậy các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với các tiếng do tai nhận thức, đối với các hương do mũi nhận thức, đối với các vị do lưỡi nhận thức, đối với các xúc do thân nhận thức, đối với các pháp do ư nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường. V́ cớ sao ? Chúng tôi đối với các pháp do ư nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng; nhưng chúng tôi không thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do vậy, các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường". Được hỏi như vậy, này các Gia chủ, các Ông cần phải trả lời như vậy cho các du sĩ ngoại đạo ấy.

Nhưng này các Gia chủ, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau : "Này các Gia chủ, hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường ?" Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau : "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với các sắc do mắt nhận thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp được thăng bằng. Các Sa-môn, Bà-la-môn như vậy đáng được tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường. V́ sao vậy ? Chúng tôi đối với các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp khi th́ thăng bằng, khi không thăng bằng; nhưng chúng tôi có thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do vậy, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với các tiếng do tai nhận thức, đối với các hương do mũi nhận thức, đối với các vị do lưỡi nhận thức, đối với các xúc do thân nhận thức, đối với các pháp do ư nhận thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp được thăng bằng, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường. V́ sao vậy ? chúng tôi đối với các pháp do ư nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tĩnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, khi thăng bằng, khi không thăng bằng, nhưng chúng tôi có thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường. " Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông hăy trả lời như vậy cho các vị du sĩ ngoại đạo ấy.

Này các Gia chủ, nhưng nếu du sĩ ngoại đạo ấy hỏi các Ông như sau : "Do căn cứ ǵ về các Tôn giả (ấy), do truyền thống ǵ, các vị nói về các Tôn giả ấy như sau : Chắc chắn các Tôn giả ấy là ly tham, hay đang đi trên con đường điều phục tham, hay ly sân, hay đang đi trên con đường điều phục sân, hay ly si, hay đang đi trên con đường điều phục si ?" Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông hăy trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như sau : "Các Tôn giả ấy sống tại các trú xứ xa vắng trong các khu rừng nhàn tịnh. Nhưng tại các chỗ như vậy, không có các sắc do mắt nhận thức để họ có thể thấy, và sau khi thấy có ḷng thích thú; nhưng tại các chỗ như vậy, không có các tiếng do tai nhận thức để họ có thể nghe, và sau khi nghe, có ḷng thích thú; nhưng tại các chỗ như vậy, không có hương do mũi nhận thức, để họ có thể ngửi và sau khi ngửi, có ḷng thích thú; nhưng tại các chỗ ấy như vậy không có các vị do lưỡi nhận thức, để họ có thể nếm, và sau khi nếm, có ḷng thích thú; nhưng tại các chỗ như vậy, không có các xúc do thân nhận thức, để họ có thể cảm giác, và sau khi cảm giác, có ḷng thích thú. Chư Hiền giả, do căn cứ này, do những truyền thống này, mà chúng tôi nói về các Tôn giả (ấy) như sau : "Thật vậy, chư Tôn giả ấy ly tham hay đang đi trên con đường nhiếp phục tham, hay ly sân, hay đang đi trên con đường nhiếp phục sân, hay ly si, hay đang đi trên con đường nhiếp phục si". Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông hăy trả lời các du sĩ ngoại đạo như vậy.

Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda nói với Thế Tôn :

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Ví như, Tôn giả Gotama... mong Tôn giả Gotama hăy nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con sẽ trọn đời quy ngưỡng.


151. KINH KHẤT THỰC THANH TỊNH [^]

(Pindapataparisuddhisuttam)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa). Rồi Tôn giả Sariputta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi dến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sariputta đang ngồi một bên:

– Này Sariputta, các căn của Ông rất sáng suốt, sắc da của Ông thanh tịnh trong sáng. Này Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với loại an trú nào ?

Bạch Thế Tôn, con nay đang phần lớn an trú với không trú.

– Lành thay, lành thay ! Này Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với sự an trú của bậc Đại nhân. Này Sariputta, sự an trú của bậc Đại nhân tức là không tánh. Do vậy, này Sariputta, nếu Tỷ-kheo ước mong rằng: : "Mong rằng tôi nay phần lớn an trú với sự an trú không tánh", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau : "Trên con đường ta đă đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đă đi khất thực, và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, tại chỗ ấy, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên ở nơi ta dục, tham, sân si, hay hận tâm không ?"

Này Sariputta, nếu Tỷ-kheo sau khi tư duy biết rằng : "Trên con đường ta đă đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đă đi khất thực và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy. Nhưng này Sariputta, nếu Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau : "Trên con đường ta đă đi.. ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, không có khởi lên nơi dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan, ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau : "Trên con đường ta đă đi... , ta đi khất thực trở về đối với các tiếng do tai nhận thức, ... đối với các hương do mũi nhận thức, ... đối với các vị do lưỡi nhận thức, ... đối với các xúc do thân nhận thức, ... đối với các pháp do ư nhận thức, có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận tâm không ?"

Này Sariputta, nếu Tỷ-kheo trong khi suy tư biết được như sau : "Trên con đường ta đă đi... , ta đi khất thực trở về, đối với các pháp do ư nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si, hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy. Nhưng này Sariputta, nếu Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau : "Trên con đường ta đă đi... ta đi khất thực trở về, đối với các pháp do ư nhận thức, không có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau : "Ta đă đoạn tận năm dục trưởng dưỡng chưa ? Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi suy tư được biết như sau : "Ta chưa đoạn tận năm dục trưởng dưỡng", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận năm dục trưởng dưỡng. Nhưng nếu, này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau: "Ta đă đoạn tận năm dục trưởng dưỡng", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau: "Ta đă đoạn tận năm triền cái chưa ?" Nếu, này Sariputta, trong khi suy tư, Tỷ-kheo được biết như sau: "Ta chưa đoạn tận năm triền cái", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận năm triền cái. Nhưng nếu, này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau : "Ta đă đoạn tận năm triền cái ", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta có liễu tri năm thủ uẩn chưa ?" Này Sariputta, nếu trong khi suy tư, Tỷ-kheo được biết như sau : "Ta chưa có liễu tri năm thủ uẩn", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tán liễu tri năm thủ uẩn. Nhưng nếu, này Sariputta, trong khi suy tư, Tỷ-kheo ấy được biết như sau : "Ta đă liễu tri năm thủ uẩn", thời này Sariputta, vị Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau : "Ta đă tu tập bốn niệm xứ chưa ?" Này Sariputta, nếu trong khi suy tư, Tỷ-kheo được biết : "Ta chưa tu tập bốn niệm xứ", thời này Sariputta, vị Tỷ-kheo cần phải tinh tấn tu tập bốn niệm xứ. Nhưng nếu, này Sariputta, trong khi suy tư Tỷ-kheo được biết như sau : "Ta đă tu tập bốn niệm xứ ", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập bốn chánh cần chưa ? " Nếu... cần phải tinh tấn tu tập bốn chánh cần. Nhưng nếu... trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập bốn như ư túc chưa ?" Nếu... cần phải tinh tấn tu tập bốn như ư túc. Nhưng nếu... trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập năm căn chưa ?" Nếu... cần phải tinh tấn tu tập năm căn. Nhưng nếu... trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập năm lực chưa ?" Nếu... phải tinh tấn tu tập năm lực . Nhưng nếu... trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập bảy giác chi chưa ?" Nếu... cần phải tinh tấn tu tập bảy giác chi. Nhưng nếu... trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau : "Ta đă tu tập Thánh đạo Tám ngành chưa ?" Nếu Tỷ-kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau : "Ta chưa tu tập Thánh đạo Tám ngành, " thời này Sariputta Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập Thánh đạo Tám ngành. Nhưng nếu, này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau: "Ta đă tu tập Thánh đạo Tám ngành, " thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú trong hỷ và hân hoan, ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư : "Ta đă tu tập chỉ và quán chưa ? " Nếu Tỷ-kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau : "Ta chưa tu tập chỉ và quán ", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập chỉ và quán. Nhưng nếu, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau : "Ta đă tu tập chỉ và quán ", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan, ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Lại nữa, này Sariputta, Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau : "Ta đă chứng ngộ minh và giải thoát chưa ? " Nếu Tỷ-kheo, này Sariputta, trong khi suy tư được biết như sau : "Ta chưa chứng ngộ minh và giải thoát", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn tu tập minh và giải thoát. Nhưng nếu, này Sariputta, Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau: "Ta đă chứng ngộ minh và giải thoát ", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.

Này Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong thời quá khứ đă làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đă làm cho khất thực được thanh tịnh bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Này Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong thời gian tương lai sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Và này Sariputta, những Sa-môn, Bà-la-môn nào trong thơi hiện tại, làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đă làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Vậy này Sariputta, các Ông cần phải học tập như sau : "Sau khi suy tư, suy tư, chúng ta sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh". Này Sariputta, các Ông phải tu tập như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Sariputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.


152. KINH CĂN TU TẬP [^]

(Indriyabhavannasuttam)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Kajangala, tại Mukheluvana. Rồi thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ tử của Pasariya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ tử của Pasariya đang ngồi một bên:

Này Uttara, Bà-la-môn Pasariya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử không ?

– Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pasariya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử.

– Nhưng này Uttara, Bà-la-môn Pasariya thuyết về căn tu tập cho các đệ tử như thế nào ?

– Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, không nên thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng với tai. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pasariya thuyết căn tu tập cho các đệ tử.

– Nếu là như vậy, này Uttara, theo như lời nói của Bà-la-môn Pasariya, người mù sẽ là người có căn tu tập, người điếc sẽ là người có căn tu tập. Này Uttara, người mù không thấy sắc với mắt, người điếc không nghe tiếng với tai.

Khi được nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Uttara đệ tử của Pasariya ngồi im lặng, hổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng ǵ.

Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Uttara, đệ tử của Pasariya im lặng, hổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng ǵ, liền gọi Tôn giả Ananda và nói :

– Này Ananda, Bà-la-môn Pasariya thuyết cho các đệ tử căn tu tập một cách khác; nhưng trong giới luật các bậc Thánh, vô thượng căn tu tập khác như vậy.

Bạch Thế Tôn, nay đă đến thời ! Bạch Thiện Thệ nay đă đến thời để Thế Tôn thuyết vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh. Sau khi nghe Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo sẽ thọ tŕ.

– Vậy này Ananda, hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

Này Ananda, thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh ? Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo, mắt thấy sắc, khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vị nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên, dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư hay khả ư và bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do mắt nhận thức.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo tai nghe tiếng khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư, hay khả ư bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người lực sĩ có thể búng tay một cách dễ dàng; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các tiếng do tai nhận thức.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo do mũi ngửi hương khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Này Ananda, như những giọt nước mưa chảy trượt đi, không có đọng lại trên một lá sen hơi chúc xuống; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các hương do mũi nhận thức.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo lưỡi nếm vị khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tinh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư, hay khả ư bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Này Ananda, như một người lực sĩ có thể nhổ ra một cách dễ dàng cục đờm đọng lại trên đầu lưỡi; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các vị do lưỡi nhận thức.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo thân cảm xúc khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "Khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, ví như một người có thể co duỗi cánh tay được co lại của ḿnh, hay co lại cánh tay duỗi ra của ḿnh; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên, khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các xúc do thân nhận thức.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo, ư nhận thức các pháp khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư. Khởi lên khả ư bất khả ư. Vị ấy tuệ tri như sau : "khả ư này khởi lên nơi ta, bất khả ư này khởi lên, khả ư bất khả ư này khởi lên. Cái này khởi lên, v́ là hữu vi nên thô. (Nhưng)cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái ǵ khởi lên là khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người cho nhỏ hai ba giọt nước trong một cái chậu bằng sắt đun nóng mỗi ngày, này Ananda, các giọt nước rơi rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến đi rất mau, cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái ǵ đă khởi lên khả ư, bất khả ư hay khả ư bất khả ư, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các pháp do ư nhận thức.

Như vậy, này Ananda, là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh.

Và này Ananda, thế nào là đạo lộ của vị hữu học ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo mắt thấy sắc khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. V́ rằng có khả ư khởi lên, có bất khả ư khởi lên, có khả ư bất khả ư khởi lên, vị ấy ưu năo, tàm quư, ghét bỏ. Sau khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ư nhận thức pháp, vị ấy khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư . V́ rằng có khả ư khởi lên, có bất khả ư khởi lên, có khả ư bất khả ư khởi lên, vị ấy ưu năo, tàm quư, ghét bỏ. Như vậy, này Ananda là đạo lộ của vị hữu học.

Và này Ananda, thế nào là bậc Thánh, các căn được tu tập ? Ở đây, này Ananda, sau khi mắt thấy sắc, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn; "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly", đối với (sự vật) không yếm ly và (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác ", thời ở đây, vị ấy an trú xả chánh niệm, tỉnh giác.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ư nhận thức pháp, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ư, khởi lên bất khả ư, khởi lên khả ư bất khả ư. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng ta an trú với tưởng yếm ly (đối với sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly (đối với sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy sống an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly (đối với sự vật) không yếm ly và sự vật yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn : "Mong rằng tôi, sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác", thời ở đây, vị ấy an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.

Như vậy, này Ananda, là bậc Thánh, các căn được tu tập.

Như vậy, này Ananda, Ta đă giảng vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh, đă giảng đạo lộ của bậc hữu học, đă giảng bậc Thánh, các căn được tu tập. Này Ananda, những ǵ một bậc Đạo sư phải làm, v́ ḷng từ mẫn, mưu cầu hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy Ta đă làm cho các Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những chỗ trống. Này Ananda, hăy Thiền tư, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là những lời giáo giới của Ta cho các Ông.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.